MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ OCTAVIO PAZ – CHỦ NHÂN GIẢI NOBEL
VĂN HỌC NĂM 1990.............................................................................................1
1.1. Về tiểu sử và con người..............................................................................1
1.2. Octavio Paz và những quan niệm về thơ..................................................2
1.3. Một số tác phẩm tiêu biểu..........................................................................2
CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐIỂM GẶP GỠ CUẢ ĐÔNG – TÂY TRONG THƠ
OCTAVIO NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG...........................................4
2.1. Dấu ấn Đông Tây hội ngộ trong hệ đề tài, chủ đề......................................4
2.2. Dấu ấn Đông – Tây hội ngộ trong quan niệm về con người......................7
2.3. Dấu ấn Đông – Tây hội ngộ trong cảm hứng sáng tác.............................10
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐIỂM GẶP GỠ CỦA ĐÔNG – TÂY TRONG THƠ
OCTAVIO NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT...................................14
3.1. Thể thơ tự do................................................................................................14
3.2. Ngôn ngữ phóng khoáng, tự do..................................................................16
3.3. Không gian bóng đêm và thời gian vô thường..........................................17
3.4. Giọng điệu từ trầm buồn đến hào hứng mê say.......................................19
KẾT LUẬN............................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................22
CHƯƠNG 1
VÀI NÉT VỀ OCTAVIO PAZ – CHỦ NHÂN
GIẢI NOBEL VĂN HỌC NĂM 1990
1.1. Về tiểu sử và con người
Octavio Paz Lozano (1941-1998) sinh ra tại thành phố Mexico, là con một nhà
báo nổi tiếng tên Octavio Paz Solorno. Từ nhỏ ông đã đọc các tác phẩm của văn
học thế giới, năm 10 tuổi ông đã in thơ, năm 19 tuổi xuất bản tập thơ Luna
Silvestre (Vầng trăng màu ánh bạc) khi đang học luật tại Đại học Quốc gia Mexico.
Năm 22 tuổi, ông sang Tây Ban Nha hoạt động xã hội, viết bài chống phát xít,
năm 1939 trở về Mexico viết báo và đấu tranh cho quyền lợi người lao động.
Năm 1934, ông sang nghiên cứu văn hóa Mỹ với tư cách nghiên cứu sinh được
học bổng của tổ chức Guggenheim. Thời kì này Oztavio Paz cho ra đời những tập
thơ trữ tình đầy chất trí tuệ, hình tượng ẩn dụ như Raiz del hombre (Cội rễ con
người), Entre la piedra y flora ( Giữa đá và hoa), Libretad bajo palabra (Tự do
dưới lời thề),…
Năm 1945, ông bắt đầu hoạt động ngoại giao ở Liên Hiệp Quốc, làm đại sứ tại
Pháp, Nhật Bản, Ấn Độ,…Năm 1968, ông từ chức để phản đối chính quyền
Mexico đàn áp sinh viên, trở về nước tiếp tục viết văn.
Năm 1972, Octavio Paz trở thành thành viên Viện Hàn lâm Mexico.
Năm 1981 được trao giải Miguel de Cervantes.
Ông được tặng giải Jerusalem năm 1977, giải văn học quốc tế Neustadt năm
1982, giải Hòa bình của ngành kinh doanh sách Đức năm 1984.
Năm 1984, nhà nước Mexico tổ chức mừng thọ ông kéo dài 5 ngày liên tục.
Octavio Paz là nhà văn viết nhiều về những vấn đề của văn hóa, văn học, những
suy ngẫm của ông được viết bằng một ngôn ngữ phóng khoáng, mang đậm chất thơ
ca, hướng về quá khứ lịch sử và cuộc sống của ngày hôm nay. Ông được đánh giá
là một trong những nhà thơ uy tín nhất viết bằng tiếng Tây Ban Nha.
1
Năm 1990, ông được trao giải Nobel với toàn thể 15 phiếu đồng tình, một điều
chưa từng thấy trong lịch sử giải.
Năm 1998, Octavio Paz mất tại Mexico.
1.2. Octavio Paz và những quan niệm về thơ
Thơ của Octavio Paz có cái lãng mạn của thơ cổ điển nhưng cũng có cái dữ dội,
cái đột phá của thơ hiện đại phản ánh đời sống với muôn ngàn cung bậc gia điệu
khác nhau.
Nhà phê bình Ramón Xirau nhận xét về thơ ông: “Thơ của Octavio Paz không
lập lờ giữa lời nói và im lặng; nó đưa đến một địa hạt của sự im lặng mà ở đó lời
nói được cất lên.”
Octavio Paz quan niệm thơ “vừa là hình ảnh vừa là im lặng” và trong một bài
phát biểu của mình, ông quan niệm thơ là “giọng nói khác”.
1.3. Một số tác phẩm tiêu biểu
-
Tập thơ Vàng trăng màu ánh bạc (Luna Silvestre, 1933), thơ.
-
Cội rễ con người (Raiz del hombre, 1937), thơ.
-
Giữa đá và hoa (Entre la piedra y flor, 1941), thơ.
