Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

PHẠM TRÙ “NHÂN” TRONG tư TƯỞNG TRIẾT học của KHỔNG tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.4 KB, 6 trang )

PHẠM TRÙ “NHÂN” TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA KHỔNG TỬ
- NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ
Tóm tắt: Khổng Tử là nhà triết học, nhà chính trị và là nhà giáo dục nổi tiếng ở Trung
Quốc. Phạm trù “nhân” của Khổng Tử không những là một nội dung vô cùng phong phong
phú, sâu sắc mà còn là một nguyên lý đạo đức cơ bản trong triết học. Quan niệm về đức “nhân”
bao gồm ba nội dung cơ bản như sau: Thứ nhất, “Nhân” chính là lòng yêu thương con người đó là một trong những phẩm chất cao nhất và cũng là yếu tố quy định bản chất của con người;
Thứ hai, “nhân” chính là đạo làm người; Thứ ba, “nhân” là phẩm chất nội tại, chỉ có thể tự
mình phát huy nó chứ tuyệt nhiên không thể miễn cưỡng mới có được. Với những nội dung
như vậy, phạm trù “nhân” của Khổng Tử có ý nghĩa to lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn, nghiên
cứu, tiếp thu, kế thừa phạm trù “nhân” góp phần làm giàu thêm đạo lý làm người của dân tộc
cũng như góp phần định hướng, giáo dục những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống của người Việt
Nam trong xã hội hiện nay.
Từ khóa:Khổng Tử, nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng, đạo làm người, thương người


Khổng Tử (551 - 479 Tr. CN) tên là Khâu, tự Trọng Ni, người ấp Trâu, làng Xương
Bình, nước Lỗ (nay thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông), Ông là người đã sáng lập ra
trường phái Nho gia vào cuối thời Xuân Thu và cũng là triết gia, nhà chính trị, giáo dục
lỗi lạc ở Trung Quốc. Khổng Tử được vua Lỗ Định Công phong chức cao nhất là Đại Tư
Khấu (Hình Bộ Thượng Thư) trông coi việc hình án. Tuy nhiên, sau đó ông đã từ quan,
rời nước Lỗ đi du thuyết khắp các nước chư hầu. Những năm cuối đời, Khổng Tử trở về
quê dạy học và bình soạn Tứ Thư, Lục Kinh (Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn lại Ngũ
Kinh).
Tư tưởng triết học của Khổng Tử được hình thành trong thời đại mà “chiến tranh là
phương thức phổ biến để giải quyết mâu thuẫn và quyền lợi, địa vị đương thời” nên
“thiên hạ đại loạn”, “vương đạo” suy vi, “bá đạo” nổi lên, chế độ Tông pháp nhà Chu đảo
lộn, đạo lý nhân luân suy đồi. Trong xã hội đương thời ấy, con người sống không còn
tuân theo đạo đức tốt đẹp, trật tự lễ nghĩa bị xáo trộn; vua không ra vua, tôi không ra tôi,
cha không xứng danh cha, con không sống đúng đạo làm con; nhân, nghĩa, lễ, trí, tín,
trung, hiếu,… lu mờ, đảo lộn. Để cải biến xã hội đó, Khổng Tử đã đưa ra học thuyết
“nhân trị” nhằm chủ trương lập lại trật tự, lễ nghĩa nhà Chu, với nội dung cải biến cho


phù hợp với điều kiện xã hội mới. Khổng Tử lấy chữ “nhân” làm nguyên lý đạo đức cơ
bản trong triết học của mình.
Trong hệ thống triết học của Khổng Tử, chữ “nhân” mang ý nghĩa rất rộng, trừu
tượng và bao hàm nhiều mặt trong đời sống con người. Nó được thể hiện qua ba nội dung
chính như sau:
Thứ nhất, theo nghĩa rộng nhất, “nhân” là một tâm điểm và cũng chính là nguyên tắc đạo
đức trong triết học Khổng Tử. “Nhân” chính là lòng yêu thương con người - đó là một
trong những phẩm chất cao nhất và cũng là yếu tố quy định bản chất của con người thông
qua việc thi hành “lễ” và “nghĩa”, quy định mối quan hệ của con người từ trong gia tộc
đến ngoài xã hội. Người có đức “nhân” một mặt biết yêu người, nhưng mặt khác, người
có đức “nhân” cũng phải biết ghét người. Khổng Tử nói: “Duy có bậc nhân mới thương
người và ghét người một cách chính đáng mà thôi” (Luận ngữ, Lý nhân, 3) và “Người
quan tử ghét kẻ bêu chuyện xấu của người, ghét kẻ bậc dưới mà gièm pha bậc trên, ghét


