Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Phân tích giá trị đặc sắc văn hóa Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.1 KB, 31 trang )

Mục lục
Chương 1: Cơ sở lý luận về giá trị đặc sắc văn hóa Việt Nam
1.1.Khái quát chung giá trị đặc sắc văn hóa Việt Nam
1.1.1.Về bản chất
1.1.2.Tính tổng hợp
1.2.Khái thác giá trị văn hóa đặc sắc Việt Nam phục vụ kinh doanh du lịch
1.2.1.Khai thác hệ thống di tích lịch sử văn hóa
1.2.2.Khai thác các lễ hội truyền thống phục vụ kinh doanh du lịch
1.2.3.Khai thác các giá trị văn hóa khác
Chương 2: Phân tích giá trị đặc sắc văn hóa Đà Nẵng
2.1.Khái quát chung về Đà Nẵng
2.1.1.Tổng quan
2.1.2.Con người
2.1.3.Nhịp sống Đà Thành
2.2.Khai thác giá trị văn hóa Đà Nẵng
2.2.1.Hệ thống di tích lịch sử Đà Nẵng
2.2.2.Lễ hội truyền thống Đà Nẵng
2.2.3.Văn hóa ẩm thực Đà Nẵng
2.2.4.Văn hóa khác
Chương 3: Đánh giá việc khai thác giá trị văn hóa của Đà Nẵng vào kinh doanh du
lịch
3.1.Ưu điểm và hạn chế
3.2.Kết luận


Chương 1: Cơ sở lý luận về giá trị đặc sắc văn hóa Việt Nam
1.1.Khái quát chung giá trị đặc sắc văn hóa Việt Nam
1.1.1.Về bản chất


Đời sống vật chất



-

Nghề nghiệp chính là nghề trồng lúa nước

-

Cơ cấu bữa ăn truyền thống, đặt các thức ăn có nguồn gốc thực vật và thủy sản lên
hàng đầu: cơm, rau, cá…

-

Đồ mặc có nguồn gốc thực vật là chủ yếu

-

Nhà của người Việt cổ là nhà sàn ở trên núi. Khi dời xuống trung du và đồng bằng
thì người Việt ở nhà tường đất, vách tre nứa, mái tranh với số gian lẻ là mô phỏng
nhà sàn của tổ tiên.

-

Giao thong đi lại chủ yếu bằng đường thủy và thuyền bè là loại phương tiện giao
thong chủ yếu.



Tổ chức xã hội

-


Tính cộng đồng thể hiện ở các tổ chức xã hội theo gia tộc, phường hội làng xã
tương đối khép kín.

-

Tính tự trị: làng xã Việt Nam được coi là một triều đình thu nhỏ, tính tự trị, tinh
thần đoàn kết toàn dân và ý thức độc lập dân tộc, lòng yêu nước rất cao.

-

Tính dân chủ: mọi người đều có quyền nêu ra ý kiến của mình cho các vấn đề
chung.

-

Tính tôn ti: vai trò, vị trí của mỗi người trong làng được quyết định theo chức vụ,
tuổi tác , tài sản, học thức.

-

Tính đoàn kết: tập thể mỗi làng xã, mỗi người và cả dân tộc luôn là một khối
thống nhất và tạo nên sức mạnh chung để chiến thắng mọi thế lực luôn xâm chiếm
đất nước ta.

1.1.2.Tính tổng hợp


Trong lao động đấu tranh


-

Chủ nghĩa lạc quan, văn hóa cứu nước trội hơn văn hóa lao động sản xuất

-

Văn hóa gia đình-dân tộc trội hơn văn hóa giai cấp


-

Văn hóa dân gian trội hơn văn hóa bác học

-

Tình cảm trội hơn lý trí, văn hóa có chiều sâu tâm linh

-

Cộng đồng trội hơn cá nhân, nước trội hơn nhà

-

Đoàn kết, hài hòa, tương đồng, thống nhất trội hơn khác biệt, chia rẽ

-

Nhu trội hơn cương




Trong tư tưởng
Tư tưởng chủ đạo của người Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, gắn nhà-làng xã với
nước. Không chịu làm nô lệ, triết lý nhân sinh