-
Tự do dưới lời thề (Libretad bajo palabra, 1948), thơ.
-
Mê cung của nỗi cô đơn (El laberinto de la soledad, 1950), biên khảo
-
Chim đại bàng hay mặt trời (Aguila o sol, 1951), thơ.
-
Cây cung và đàn Lyre (El arco y la lira, 1956), biên khảo về thơ
-
Bóng mát cây du (Las peras del olmo, 1957), phê bình văn học.
-
Đá mặt trời (Piedra del sol, 1957), trường ca.
-
Salamandra (1962), thơ.
-
Dòng điện xoay chiều (Corriente alterna, 1967), tiểu luận.
-
Blanco (1967), thơ.
2
-
Miền dốc phía Đông (East slope, 1968), thơ.
-
Lâu đài thanh khiết (El castillo de la pureza, 1968), tiểu luận.
-
Bờ phía Đông (Ladera Este, 1969), thơ.
-
Lúa mạch (La centena, 1969), thơ.
-
Những dòng tái bút (Posdata, 1970), khảo cứu.
-
Các hình thể (Topoemas, 1971), thơ.
-
Những đứa trẻ bùn lầy (Los hijos del limo, 1974), tiểu luận.
-
Nhà ngữ pháp khỉ (El mono gramatico, 1974), thơ.
3
CHƯƠNG 2
NHỮNG ĐIỂM GẶP GỠ CỦA ĐÔNG – TÂY TRONG
THƠ OCTAVIO PAZ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1. Dấu ấn Đông Tây hội ngộ trong hệ đề tài, chủ đề
Đề tài là phạm vi hiện thực mà nhà văn lựa chọn và miêu tả, thể hiện tạo thành
chất liệu của thế giới hình tượng trong tác phẩm đồng thời là cơ sở để từ đó nhà
văn đặt ra những vấn đề mà mình quan tâm. Có thể nói đề tài là khái niệm trung
gian giữa thế giới hiện thực được thẩm mĩ hóa trong tác phẩm và bản thân đời
sống.
Chủ đề là vấn đề trung tâm chủ yếu, là phương diện chính yếu của đề tài. Nói
cách khác chủ đề là những vấn đề được nhà văn soi rọi, tô đậm, nêu lên trong tác
phẩm mà nhà văn cho là quan trọng nhất.
2.1.1. Về đề tài tình yêu
Trong thơ Octavio Paz, ông hay nói nhiều về tình yêu, vì tình yêu là ngọn lửa
của đời sống. Octavio Paz nói đến tình yêu như đó là sự giải tỏa sự cô đơn, sự bế
tắc của con người và trong tình yêu đó bao gồm cả tính dục.
Ví dụ: “Một cô gái và một chàng trai / Ăn cam và trao nhau nụ hôn / như
những ngọn sóng trao nhau bọt sóng trắng” (Những người yêu nhau). Hay bài
thơ Thân thể phô bày: “Suối tóc của em rừng rậm mùa thu với những dòng nước
mặt trời lấp lóa / Miệng em và hàm răng trắng xóa… /Môi anh chỉ quen với miền
thung lung / Hẽm đầy trăng giữa hai bầu vú nhô lên”. Và điều này ta bắt gặp trong
nghệ thuật của Ấn Độ cổ đại cũng xuất hiện đầy những yếu tố táo bạo gợi tình, đầy
huyền bí sắc dục vẫn còn phơi bày lồ lộ ở Ajanta, Kailasa, Khajuraho... tràn dâng
nhựa sống, phát tiết nhựa tình. Còn ở trong thơ ca Nhật Bản, âm linh hòa lẫn sắc
dục cũng là điều ta thường bắt gặp trong công án và thơ thiền, đặc biệt là Zen với
trường hợp thiền sư Ikkyu thế kỷ mười lăm. Ikkyu tìm thấy trong Thiền “cuộc tái
sinh của tinh hoa sự sống và xác định lại ý nghĩa của hiện hữu con người”
(Kawabata Yasunari): “ Khi khát hay khi lạnh / nước và lửa ước ao / Còn tôi, bầu
ngực nàng nóng / và nước nàng khát khao!”.
4
2.1.2. Về đề tài tôn giáo
Đề tài thứ hai đó là tôn giáo. Thơ Octavio nói đến tôn giáo như một điểm nhấn
tâm linh trong bài thơ đó là Thiên Chúa giáo hay những con chiên đầu tiên của
Ngài. Chẳng hạn như bài Cây thánh giá được họa cùng mặt trời và mặt trăng:
“Giữa hai cánh tay thánh giá này
những con chim xây tổ
Adam, mặt trời và Eva, mặt trăng”.
Và điều này ta có bắt gặp trong thơ của Federico García Lorca nhà thơ Tây Ban
Nha với bài Bài ca của mẹ anh cay đắng:
“Cây thập tự. Và mau lên nào!
Thủa ấy nó da nâu và cay đắng
Hỡi các chị láng giềng, hãy cho tôi
một hũ bằng thau đựng nước chanh
Cây thập tự. Và đừng khóc nữa
Cay đắng đã ở trên cung trăng”.