kẻ có dũng lực mà không biết lễ phép, ghét kẻ quả cảm làm liều đến chỗ bế tắc” (Luận
ngữ, Dương Hóa, 23). Thế nhưng, đi liền với chữ “nhân”, Khổng Tử cũng đưa ra hàng
loạt các khái niệm riêng biệt nhằm chỉ những con người có tính cách khác nhau, trình độ,
đạo đức khác nhau như: “đại nhân”, “thánh nhân”, “tiểu nhân”, “thiện nhân”,… Trong đó,
do hạn chế của lịch sử và sự ràng buộc lợi ích giai cấp nên Khổng Tử luôn phân biệt rõ sự
đối lập giữa hai hạng người trong xã hội là “quân tử” và “tiểu nhân” cả về tri thức, đạo
đức, nhân cách, hành động, địa vị xã hội,... Ông khẳng định: có thể có người “quân tử”
bất nhân nhưng không thể có kẻ “tiểu nhân” nhân nghĩa.
Thứ hai, “nhân” có thể được hiểu là “đức tính hoàn thiện, là cái gốc đạo đức của con
người, nên “nhân” chính là đạo làm người” 1 trong những điều sống đối với mình và đối
với người. Trước hết, đó là “Trung thứ” - hết lòng hết dạ, thành tâm thật ý với người,
thương người như thương mình, cái gì mình không muốn thì chớ nên đem đến cho người,
giúp cho người lập thân như chính nguyện vọng của ta vậy, không vì ham sống mà hại
người hay giết hại sự sống để thành nhân. Bậc “quân tử” cần phải biết dung hòa giữa
nhân nghĩa và tài lợi. Người có đức “nhân” cũng cần có phẩm chất cứng cỏi, can đảm,

chất phác, thật thà,… tránh lối trau chuốt, hình thức, xảo ngôn, lịnh sắc,… Người nhân
cần làm cho năm điều đức hạnh (cung , khoan, tín, mẫn, huệ) ngày càng phổ biến rộng rãi
trong thiên hạ. Tuy nhiên, Khổng Tử cũng cho rằng người có đức “nhân” cũng cần có cả
“văn” lẫn “chất” hoàn mỹ mới nên người “quân tử”: “Người nào chất phác, thật thà thái
quá mà kém phần văn vẻ thì thành ra quê mùa thô kệch. Người nào văn vẻ trau chuốt thái
quá mà kém phần chất phác thì giống như vị sử quan. Có văn và chất bằng nhau mới nên
người quân tử” (Luận ngữ, Ung dã, 16).
Thứ ba, Khổng Tử cho rằng “nhân” là phẩm chất nội tại, chỉ có thể tự mình phát huy nó
chứ tuyệt nhiên không thể miễn cưỡng mới có được. Do đó, ông coi trọng sự nỗ lực của
bản thân con người và hoàn toàn hạ thấp sự sùng bái “Trời”. Khổng Tử đã cho rằng: “Sửa
mình theo lễ là nhân. Ngày nào cũng khắc kỷ phục lễ, ngày đó mọi người trong thiên hạ
tự nhiên cảm hóa mà theo về đức nhân. Vậy nhân là do mình, chớ hà do người sao?”
(Luận ngữ, Nhan Uyên, 2). Tuy nhiên, đức “nhân” của con người không phải tự nhiên mà
1 Doãn Chính (2015), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 267.