Trong hoạt động du lịch

Người Việt Nam luôn có sự dung hòa các mối quan hệ trời đất, xã hội và con người.
Chẳng hạn như con người tận dụng các cảnh quan mà tự nhiên ban tặng để khai thác
trở thành điểm du lịch nhằm thu hút các du khách.
1.2.Khai thác giá trị văn hóa đặc sắc Việt Nam phục vụ kinh doanh du lịch
1.2.1.Khai thác hệ thống di tích lịch sử văn hóa
Di tích lịch sử văn hóa là những không gian vật chất cụ thể, khách quan, trong đó
chứa đựng các giá trị lịch sử, văn hóa điển hình do tập thể hoặc cá nhân con người lao
động sáng tạo ra trong lịch sử để lại. Di tích lịch sử văn hóa chứa đựng nhiều nội dung
lịch sử khác nhau. Mỗi di tích có nội dung giá trị lịch sử văn hóa, lượng thông tin riêng
biệt khác nhau. Có các loại di tích lịch sử văn hóa như: di tích văn hóa khảo cổ, di tích
lịch sử, di tích văn hóa nghệ thuật (di tích kiến trúc nghệ thuật), danh lam thắng cảnh
Một số vườn quốc gia được du lịch khai thác như: Bái Tử Long (Quảng Ninh), Cát Bà
(Hải Phòng), Xuân Thủy (Nam Định), Bà Nà (Đà Nẵng), Cúc Phương (Ninh Bình),
Phong Nha-Kẻ Bàng (Quảng Bình), Bạch Mã (Thừa Thiên Huế), Phú Quốc (kiên Giang).
1.2.2.Khai thác các lễ hội truyền thống phục vụ kinh doanh du lịch
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa tổng hợp hết sức đa dạng, phong phú, là
một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân sau thời gian lao động mệt nhọc, hoặc là dịp để
con người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại như ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại truyền
thống, hoặc là để giải quyết những nỗi lo âu, những khao khát, mơ ước mà cuộc sống
hiện thực chưa giải quyết hết được.
Một số vấn đề cần lưu ý khi đánh giá khả năng khai thác các lễ hội phục vụ mục

đích du lịch:


Tính thời gian của lễ hội


-

Các lễ hội không phải diễn ra quanh năm mà chỉ tập trung trong thời gian ngắn

-

Các lễ hội thường diễn ra vào mùa xuân. Ở thời điểm bắt đầu năm mới, con người
có nhu cầu thông qua các lễ hội để nạp năng lượng sống cho mình.

-

Các lễ hội có thể tiến hành trong khoảng một, hai tháng nhưng cũng có lễ hội chỉ
diễn ra trong khoảng một vài ngày. Trong thời gian lễ hội, khách du lịch trong
nước và quốc tế tới rất đông với nhiều mục đích khác nhau.



Quy mô lễ hội:

Các lễ hội có quy mô lớn nhỏ khác nhau. Có lễ hội diễn ra trên địa bàn rộng, có lễ hội
chỉ diễn ra trong một địa phương nhỏ hẹp. Các lễ hội thường được tổ chức tại những nơi
có di tích lịch sử-văn hóa. Điều này cho phép khai thác tốt hơn các di tích và lễ hội và
mục đích du lịch. Di tích và lễ hội là hai loại hình hoạt động văn hóa sóng đôi, đan xen
của nước ta. Lễ hội gắn với di tích, không tách rời, di tích là dấu hiệu truyền thống được

đọng lại và kết tinh lại ở dạng cứng, còn lễ hội là cải tiến và truyền tải truyền thống đến
cuộc đời ở dạng mềm.
1.2.3.Khai thác các giá trị văn hóa khác phục vụ kinh doanh du lịch
Khai thác giá trị của các đặc trưng văn hóa khác của Việt Nam như tôn giáo, tín
ngưỡng, nghệ thuật truyền thống, phong tục tập quán trong kinh doanh du lịch là việc rât
cần thiết. Ví dụ như có thể khai thác các giá trị văn hóa của tôn giáo để phục vụ những
người có mục địch du lịch tìm hiểu tôn giáo của một vùng miền hay quốc gia nào đó hay
thỏa mãn nhu cầu tâm linh của họ. Nghệ thuật truyền thống là kết tinh của những tinh hoa
của văn hóa dân tộc nên các nhà kinh doanh du lịch cần tận dụng và khai thác chúng.
Có rất nhiều khách nước ngoài đến Việt Nam thích xem cải lương, múa rối nước,... nên
trong kinh doanh du lịch cần tạo ra các tour du lịch kết hợp với việc xem biểu diễn loại
hình nghệ thuậ truyền thống. Khi đó sẽ làm tăng hiệu quả kinh doanh, tăng sự thỏa mãn
nhu cầu của du khách.