Các hình ảnh của Phật giáo Tây Tạng hay của Hin-đu giáo được đề cập trong
thơ của ông như bài Coda:
“Có lẽ yêu là học cách
Bước đi trên thế giới này
Học cách im lặng…
Học cách nhìn”.
Điểm này Octavio Paz đã gần với đạo Phật khi Phật giáo đề cao sự tỉnh thức để
nhìn nhận bản thân và thế giới sự vật. Hay: “những kẻ chết đang sống…./ Những
kẻ sống đang chết../ Khao khát hơn cả sự phục sinh…thời gian quay và quay,
không ngừng trôi qua / Không có gì trôi qua nếu thời gian ngừng trôi” (Đêm
5
trắng) vừa mang tính vô thường của Phật giáo vừa nói đến sự phục sinh của con
người theo tư tưởng của đạo Thiên Chúa.
2.1.3. Về đề tài thiên nhiên
Đề tài thứ ba mà ta thường thấy trong thơ của Octavio Paz đó là thiên nhiên.
Thơ ông xuất hiện nhiều về hình ảnh thiên nhiên. Thiên nhiên là một đối tượng để
diễn bày những mạch cảm xúc. Điển hình như:
“Côn trùng giữa trái đất, giữa những hòn đá
Dưới cùng ánh sáng ấy là đá”.
(Con chim)
Hay:
“Lũ khỉ lũ chim những kẻ trộm quả, nhả hạt
Trong tán lá một cây cổ thụ
Chiếc áo thùng thình, tràn trề màu xanh và tiếng động”.
(Cây sung sùng kính)
Về điểm này ở phương Đông ta biết đến các bài thơ Đường hay thơ Haicư của
Basho, thơ Sijo của Hàn Quốc, nơi ấy con người là những tâm hồn có tình cảm với
thiên nhiên rất sâu nặng. Ví dụ như bài Gác tranh của Đỗ Phủ:
“Sông đêm rồng, cá lượn quanh
Rừng thu rung động trước mành trăng sao
Sương sa đầm ướt lúc nào
Vẩn vơ mây mỏng bay cao lưng trời”.
Còn ở phương Tây tuy họ xem con người là chủ thể của vật chất nhưng yếu tố
thiên nhiên ta vẫn thấy rất nhiều. Ví dụ: ở Bài ca khát vọng đầu tiên của Lorca.
Hay thơ của Juan Ramón Jiménez, ông chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn
Đức và chủ nghĩa tượng trưng Pháp, giàu cảm xúc trữ tình với những hình tượng
thiên nhiên đầy màu sắc.
6
2.2. Dấu ấn Đông – Tây hội ngộ trong quan niệm về con người
2.2.1. Kiểu con người cô đơn
Trong những chủ đề mà Octavio Paz thường sáng tác, chúng ta thấy rằng con
người cô đơn là kiểu con người đặc trưng nhất. Paz cho rằng cô đơn là một sự kiện
uyên nguyên của thân phận người. Chỉ con người là sinh vật duy nhất biết hắn cô
đơn và cũng chỉ có hắn mới là kẻ luôn thôi thúc bản thân tìm kiếm tri kỷ. Bởi lẽ
con người luôn muốn hiện thực hóa chính hắn thành tri kỷ nên hắn “không có” bản
tính người đúng nghĩa nữa. Con người là kẻ hoài hương và luôn tìm kiếm sự liên
lạc. Vì thế khi hắn nhận thức về chính hắn thì là khi mà hắn nhận ra sự thiếu vắng
tri kỷ của hắn, đó chính là nỗi cô đơn.
Chẳng hạn như bài Bằng hữu:
“Đêm tối biến khung cửa sổ thành vô hạn
Không có ai ở đây
Quanh tôi chỉ là những hiện hữu vô danh”.
Hoặc bài Kẻ xa lạ:
“ ..khốn khổ rỗng tuếch
Những gì mang mặt nạ..
Nơi lãng quên vô hạn mang nhịp đập phập phồng
Nó đến cám dỗ vô cùng
Để rồi bị mất đi trong cuộc chiến khô cằn của nó”.
“Tâm trí của hắn luôn luôn chạy qua những căn phòng vắng vẻ bóng người....
Hắn bước đi cô độc, không mệt mỏi, tồn tại vĩnh viễn
bị giam giữ trong vô tận / một tư tưởng cô độc
một bóng ma kiếm tìm một thân thể
không đói từ hiện trạng nhưng đói từ trống rỗng”.
7
Cô đơn ở đây là một đặc điểm của chủ nghĩa hiện sinh (một trào lưu xuất hiện
đầu tiên ở Pháp) khi con người cảm thấy đang bị bỏ rơi trong nỗi cô đơn giữa cái
hiện hữu thù nghịch, cuộc đời chỉ là một sự vô nghĩa.