có. Đó là cả một quá trình không ngừng học hỏi, quan sát, rèn luyện nên Khổng Tử cũng
đặc biệt quan tâm đến việc giáo hóa đạo đức, nhân nghĩa cho con người thông qua một
luận điểm hết sức tiến bộ “Hữu giáo vô loại”. Trên phương diện này, ông đã đóng góp và
làm phong phú cho kho tàng lý luận giáo dục của nhân loại khi chủ trương cần mở rộng
diện giáo dục, mọi người đều có quyền bình đẳng như nhau trong việc tiếp cận tri thức,
không giới hạn thành phần được giáo dục chỉ trong giới quý tộc phong kiến. Bởi lẽ, con
người cần có “trí” mới có thể vươn tới được đức “nhân”, nên không thể là người nhân mà
thiếu “trí”. Ông cũng nhấn mạnh, người có “trí” mà thiếu “nhân” cũng sẽ trở thành kẻ thủ
ác, còn người có “nhân” mà thiếu “trí” thì hóa ngu muội, phóng đãng… làm hại cho bản
thân. Người có đức “nhân” cũng cần có “trí” mới hiểu được đạo lý, xét đoán được sự
việc, phân biệt phải trái, để trau dồi đạo đức, thi hành điều nhân. Hơn nữa, với Khổng Tử,
người muốn đạt “nhân” cũng cần phải có “dũng”. Người dũng ở đây không phải là kẻ ỷ
vào sức mạnh, vì lợi mà mà suy nghĩ hành động bất chấp đạo lý, nhân nghĩa. Người
“nhân” có “dũng” cần bày tỏ ý kiến một cách cao minh và hành động cho thanh cao, xả

thân vì nhân nghĩa, “lập nhân” và “đạt nhân”. “bậc chí sĩ, người nhân có dũng sẽ sẵn sàng
vì nhân mà sát thân, chứ không phải giữ mạng sống của mình mà hại nhân” (Luận ngữ,
Vệ Linh Công, 8).
Thông qua những nội dung nổi bật như vậy, ta có thể khẳng định rằng, phạm trù
“nhân” trong tư tưởng triết học của Khổng Tử đã bao hàm những chuẩn mực tốt đẹp về
luân lý, đạo đức mang tầm ảnh hưởng to lớn trong lý luận và thực tiễn.
Về ý nghĩa lý luận, phạm trù “nhân” của Khổng Tử đã góp phần làm phong phú, sâu
sắc hơn hệ thống những quan niệm về văn hóa đạo đức, luân lý của nhân loại nói chung
và của Trung Quốc nói riêng. Có thể khẳng định, chế độ phong kiến kéo dài mấy ngàn
năm ở Châu Á đều dựa trên nền tảng tư tưởng chủ đạo của Nho giáo với đức “nhân” của
Khổng Tử là trung tâm. Khổng Tử đã dành cả cuộc đời để xây dựng cơ sở lý luận và
truyền bá những tư tưởng mang đậm chất lý tưởng nhằm giáo hóa con người, cải tạo xã
hội, biến xã hội từ “vô đạo” thành “hữu đạo”. Đồng thời, với tinh thần thương yêu và coi
trọng con người, Khổng Tử lấy giáo dục làm phương châm, động lực để con người tự
thức tỉnh lương tâm, quay về con đường chính nghĩa. Ông đã mang cái gọi là đặc quyền,


đặc lợi về nhu cầu giáo dục của giai cấp thống trị phong kiến trao tặng cho mọi tầng lớp
bình dân trong xã hội.
Cũng do bắt nguồn từ quan niệm xem vạn vật đều có chung nguồn gốc và bản tính
con người sinh ra vốn ngay thẳng nhưng do chịu sự tác động từ những yếu tố bên ngoài
mà khiến bản tính con người trở nên khác đi. Khổng Tử đã đề ra phương pháp trị nước
bằng con đường giáo dục để đưa con người về với bản tính vốn có của mình. Chủ trương
lấy giáo dục điều chỉnh hành vi con người thay cho quan niệm dùng “pháp trị” để cưỡng
chế. Cho nên, theo tinh thần như vậy, người cai trị, đứng đầu bộ máy nhà nước trước hết
phải tu thân để làm gương sáng cho mọi người noi theo, người đứng đầu nhà nước
“không tàn ngược với người bơ vơ, không bỏ rơi người khốn cùng” 2. Phải là người tài
đức, luôn thương yêu, coi trọng dân, lo cho dân và giáo dục dân. Tư tưởng này của ông
tuy khó hiện thực hóa trong bối cảnh của xã hội đương thời nhưng đó là những quan niệm
hết sức tiến bộ, có giá trị về chủ trương, nội dung và cả phương pháp giáo dục.