Chương 2: Phân tích giá trị đặc sắc văn hóa Đà Nẵng
2.1.Khái quát chung về Đà Nẵng
2.1.1.Tổng quan
Thành phố Đà Nẵng nằm ở miền Trung Việt Nam với khoảng cách gần như chia
đều giữa thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên –
Huế, Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam, Đông giáp Biển Đông. Đà Nẵng nằm ở trung độ
của Việt Nam, trên trục giao thông huyết mạch Bắc Nam về cả đường bộ, đường sắt,
đường biển và đường hàng không, là cửa ngõ giao thông quan trọng của cả miền Trung
và Tây Nguyên, là điểm cuối của hành lang kinh tế Đông Tây đi qua các nước Myanma,
Lào, Thái Lan, Việt Nam.
Theo ngôn ngữ Chăm, địa danh “Đà Nẵng” có thể được giải thích là “sông lớn”,
“cửa sông lớn”. Địa danh này đã được ghi chú trên các bản đồ được vẽ từ thế kỉ XVI trở
đi. Điều đó có nghĩa là, từ rất sớm, trong cách hình thành tên gọi, tính chất cửa sông lớn,
tính chất cảng thị đã được lưu ý như một điểm quan trọng của thành phố.
Thành phố có diện tích 1.256,53 km² gồm 06 quận (Hải Châu, Thanh Khê, Liên

Chiểu, Ngũ Hành Sơn, Sơn Trà, Cẩm Lệ) và 02 huyện Hòa Vang, huyện đảo Hoàng Sa.
Thành phố Đà Nẵng là một điểm dừng chân lý tưởng, du khách có thể thưởng thức
những giây phút tuyệt vời trên đỉnh núi, trong rừng sâu hay bên bờ sông, bờ biển; cũng
có thể hưởng thụ những dịch vụ với chất lượng quốc tế khi nghỉ ngơi tại các khu du lịch
của thành phố Đà Nẵng. Đà Nẵng, với định hướng là một trung tâm dịch vụ, du lịch của
miền Trung, của cả nước và xa hơn nữa là khu vực, quốc tế. Hàng loạt khu du lịch đã và
đang được xây dựng, hài hòa với thiên nhiên nhưng cũng không kém phần hiện đại. Từ
những khu nghỉ dưỡng ở Đà Nẵng cực kỳ sang trọng mang tiêu chuẩn cao, hay những
khu du lịch sinh thái trong lành..
Sở hữu rất nhiều cảnh quan thiên nhiên đa dạng, Đà Nẵng không chỉ thu hút du
khách với bãi biển dài hơn 60 km, được tạp chí Forbes của Mỹ bình chọn là 1 trong 6 bãi
biển quyến rũ nhất hành tinh, mà còn có rất nhiều cảnh quan ấn tượng như bán đảo Sơn
Trà, khu du lịch Bà Nà Hills, danh thắng Ngũ Hành Sơn… Đà Nẵng còn là trung tâm của
3 di sản văn hóa thế giới là Cố đô Huế, phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn.


2.1.2.Con người Đà Nẵng
Nhắc đến con người Đà Nẵng là ngay lập tức người ta sẽ nhớ ngay đến hình ảnh
những người con xứ biển chân phương, chất phát, bình dị và cũng thật thân thiện, hiền
hòa, mến khách đến lạ . Khi đặt chân đến Đà Nẵng, người dân xứ Quảng sẽ tặng bạn món
quà đầu tiên là những nụ cười. Người Đà Nẵng thân thiện ở khắp mọi nơi, chỉ đơn giản
nhất là việc hỏi đường thôi cũng chỉ một cách tỉ mỉ, cặn kẽ nhất để người hỏi được hiểu
rõ tuyến đường của mình cần đi. thậm chí một số tài xế xe ôm, xích lô sẽ "thiết kế tour"
cho du khách lần đầu đặt chân đến Đà Nẵng. Họ sẽ nhiệt tình tư vấn cho bạn hàng quán
nào ăn ngon và rẻ, bạn nên tham quan điểm du lịch này bằng phương tiện gì, bạn sẽ đến
điểm kia trong bao lâu... Nhìn chung, đến với Đà Nẵng, bạn chẳng bao giờ ngại phải mở
miệng ra hỏi và sẽ được đáp lại bằng sự nhiệt tình hết mức có thể của người dân nơi đây.
(Thậm chí bạn còn muốn nói chuyện với họ nhiều hơn nữa, vì giọng nói và cách nói
chuyện của họ rất hay). Đây là những điều mà không phải thành phố tấp nập nào cũng có
thể làm được.