Trong nền văn học phương Tây nói về nỗi cô đơn, ta bắt gặp điều này trong thơ
của các nhà thơ theo chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa lãng mạn, điển hình như trong
bài thơ Souvenir (Vô vọng) của Lamartine hay câu nói của nhà văn
Chateaubriand:“Nỗi cay đắng mà tình trạng đó phủ lên cuộc đời là không thể
tưởng tượng được…nỗi lo âu thầm kín”. Hay thông qua Werther, René, những nhân
vật của Byron, những nhân vật lãng mạn như Hernani, Antony, Chatterion hay là
Olympio và Rolla.
Còn trong văn học phương Đông ta bắt gặp trong thơ Đỗ Phủ những trang thơ
nhấn chìm trong không khí u uất bởi tiếng khóc và nước mắt trong thơ của một con
người “Tiên ưu hậu lạc”. Hay thơ Lý Bạch, thơ văn của Kawabata Yasunari cũng
đều có nhuốm màu cô đơn. Và trong thơ Targo nhà thơ đạt giải Nobel của Ấn Độ
cũng có màu sắc như thế.
2.2.2. Con người với bản năng tính dục
Ở trong thơ Octavio Paz ta tìm thấy rất nhiều bài thơ mang tính dục, đó là tính
dục bản năng của con người. Nhưng vì đâu lại như thế? Điều đó xuất phát từ
những trường phái như chủ nghĩa hiện sinh hay chủ nghĩa tượng trưng mà ông đã
từng bị ảnh hưởng. Và đối với vấn đề này Freud đã từng nói: “Trong sáng tạo văn
học đó là trạng thái thăng hoa (sublimation) những sự dồn nén tính dục (mặc cảm
Oedipe) do không được thỏa mãn trong thực tế nên đã tìm đến những hình tượng
biểu trưng để tự thỏa mãn” và trong thơ của Octavio Paz được thể hiện như sau:
“Giữa hai chân em một giếng nước ngủ im lìm
Đó là vịnh, nơi biển đêm lặng ngừng
Là con ngựa đen sùi bọt mép
Là hang động dưới chân núi giấu đầy báu vật
Là miệng bếp lò nướng bánh tế thần tiên
Là đôi môi mỉm cười ác độc của em”.
8
(Thân thể phô bày)
Hay bài Hai thân thể:
“Hai thân thể kề bên
tựa hồ như hai ngọn sóng
Giữa biển, trời đêm
Hai thân thể kề bên
như hai gốc rễ”.
Điều này gần với hình ảnh trong thơ của Paul Eluard (nhà thơ người Pháp). Khi
với ông, hình ảnh trong thơ là một thực tại sống động đang sinh sôi, đang tìm kiếm
hay gặp lại hình dạng, màu sắc của mình. Và đó tư tưởng của chủ nghĩa siêu thực:
“Cố gắng diễn tả tiềm thức bằng cách trình bày các vật thể và sự việc như được
thấy trong những giấc mơ”.
Điều này ta từng biết đến Targo nhà thơ Ấn Độ cũng đã từng thừa nhận trong
thiên Vãn ca của mình, gửi gắm những si mê với bà chị dâu. Hay Rousseau cũng
đã thừa nhận trong tiểu thuyết Nàng Eloido mới, tuy tả mối tình say đắm giữa
Giuyly và Xanhprơ nhưng nhà văn cũng vô tình xen vào đó những xung đột tính
dục của bản thân, từ sinh lý đến tâm lý để dẫn dắt câu chuyện.
2.2.3. Con người với hoài niệm văn hóa
Từ sự cô đơn đi đến hiện thực hóa, thơ của Octavio Paz thường hay nói đến văn
hóa cổ xưa như là một sự gợi nhớ về những cái đẹp đã bị phai nhạt theo thời gian
và nay nó hiện lên trên những trang thơ của ông. Chẳng hạn qua bài thơ Maithuna,
Octavio Paz đã nhắc đến hai biểu tượng của văn hóa phương Đông và phương Tây
đó là “Maithuna” đây là cặp uyên ương trong văn hóa thờ cúng của người Ấn Độ.
Theo họ đây là một trong những con đường để đạt đến Thượng đế, sự hòa nhập thể
xác dần đến con người về nguồn sáng. Và tên một tỉnh của nước Pháp “Bourgone”
nằm ở lưu vực sông Seine nơi sản xuất những loại rượu vang hảo hạng nổi tiếng
nhất thế giới. Hoặc bài thơ Mặt nạ của thần Tlalos được chạm trên đá thạch
anh trong suốt nhắc đến thần Talos trong thần thoại Hi lạp là tạo vật có hình dáng
giống như robot đầu tiên trong thần thoại loài người:
9
“Nước đã hóa thành đá
Thần Tlalos ngủ bên trong
Mộng mơ giữa bão giông”.
Đây là một đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn khi con người cảm thấy cô đơn
lạc lõng với xã hội, không tìm được tiếng nói chung, con người có khuynh hướng
hoài niệm về những cái đã xa.