Về ý nghĩa thực tiễn, phạm trù “nhân” của Khổng Tử có ý nghĩa tích cực đối với sự
nghiệp giáo dục, hoàn thiện đạo đức trong xã hội Việt Nam hiện nay và có tác dụng nâng
cao ý thức, tu dưỡng đạo lý làm người cho con người.Nhất là ở giai đoạn hiện tại, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là vừa xây dựng chủ nghĩa xã
hội, vừa bảo vệ Tổ quốc vững chắc. Nhưng sự tác động của nền kinh tế thị trường đã làm
“môi trường văn hoá bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục” 3,
xuất hiện xu hướng chạy theo lối sống thực dụng, vị kỷ, tàn phá các chuẩn mực, bản sắc
văn hoá dân tộc, sẵn sàng chà đạp lên mọi giá trị và tình nghĩa con người trong các mối
quan hệ gia đình, thầy - trò, bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp, các tệ nạn và những tồn tại
tiêu cực trong xã hội ngày càng gia tăng như: ma tuý, mại dâm, tham nhũng, cửa quyền,
nhũng nhiễu, quan liêu, phung phí, tranh giành địa vị, cục bộ địa phương,… và “một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản
2Khổng Tử (2004), Kinh thư (Trần Lê Sáng, Phạm Kì Nam dịch), NXb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr. 242.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 169.


lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống với
những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa
địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tuỳ tiện, vô nguyên tắc,…”4. Những biểu hiện xa rời
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có diễn biến ngày
một phức tạp. Bên cạnh đó, xã hội ngày nay vẫn còn rất nhiều người nghèo khó, đói rét,
bất hạnh,… và họ rất cần sự giúp đỡ, quan tâm, thông cảm. Trong bối cảnh như thế, tư
tưởng về đức “nhân” của Khổng Tử có tác dụng vô cùng to lớn trong việc ngăn chặn lối
sống chỉ biết xuất phát từ lợi ích của mình để đối xử với người khác, hơn thế nữa còn đẩy
lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống tiêu cực của con người và giúp cho con người ngày
càng có mối giao hòa rộng rãi hơn trong tất cả mọi mối quan hệ. Bởi lẽ, một khi mỗi
người đều biết quan tâm, nhường nhịn và tương trợ lẫn nhau cùng tiến bộ thì không
những bản thân họ cũng yên ấm, hạnh phúc, mà cả cộng đồng cũng có sự gắn bó, bền

vững, có điều kiện để khắc phục những khó khăn từ hiện thực khách quan mang lại. Để
làm được đó, chúng ta cần phải găn chặt hơn nữa cuộc đời mình vào sự nghiệp Tổ quốc,
nâng tấm lòng mình lên ngang tầm tư tưởng của Đảng và tình cảm của nhân dân, vận
dụng nhuần nhuyễn hơn nữa đường lối văn nghệ của Đảng vốn đã kết hợp hữu cơ với mỹ
học của Chủ nghĩa Mác - Lênin, cùng với truyền thống, quan điểm của dân tộc. Đó là
những nhân tố để phản ánh trung thực và dung cảm, kịp thời và sinh động hiện thực
phong phú nhằm hướng đến xây dựng con người mới, thời đại mới.
Từ những nội dung và ý nghĩa trên, ta có thể thấy, nội dung của phạm trù “nhân”
ngày càng được mở rộng theo sự phát triển của Nho giáo trong tiến trình lịch sử. Trong
quan niệm của Khổng Tử, “nhân” không những là yêu thương con người mà còn là đức
hoàn thiện của con người. Do vậy, “nhân” còn chính là đạo làm người - sống đúng với
mình và phải với người. Đức “nhân” là cái tuy yên ắng nhưng vững chãi như núi. Đến
Hán Nho, Đổng Trọng Thư đã

4Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương khoá XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 22.



×