Người Đà Nẵng là thế, họ luôn tự hào về một "thành phố của tôi", họ tự hào về tất
cả mọi thứ họ có và gìn giữ cho đến bây giờ. Tình yêu và niềm tự hào đó nằm trong huyết
quản từng người dân thành phố, dồn dập theo từng nhịp tim từ những người dân buôn
gánh bán bưng cho đến tài xế taxi, xích lô, người bán báo, từ những người già, trẻ nhỏ
đến học sinh, sinh viên... Khi nhắc đến Đà Nẵng, họ có thể kể luyên thuyên với bạn cả
buổi về những nét văn hóa bình dị nơi đây, bằng chất giọng miền Trung trìu mến. Thậm
chí, họ sẽ kể về thành phố của mình cho đến khi bạn phát bực, bởi vì bạn biết rằng rồi
mình cũng sẽ phải rời cái nơi tuyệt vời này mà đi sau chuyến du lịch ngắn ngày.
Đà Nẵng, thành phố sạch đẹp điều quan trọng cũng đến từ chính con người Đà
Nẵng, từ người lớn đến các em thiếu nhi đều có nếp sống văn hóa đẹp riêng biệt. Những
tuyến phố lúc nào cũng khang trang, lộng lẫy, thu hút khách du lịch. Một thành phố rất an
ninh trật tự, không có người lang thang xin ăn, không có người nghiện ma túy trong cộng
đồng và hiếm khi xảy ra tình trạng kẹt xe.
Trải qua nhiều năm tháng, nhưng nét đẹp trong đời sống của người Đà Nẵng cũng
không bị phai nhạt, lãng quên. Con người Đà Nẵng rất bình dị, đáng mến, chân thành và
vô cùng hiếu khách. Đến Đà Nẵng bạn sẽ cảm nhận được sự ấm áp đó từ lòng người nơi
đây.


2.1.3.Nhịp sống Đà Thành
Cùng với con người xứ Đà, cách cuộc sống Đà Nẵng chảy trôi cũng đã trở thành
một đặc trưng không thể thiếu mỗi khi nói đến thành phố biển xinh đẹp này.
Là một trong những trung tâm kinh tế lớn của cả nước nói chung cũng như của
miền Trung – Tây Nguyên nói riêng nhưng nhịp sống của Đà Nẵng lại khiến du khách
ngạc nhiên khi đặt chân đến đây. Đà Nẵng lựa chọn “sống” theo cách của riêng mình –
một cuộc sống tự do tự tại, nhẹ nhàng và bình yên. Những khoảnh khắc kẹt xe mệt mỏi,
những cuộc sống vội vã như muốn lãng quên – đó là những điều vô cùng quen thuộc đối
với những thành phố lớn, nhưng với người dân Đà Nẵng thì đó dường như là những thứ
gì đó vô cùng lạ lẫm .
Đà Nẵng ban ngày thì năng động, trẻ trung, ban đêm nhịp sống dường như có

chậm lại một chút.
Một buổi chiều nhẹ bước bên bờ sông Hàn, cảm nhận sự đồng điệu giữa dòng
chảy cuộc sống Đà thành và dòng Hàn giang hay một buổi tối nhẹ nhàng với ly café và
ngắm nhìn vẻ đẹp của thành phố rực rỡ lúc lên đèn. Đắm mình trong cuộc sống bình yên
của thành phố sẽ giúp bạn tạm quên đi những bộn bề, lo toan của cuộc sống thường ngày.
2.2.Khai thác giá trị văn hóa Đà Nẵng
2.2.1.Hệ thống di tích lịch sử Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng là một thành phố trẻ, năng động nhưng giàu truyền thống
văn hóa. Cùng với sự phát triển của thành phố theo hướng văn minh, hiện đại nhưng Đà
Nẵng luôn kế thừa, phát huy các giá trị văn hóa, đặc biệt là các giá trị di tích, lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh. Sau 20 năm thành phố trực thuộc TW, thành phố đã có
18 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia, 49 di tích được xếp hạng cấp thành phố. Đó là
những minh chứng chứng minh cho quá khứ hào hùng của mảnh đất Đà Nẵng nói riêng
và của dân tộc Việt Nam nói chung. Trong lịch sử dân tộc, Đà Nẵng được biết đến không
chỉ là một thành phố cảng lớn nhất miền Trung Việt Nam mà còn là một địa danh gắn liền
với công cuộc mở mang bờ cõi Đại Việt từ nhiều thế kỉ trước. Dấu vết của một cửa ngõ
giao lưu quốc tế gắn liền với xứ Đàng Trong vẫn còn, và trong dư ba của lịch sử, đây là
một tiền đồn quan trọng trong công cuộc chống ngoại xâm của hai cuộc kháng chiến thần
thánh vừa qua. Đà Nẵng có nhiều di tích lịch sử phải kể đến như :