2.3. Dấu ấn Đông – Tây hội ngộ trong cảm hứng sáng tác
Cảm hứng sáng tác chỉ cho trạng thái xuất thần, hưng phấn, một tình cảm nồng
nàn, sâu sắc khi nhà văn sáng tạo tác phẩm. Phùng Quý Nhân gọi đó là thái độ tư
tưởng - tình cảm đối với những vấn đề được miêu tả.
Cảm hứng sáng tác chủ yếu được thể hiện thông qua hình tượng nghệ thuật, tính
cách sự miêu tả, chứ không phải qua cái loa phát ngôn của họ.
2.3.1. Cảm hứng xuất phát từ vẻ đẹp hình thể con người
Thơ của Octavio Paz có cái lãng mạn của thơ cổ điển nhưng cũng có cái dữ dội,
cái đột phá của thơ hiện đại phản ánh đời sống với muôn ngàn cung bậc giai điệu
khác nhau. Như đã trình bày ở trên gam màu chủ đạo trong thơ của Octvio Paz là
gam màu buồn, nổi buồn u uất, nhưng trong đó vẫn xen kẻ với những gam màu
tươi sáng qua những bài thơ nói về thiên nhiên. Octavio Paz lấy vẻ đẹp hình thể
con người làm cảm hứng sáng tác, để ca ngợi vẻ đẹp tự nhiên của con người:
“Mái tóc, cả một rừng thu đó
đôi hàm răng nhấp nhánh cỏ thơm nồng
Những đốm xanh lấp lánh mình em
như thân cây nhú ngàn chồi biếc”.
(Tôi viết bằng mực xanh)
10
Hay bài thơ Thân thể phô bày miêu tả:
“Hẻm đầy trăng giữa hai bầu vú nhô lên
Bụng của em là một vùng cao nguyên
Gáy là thác nước đã hóa thành thác đá
Đôi mắt của em như mắt hổ gườm gườm
Lưng em…tựa như lưng sông trong lửa cháy phập phồng
Móng chân của em như ánh thủy tinh mùa hạ
Giữa hai chân em một giếng nước ngủ im lìm”.
Và điều này rất gần với nghệ thuật phục hưng ở Ý (sau này lan ra cả châu Âu)
khi ở đó họ cho rằng “Con người là kiểu mẫu là kích thước để đo lường vạn sự
vạn vật”, “Có những thân xác tựa như những đóa hoa / Những thân xác khác tựa
như những lưỡi dao găm / Những thân xác khác tựa như những dải nước” ( Có
những thân xác tựa như đóa hoa ) của Juan Ramon Jimenez. Hay của Luis
Miguel “ Khi mặt trời sưởi ấm / trên bãi biển này / sát mình anh / thân em kích
động / ngực em phập phồng” (nhà thơ ở Puerto Rico).
2.3.2. Cảm hứng xuất phát từ vẻ đẹp thiên nhiên
Thứ hai đó là lấy vẻ đẹp thiên nhiên làm cảm hứng sáng tác. Đa dạng về cách
miêu tả vẻ đẹp tự nhiên như thơ Đường, Octavio Paz nói đến thiên nhiên dưới mọi
góc độ tự nhiên của nó:
“Lũ khỉ, lũ chim, những kẻ trộm quả, nhả hạt
trong tán lá một cây cổ thụ
chiếc áo rộng thùng thình, tràn trề màu xanh và tiếng động
cái giếng thẳm sâu đến rợn người…”.
(Cây sung sùng kính )
Bên cạnh đó có những bài thơ nói về thiên nhiên như tự tình, như nhà thơ đang
nói về những cái hiện hữu xung quanh:
11
“Nước bào rỗng đá
gió thổi tung nước
đá cầm chân gió
Nước, gió, đá”.
(Gió, nước, đá)
“Cao tít tận trên kia, ở đó
đã kéo căng hết cỡ sợi âm thanh
nhún nhảy, hót vang - một con chim nhỏ”.
(Cành cây)
Về cách sử dụng thiên nhiên làm cảm hứng sáng tác như trên thì ta điều có thể
bắt gặp những sáng tác ở phương Đông hay phương Tây như:
“Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc
Một hàng cò trắng vút trời xanh
Ngàn năm tuyết núi song in sắc”.
(Tuyệt cú – Đỗ Phủ)
Hay bài thơ Vọng lư sơn bộc bố của Lý Bạch:
“Nắng chiếu Hương Lô sinh ra khói tía
Xa trông thác treo trước dòng song
Nước bay thẳng xuống ba ngàn thước
Tưởng là Ngân Hà tuột khỏi chín tầng trời cao”.
Hoặc bài Chỉ có tình em và nước của Pablo Garcia Baena:
“Tháng Mười trên dòng song
đẫm những chùm sáng ánh vàng của buổi chiều tà
12
và vành trăng khả ố lúc này đang lên, thật trong
xua đuổi những bông hoa tím đen đen của bóng tối
Lạc lõng, tôi đắm chìm trong một biển thèm muốn
quáng mù vì màn sương êm dịu của tóc em”.
Như vậy các nhà thơ dù phương Đông hay phương Tây khi nói về thiên nhiên
dường như đều diễn tả tâm trạng của mình qua bài thơ và điều này trong thơ
Octavio Paz cũng như vậy.