+ Bán đảo Sơn Trà: Bán đảo Sơn Trà là một điểm chấm cuối cùng, kết thúc của
dãy núi Trường Sơn (Bắc), đâm thẳng ra biển Đông cùng với núi Hải Vân, Sơn Trà có
đỉnh cao nhất là 696m, chiều dài từ Đông sang Tây là 15km, chỗ rộng nhất khoảng 6km,
hẹp nhất 2km, chu vi khoảng 50km, diện tích 4.390ha, bán đảo Sơn Trà là lá chắn khổng
lồ, là buồng phổi xanh của đô thị Đà Nẵng. Bán đảo Sơn Trà có nhiều phong cảnh hữu
tình, lãng mạn. Các dãy núi thấp được phủ kính một màu xanh thẳm của rừng nguyên
sinh rộng 4.370 ha nhô hẳn ra biển, tạo thành bức bình phong khổng lồ che chắn gió bão
cho thành phố. Đi theo con đường Sơn Trà Điện Ngọc chạy qua đường Yết Kiêu. Đi
ngang qua cảng Tiên Sa là một trong ba cảng lớn nhất Việt Nam. Cảng Tiên Sa là nơi có
tiềm năng phát triển kinh tế lớn, thuyền bè giao lưu hàng hóa. Với xu thế phát triển du

lịch, Cảng Tiên Sa là nơi giao lưu kinh tế, nơi thuyền bè du lịch lớn của Quốc tế đưa
khách đến tham quan Đà Nẵng. Đến với bãi Tiên Sa cát mịn, dòng nước xanh biếc của
biển là một vẻ đẹp vĩnh hằng thanh thoát với những giá trị hệ sinh thái được thế giới bình
chọn là một trong số những bờ biển đẹp nhất hành tinh.
Từ đỉnh Sơn Trà du khách có thể chiêm ngưỡng toàn thành phố Đà Nẵng theo hình
cánh cung, Ngũ Hành Sơn, Bà Nà núi Chúa và đèo Hải Vân hùng vĩ. Bán đảo Sơn Trà là
một khu bảo tồn thiên nhiên đa dạng và phong phú. Các cánh rừng Sơn Trà gần như ở
dạng nguyên sinh với động thực vật đặc sắc, tại đây có tới 289 loài thực vật thuộc 271 chi
và 90 họ. Người ta đã thống kê gần 300 con Vọoc Chà vá- chân nâu quý hiếm,gà mặt đỏ,
khỉ và các động vật quý hiếm khác được thế giới công nhận. Vòng quanh chân núi có
nhiều bãi cát trắng mịn như Bãi Bàng, Bãi Rạng, Bãi Bụt, bãi Nam và bãi tắm nước ngọt
Đá Đen cùng các dọng suối như suối Ôm, suối Đá từ sườn núi đổ xuống trong xanh với
sóng vỗ rì rào say lòng du khách.
Tại đây cũng có thể thấy núi Ngũ Hành Sơn như một hòn non bộ khổng lồ, xa xa
nhìn thấy Cù Lao Chàm. Nếu quý vị ở lại qua đêm sẽ thấy thành phố biển về đêm lung
linh màu sắc với đủ ánh đèn. Bán đảo Sơn Trà là nơi ghi dấu các di tích lịch sử qua hai
thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, các khu nghỉ mát lý tưởng với cảng Tiên Sa, chùa
chiền và các truyền thuyết dân gian mang đậm tính nhân văn sâu sắc là điểm đến không
thể thiếu khi du khách đến Đà Nẵng.
Ngoài các dịch vụ lặn biển ngắm san hô, du thuyền trên biển quý vị còn có thê
tham quan khám phá thiên nhiên, vui chơi giải trí như môtô nước, dù bay, tham gia các lễ