13
CHƯƠNG 3
NHỮNG ĐIỂM GẶP GỠ CỦA ĐÔNG – TÂY TRONG
THƠ OCTAVIO PAZ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1. Thể thơ tự do
Thơ của Octavio Paz chịu ảnh hưởng của nhiều thể loại thơ khác nhau từ thơ
Đường của Trung Quốc, thơ Haiku (Basho) của Nhật Bản hay thơ Sijo của Hàn
Quốc.
Thơ Haiku bản chất là loại thơ ca không bờ cõi, mở cho tất cả mọi người, mọi
xứ và mở cho tất cả các đề tài, mọi phong cách, mọi ngôn ngữ. Do đó thơ Haiku dễ
dàng hòa nhập với mọi nền văn hóa, cả Đông lẫn Tây.
Khi viết về Haiku, nhà thơ Octavio Paz cho rằng nghệ thuật thơ haiku cũng
giống như vườn đá ở chùa Kyoanji lừng danh: “nó mời ta tái sắp đặt vườn đá ấy
và mở ra cho chúng ta những cánh cửa tham chiếu”. Cũng giống như nhà thơ
Basho, thơ của Octavio Paz cũng thể hiện hành trình tâm linh và cái đồng cảm với
vũ trụ, thiên nhiên. Paz từ cái nhìn hiện đại, đã vô hình trung kế tục và phóng mở
tư tưởng của Basho. Chống lại sự lãng quên thơ ca và lãng quên thiên nhiên, thi
hào Nhật Bản kêu gọi “làm bạn với bốn mùa” và “đón nhận thiên nhiên quay về
với tạo hóa”.
Về hình thức, thơ của Paz cũng giống như thơ haiku của Basho, cũng có 3 dòng
thơ. Thơ của Paz cũng giống thơ của Basho là nói về thiên nhiên, hành trình tâm
linh .Ví dụ: bài thơ Cây thánh giá được họa cùng mặt trời và mặt trăng:
“Giữa hai cánh tay thánh giá này
những con chim xây tổ
Adam, mặt trời và Eva, mặt trăng”.
Bài thơ Hoa:
“Tiếng gào, cái mỏ, chiếc răng, những tiếng sủa
cái hư vô khát máu và sự hỗn mang
14
thảy đều tan hoang trước bông hoa giản dị này”.
Hay như các bài thơ: Thượng đế hiển linh trong một bông lan gốm (bài 43),
Tiếng chuông đêm (bài 45), Trẻ em và con quay (bài 48).
Sijo (thời điệu) là một thể thơ của bán đảo Triều Tiên, ra đời vào cuối thời
Goryeo (khoảng cuối thế kỷ XIII – đầu thế kỷ XIV), bắt nguồn từ những câu ca
dao Goryeo và hương ca Silla, phát triển mạnh mẽ nhất ở thời Joseon. Thơ Sijo có
đặc điểm là ngắn gọn như thơ haiku vậy, thể hiện những ý tưởng sắc sảo, thâm
thúy và tao nhã. Về luật thơ, thơ sijo quy định mỗi bài có từ 43 đến 45 âm tiết.
Thơ sijo có 6 thể loại. Thơ của Octavio Paz ảnh hưởng bởi thể loại hiện đại thời
điệu (Sijo hiện đại bắt đầu xuất hiện cùng với phong trào phục hưng thơ sijo năm
1926. Sijo hiện đại khác với sijo cổ ở chỗ: sijo hiện đại có đặt tiêu đề, hình thức tự
do hơn so với sijo cổ. Sijo hiện đại có khi lấy các chương như là một liên kết, có
khi phân chia và sắp xếp một chương thành câu riêng ý nghĩa.)
Cái khác giữa thơ của Octavio Paz và thơ sijo là ở chỗ thơ sijo hầu như bài nào
cũng chú ý đến nhịp điệu, còn thơ của Paz lại hầu như không có bài nào chú ý đến
nhịp điệu. Và đây cũng chính là điểm khác biệt giữa thơ của Paz và thơ Đường.
Thơ của ông hầu như không có niêm luật như thơ Đường của Trung Quốc. Ví dụ
trong bài thơ Bên biển (bài 2) :
“Biển không thể nào khao khát
Biển trăn trở đến bình minh
Trên chiếc giường bằng đá của mình
Khao hát gió rồi biển chết.”
Bài thơ Cặp bù (bài 6):
“Trong cơ thể tôi trên ngọn núi em tìm
một mặt trời chôn sâu trong rừng thẳm.
Trong cơ thể em tôi tìm kiếm con thuyền
trên dòng nước lạc giữa đêm xa xăm.”
15
Chính vì không có chặt chẽ về niêm luật và thơ của Paz chứa hình thức tự do
nên thơ của ông mang đậm nét của thơ ca phương Tây từ những trào lưu như chủ
nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực cho nên thể thơ tự do được sử
dụng chính yếu trong thơ của ông.
Ở khía cạnh khác từ thơ của Paz thường được các nhà phê bình đề cập là
khuynh hướng duy trì các yếu tố văn xuôi – tư tưởng triết học phổ biến nhất trong
thơ ca của ông. Ví dụ như bài thơ Đêm trắng (bài 16), độ dài của bài thơ như một
câu chuyện vậy, trong bài thơ ta thấy được cái vẻ cô đơn của của con người trong
đêm tối.
Trên thế giới, người ta cho rằng thơ văn xuôi chính thức xuất hiện vào năm
1842 qua bài thơ văn xuôi Gaspard bóng đêm của nhà thơ Pháp Louis Bertrand,
như là một phản ứng chống lại một lối thơ niêm luật chặt chẽ đang thịnh hành thời
bấy giờ là thơ Alexandrin. Tuy nhiên mầm mống của nó phải kể từ 6 bài thơ trong
tập thơ Tụng ca bóng đêm của nhà thơ Đức Novalis.
3.2. Ngôn ngữ phóng khoáng, tự do
Ngôn ngữ của ông không khô khan gò bó ở một phạm vi nào đó mà mở ra vô
tận với nhiều chiều kích khác nhau. Ta tìm thấy ở đó ngôn ngữ phóng khoáng,
ngôn ngữ của sự tự do.
Thơ của Octavio Paz sử dụng ngôn ngữ thơ trữ tình giàu cảm xúc. Ví dụ như
trong bài thơ Hãy nghe anh như là nghe mưa (Bài 23), sự miên man của cảm
giác, hình ảnh, âm điệu như triếng mưa vậy:
“Hãy nghe anh như là nghe mưa
và hãy nghe anh – một chút hững hờ
nước, như không khí, rơi tí tách, xào xạc
và như không khí, thời gian
ngày không tàn
đêm không đến
cái mặt nạ hoàng hôn
16
treo sau cổng
cái mặt nạ thời gian
trong nếp gấp của dòng thơ kìm hãm
hãy nghe anh như là nghe mưa…”
Bên cạnh đó, trong thơ của ông còn sử dụng ngôn ngữ giàu tính nhạc. Không
chỉ do cách hiệp vần, do cách phối âm mà còn do nhà thơ có ý thức láy đi láy lại
một số âm, một số tiếng nào đó. Chẳng hạn trong bài thơ Chuyển động (Bài 9) láy
đi láy lại từ “Nếu” và “Anh”:
“Nếu em là ngựa hổ phách
Anh là con đường máu
Nếu em là tuyết đầu mùa
Anh thắp lửa cho bình minh đến…”.
Hay trong bài thơ Đôi mắt em (Bài 18) lặp lại từ “là”, … Cũng chính sự lặp đi
lặp lại đó đã tạo cho thơ của Paz nhịp điệu đối ứng.
3.3. Không gian bóng đêm và thời gian vô thường
Khi tìm hiểu về thơ Octavio Paz ta thấy ông nói nhiều đến không gian về đêm.
Khi người ta cô đơn thì thích sự yên tĩnh và bóng đêm vì ở nơi đó, tất cả những nổi
niềm trong tâm trí có cơ hội được bộc lộ ra bên ngoài. Bóng đêm là biểu tượng để
chỉ cho những vùng khất bị che lấp, những suy nghĩ trăn trở của con người và ở nơi
ấy con người tìm thấy chính mình. Thơ của Octavio nói nhiều về đêm và lấy đó để
làm cảm hứng sáng tác. Chẳng hạn như:
“Đêm là màu xanh lá cây, mênh mông và lặng lẽ
Đêm là một nụ hôn vô tận của bóng tối vô tận
Đêm là một con thú dữ ngọt ngào
Vô tận và trãi rộng hữu hạn như cơ thể được vuốt ve trong bóng tối”.
Hay bài thơ Trục miêu tả:
17
“Mùa xuân của đêm
lưỡi anh mặt trời trong rừng rậm em
Em đêm của lúa mạch
Đêm anh trong đêm em”.
Còn trong bài Maithuna, Octavio Paz nói:
“Và đêm vắng
Nơi hàng cây đứng lặng
còn cái chết như tiếng xào xạc khôn nguôi”.
Điểm này ở thơ ca Tây Ban Nha cũng có đồng những âm điệu như Rosana
Arbelo với bài Bùa may mắn :
“Khi đêm tình thất vọng rơi vào màn đen tối
Hãy rơi xuống cùng nhau để hoà lẫn trong nhau
Thảm êm với bốn bề khiến mọi chuyện ổn thôi
Khi đêm tình , khi đêm tình yêu trôi
Nỗi sợ hãi muôn đời cả hai ta cùng rõ
Anh và em, số phận và tình yêu sẽ là một mãi mãi”.
Còn nói về thời gian trong thơ của ông, qua tìm hiểu cho thấy thời gian trong
thơ của Octavio Paz mang đặc điểm của sự vô thường trong đạo Phật:
“Dòng sông chảy qua
luôn luôn
chảy trở lại
Liệu ngày mai có phải một ngày khác không?”