hội cầu ngư của các cư dân ven biển chắc chắn sẽ để lại ấn tượng khó quên trong mỗi du
khách khi đến đây.
Hiện nay Sơn Trà đang tập trung đầu tư khai thác để thu hút thêm khách du lịch
trong và ngoài nước. Bán đảo Sơn Trà nơi hội tụ các yếu tố về thiên nhiên, lịch sử và các
truyền thuyết dân gian đầy tính nhân văn cùng với khát vọng vươn lên không ngừng của
nhân dân quận Sơn Trà nói riêng thành phố Đà Nẵng nói chung, bán đảo này một ngày
không xa sẽ là điểm dừng chân lý tưởng cùng với Bà Nà núi chúa, Ngũ Hành Sơn xâu kết

thành chuỗi du lịch đầy hấp dẫn mà chưa hẳn nơi nào đã có. Hằng năm có khoảng gần 2,5
triệu lượt khách đến với Sơn Trà ( năm 2017) .
Mục tiêu đến năm 2025, Sơn Trà sẽ đón khoảng 3,5 triệu lượt khách du lịch mỗi
năm, đạt doanh thu khoảng 1.900 tỷ đồng. Đến năm 2030, đón trên 4,6 triệu lượt khách
du lịch, đạt doanh thu khoảng 4.300 tỷ đồng. Khi trở thành Khu du lịch quốc gia, Sơn Trà
sẽ góp phần tạo ra trên 2.800 việc làm cho lao động trực tiếp đến năm 2030.
+ Chùa Linh Ứng : Chùa Linh Ứng Sơn Trà được xem là cõi Phật giữa chốn trần
gian. Chùa nằm trên đỉnh núi thuộc Bãi Bụt, bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng (nhiều người gọi
là Chùa Linh Ứng Bãi Bụt hoặc là Chùa Linh Ứng Sơn Trà - vì Đà Nẵng có đến 3 Chùa
Linh Ứng) hướng nhìn ra biển Đông, một bên là đảo Cù lao Chàm, phía bên kia là ngọn
Hải Vân phía còn lại là dòng sông Hàn yên ả đang đổ về cửa biển. Chùa Linh Ứng Bãi
Bụt được khởi công xây dựng từ tháng 07/2004 và khánh thành ngày 30/07/2010; đến
nay chùa vẫn còn tiếp tục xây dựng thêm nhiều hạng mục. Chùa ở độ cao 693 mét so với
mực nước biển, với diện tích 20 héc ta, trên địa hình một bên núi, một bên biển. Chùa
Linh Ứng Bãi Bụt là một quần thể nhiều hạng mục gồm chánh điện, nhà tổ, giảng đường,
tăng đường và thư viện...
Ngoài việc được biết đến như một ngôi chùa đẹp, lớn và… trẻ nhất trong 3 ngôi
“Linh Ứng Tự” ở Đà Nẵng, Chùa Linh Ứng Bãi Bụt còn được biết đến bỡi nơi có tượng
Phật Quan Thế Âm cao nhất Việt Nam. Sau khi leo lên hết những bậc đá trên con đường
dẫn vào chùa, bước qua cổng chính, ngay trên lối vào chính điện, nằm giữa trung tâm của
khoảng sân rộng với những hàng cây cảnh đẹp mắt là tượng Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni, bên phải là Quan Thế Âm Bồ tát, và bên trái là Tam Tạng Phật, bốn vị Thần Long Hộ
Pháp cùng 18 vị La Hán được sắp xếp hai hàng bảo vệ cho chính điện. Phía bên trái là
tượng Phật Quan Thế Âm cao 67m, đường kính tòa sen 35m được xem là cao nhất Việt


Nam. Dưới chân đài sen của bức tượng luôn thu hút rất đông du khách và phật tử tới lễ
Phật và thưởng ngoạn nét đẹp từ bi của bức tượng có một không hai này. Trong lòng
tượng có 17 tầng, mỗi tầng đều có bệ thờ tổng cộng 21 bức tượng Phật với hình dáng, vẻ
mặt, tư thế khác nhau, gọi là “Phật trung hữu Phật”. Tượng đứng tựa lưng vào núi, hướng

ra biển, đôi mắt hiền từ nhìn xuống, một tay bắt ấn tam muội, tay kia cầm bình nước cam
lồ như rưới an bình cho những ngư dân đang vươn khơi xa. Cảnh quan gian chính điện
kết hợp với bức tượng Phật Quan Thế Âm tạo nên một bức tranh toàn cảnh linh thiêng,
thanh tịnh mà tao nhã như chốn bồng lai. Lượng khách du lịch đến Chùa Linh Ứng Sơn
Trà tăng lên hàng năm với tốc độ tăng trưởng 2017 khoảng gần 2 triệu lượt khách tăng
gần 5 lần so với năm 2013 (464,100 lượt khách) và dự kiến tiếp tục tăng trong những
năm tiếp theo.
+ Bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Chăm : Bảo tàng Nghệ thuật Điêu khắc Chăm Đà
Nẵng là bảo tàng trưng bày hiện vật Chăm quy mô nhất ở Việt Nam, trực thuộc Bảo tàng
Đà Nẵng. Đây là bảo tàng do người Pháp xây dựng, chuyên sưu tập, cất giữ và trưng bày
các di vật về nghệ thuật điêu khắc của vương quốc Chăm Pa tìm thấy ở các tháp, thành
lũy Chăm tại các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ từ Hà Tĩnh tới Bình Thuận và các tỉnh
Tây Nguyên. Vào cuối thế kỷ 19, công sứ tỉnh Quảng Nam là Charles Lemire, người
Pháp, đã tiến hành công tác khảo cổ các di tích văn hóa Chăm và đem các di vật tìm được
đem về trưng bày tại Đà Nẵng. Sau đó, năm 1900, Trường Viễn Đông Bác cổ (École
Française d'Extrême-Orient) tiến hành khai quật khảo cổ ở quy mô lớn hơn. Từ đó, nảy
sinh nhu cầu xây dựng một nhà bảo tàng tại Đà Nẵng cho các cổ vật Chăm. Năm 1902,
Henri Parmentier của Trường Viễn Đông Bác cổ chính thức đề cử dự án kiến thiết rồi
được hai kiến trúc sư người Pháp là Delaval và Auclair thực hiện.[1] Kết quả là một tòa
nhà có một số nét kiến trúc Chăm. Công trình nay là Bảo tàng Chàm được Trường Viễn
Đông Bác cổ cho khởi xây năm 1915-6 đến năm 1919 thì hoàn tất và khánh thành với
160 cổ vật điêu khắc. Bộ sưu tập nguyên thủy là do nhà khảo cổ Henri Parmentier thu
thập từ thế kỷ 19[2] được bổ túc thêm bằng những phát hiện sau. Năm 1927 kiến trúc sư
J. Y. Claeys thuộc trường Viễn Đông Bác cổ đề xướng khuếch trương nhà bảo tàng nhưng
dự án trì trệ đến năm 1936 mới hoàn tất. Ngày 11 tháng 3 nhân việc tái khánh thành viện
bảo tàng có sự hiện diện của Parmentier, Viện Bác cổ vinh danh ông bằng cách đổi tên
Viện Bảo tàng Chàm thành Musée Henri Parmentier. Diện tích mới được dùng để thu
nhận thêm bộ sưu tập cổ vật khai quật ở Trà Kiệu[3] và Tháp Mẫm ở Bình Định. Năm



1946 khi chiến tranh Pháp-Việt lan rộng thì Viện Bảo tàng Chàm bị cướp phá. Thư khố
và nhiều cổ vật bị trộm. Đến năm 1948 thì thu thập lại được 150 món, có thứ lưu lạc sang
tận bên Lào.[1] Dưới thời Việt Nam Cộng hòa cơ sở này mang tên Viện Bảo tàng Chàm.
Vào thập niên 1950 và 1960 kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng thuộc Viện Khảo cổ cho nới
rộng diện tích các sảnh trưng bày một cách hài hòa, bắt nhịp với phần kiến trúc nguyên
thủy. Nguyễn Xuân Đồng, người từng làm việc với Parmentier được bổ làm giám đốc.
Năm 1972 thì Nguyễn Khôn Liêu đảm nhiệm. Trong thời gian Chiến tranh Việt Nam qua
sự vận động của Viện Bảo tàng Guimet bên Pháp, Viện Bảo tàng Chàm được canh giữ
cẩn thận, luôn có lính canh gác thường trực nên không bị thiệt hại. Sau năm 1975 chính
quyền mới tiếp thu và đến cuối thập niên 1980 thì bị kẻ gian đột nhập lấy mất một số cổ
vật. Hơn 40 năm sau, năm 2002, một tòa nhà 2 tầng với khoảng 2 ngàn m² diện tích trưng
bày
Hơn 40 năm sau, năm 2002, một tòa nhà 2 tầng với khoảng 2 ngàn m² diện tích
trưng bày và khoảng 500 m² diện tích kho được xây dựng thêm ở phía sau. Do sự độc đáo
và đa dạng của Bảo tàng đã thu hút rất đông du khách, đặc biệt là du khách quốc tế đến
tham quan và tìm hiểu về nền văn hóa Chămpa huyền thoại. Bình quân mỗi ngày bảo
tàng này đón trên 500 lượt khách tham quan. + Di tích đình Đại Nam ở Đà Nẵng : Di tích
đình Đại Nam ở Đà Nẵng được xây dựng năm Ất Tỵ (1905) từ công sức đóng góp của
dân địa phương, thờ Thành hoàng bảo an chính trực, bổn xứ thổ thần và các vị tiền nhân
của làng.Đình Đại Nam ghi đậm dấu ấn văn hóa lịch sử thời Nguyễn. Đi du lịch Đà Nẵng
tham quan di tích nổi tiếng này, du khách sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng kiến trúc đặc biệt
của ngôi đình cổ nổi tiếng này. mái lợp ngói âm dương, tường gạch, trên mái đình là
lưỡng long chầu nguyệt, loan phụng hòa vinh, dơi ngậm đào, thể hiện qua nghệ thuật đắp
ghép sành sứ, công phu, đẹp mắt. Bên trong chia làm 3 gian, 2 chái, phần chính diện dài
11,7m, rộng 7,9m, hậu tẩm rộng 3,9m, dài 4,1m. Có 4 hàng cột gồm 20 cột bằng gỗ mít,
có chiều cao từ 2,5m - 4,5m. Kết cấu kèo theo “chồng rường - giả thủ”. Phần đầu hồi
chạm trổ khéo léo và tinh xảo qua bàn tay tài hoa của thợ chạm Kim Bồng (Hội An), thể
hiện các đề tài: cá chép hóa long, bát bảo đạo nho, cùng các họa tiết hoa văn cây cỏ, hoa
lá.
+ Di tích thành Điện Hải nằm ở tả ngạn sông Hàn. Thành Điện Hải trước đây là