(Bình minh cuối)
18
Hay bài thơ Cuộc đời đối thoại “Chỉ cuộc đời mới là ánh chớp”; “Thời gian
quay và quay, không ngừng trôi qua/Không có gì trôi qua nếu thời gian ngừng
trôi” ( Đêm trắng)….vv. Điều này đâu phải đến Octavio Paz mới viết vào thơ,
ngày xưa chính Heraclitus cũng đã từng than khi nhìn dòng nước cứ mãi trôi đi
“Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
3.4. Giọng điệu từ trầm buồn đến hào hứng mê say
Giọng điệu là một phương diện biểu hiện quan trọng của chủ thể sáng tạo.
Giọng điệu thể hiện thái độ, lập trường, cách nhìn của chủ thể phát ngôn, giọng
điệu chính là thần thái toát lên từ tác phẩm.
Với Octavio Paz trong cảm hứng sáng tác của mình, điều mà chúng ta khi đọc
vào thơ của ông thấy rằng đối với vẻ đẹp của phụ nữ ông có một cái giọng điệu rất
hào hứng mê say:
“Ngày hôm qua…
bờ môi đêm của em
một miền của nước
và tiếng kêu ì oạp
của ngọn sóng triều dâng
/nước xao xuyến, lâng lâng”.
(Maithuna)
Cũng có khi giọng thơ như muốn tìm tòi, muốn lục tung tất cả để khám phá mọi
vẻ đẹp tự nhiên của con người và cảnh vật:
“Vén tung bức màn trên cơ thể của em
Mặc vào cho em một vẻ trần trụi mới
Mở ra những thân thể trong thân thể của em..”
(Đôi bàn tay anh)
19
Hay bài “Trong cơ thể tôi trên ngọn núi em tìm / một mặt trời chôn sâu trong
rừng thẳm / Trong cơ thể em tôi tìm kiếm con thuyền / Trên dòng nước lạc giữa
đêm xa xăm” (Cặp bù).
Điều này ta cũng bắt gặp trong những bài thơ của Pablo Neruda với giọng thơ
đầy hào hứng khi bên người đẹp: “Và khi em xuất hiện / tất cả những giòng sông
náo động / trong thân anh, những hồi chuông / lay chuyển cả bầu trời / và một
thánh ca ngập tràn thế giới” ( Los versos del capitán).
Tuy nhiên khác với những cảm xúc lâng lâng đầy hào hứng đó, đôi khi thơ của
Octavio Paz mang giọng điệu trầm buồn, đó là âm hưởng chung của chủ nghĩa
tượng trưng như bài thơ Giữa đi và ở lại: “Buổi chiều vòng quanh giờ đây là một
cái vịnh / nơi thế giới trong sự tĩnh lặng, rùng mình / Mọi thứ đều rõ ràng, mọi thứ
đều lẩn tránh / mọi thứ đều gần và chẳng thể chạm vào” hay trong bài Kiếp số
của nhà thơ: “Hãy để cho ta lạc giữa những lời nói! / Hãy để ta là gió giữa hai
làn môi/lang thang thổi u ơ không tròn tiếng / gió làm cho tan biến / Ánh sáng
cũng lạc nẻo trong chính mình”.
Điều này ta bắt gặp trong thơ của Paul-Marie Verlaine( nhà thơ Pháp) trong bài
Thu ca:“Mùa thu nức nở/Rót ra nỗi buồn / Và tiếng vĩ cầm / Cho lòng đau thắt /
Chất đầy trong ngực / Nỗi buồn cô đơn / Nỗi buồn nặng hơn / Khi tiếng chuông
ngân / Trong đêm vắng vẻ / Xao xuyến ngập lòng” một giọng thơ buồn buồn ảo
não, mang đầy tâm sự của kẻ cô đơn.
20
KẾT LUẬN
Tìm hiểu về thơ ca của Octavio Paz là ta đang đến với một nhà thơ được
bình chọn giải Nobel. Những sáng tác của ông được mở rộng trên các bình diện
văn học, văn hóa và cả những vấn đề chính trị xã hội. Điều mà chúng ta biết nhiều
về ông, đó là sự ảnh hưởng của các nền văn hóa khác nhau những nơi mà ông đi
qua và đưa vào thơ văn là rất lớn. Đó có thể là chủ nghĩa Max hay chủ nghĩa lãng
mạn, tượng trưng…vv. các nền văn hóa, thơ ca phương Đông. Từ những sự hội
ngộ ấy ta mới biết được cái tài của nhà thơ khi dung hòa bao gồm nhiều yếu tố ấy
vào trong thơ một cách đa dạng và tài tình. Trong phạm vi khảo cứu qua 49 bài thơ
cũng như những quan niệm sáng tác thơ ca của ông, chúng tôi thấy được những sự
ảnh hưởng hay điểm bắt gặp trong thơ làm cho sự hứng thú trong việc đi tìm hiểu
về những vấn đề trong cuộc sống trở nên thú vị và thấy được rằng văn học trên thế
giới là một kho tàng tri thức lớn mà chúng ta cần nếm qua.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> /> />
22