đồn Điện Hải, xây dựng năm 1813 (Gia Long thứ 12) gần cửa biển Đà Nẵng. Năm 1823
(Minh Mạng thứ 4) cho dời đồn Điện Hải vào bên trong đất liền, trên một gò đất cao và


đến năm 1835 (Minh Mạng thứ 15) đồn được đổi tên là thành Điện Hải. Theo lịch sử ghi
chép lại vào năm 1840, Tham tri Bộ công Nguyễn Công Trứ vào xem xét hệ thống phòng
thủ ở Đà Nẵng, sau đó có đề nghị tăng cường phòng thủ các thành Điện Hải, An Hải.
Năm 1847 (Thiệu Trị thứ 7), thành Điện Hải được mở rộng có chu vi 556m, thành cao
hơn 5m, chung quanh là hào sâu 3m. Thành có 2 cửa, một cửa mở về phía nam (cửa
chính), một cửa mở về phía đông. Đà Năng hiện có khoảng 5 triệu lượt du khách mỗi
năm nhưng chỉ có khoảng 200.000 người đến với di tích này.
Bảo tàng quân khu 5 Đến với di tích lịch sử ở Đà Nẵng nổi tiếng này du khách sẽ
được tìm hiểu về lịch sử kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta trong những năm tháng
chiến đấu oai hùng. Có các vũ khí thể khối lớn như: máy bay, xe tăng, xe bọc thép, các
pháo từ 75mm đến 175mm..., các loại vũ khí của quân đội Pháp, Mỹ bị bộ đội Khu 5 thu
được và sử dụng đánh địch trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ
quốc. Theo ước tính bình quân mỗi ngày bảo tàng đón hơn 900 lượt khách trong đó khách
quốc tế chiếm 90% Và một số di tích lịch sử văn hoá khác ... -Ngoài sự ưu đãi của thiên
nhiên cho Đà Nẵng, thành phố còn được bao bọc bởi ba Di sản văn hóa thế giới: Huế,
Hội An, Mỹ Sơn. Xa hơn một chút nữa là di sản thiên nhiên thế giới Vườn Quốc gia
phong Nha – Kẻ Bàng. Vì thế Đà Nẵng được xem là điểm trung chuyển quan trọng trên
con đường di sản miền Trung. Nhờ vậy Đà Nẵng được xem là thành phố của du lịch,
thành phố của những di tích và của những danh lam thắng cảnh. Do nằm trong một địa
hình đặc biệt, có núi rừng, trung du, đồng bằng, biển cả…Đà Nẵng mang trong mình một
vẻ đẹp đa dạng. Có cái hùng vĩ, phóng khoáng của núi cao và cái mênh mông, trữ tình
của biển cả; có cái mềm mại, khỏe khoắn của sông ngòi và cũng có những góc khuất,
những đường vòng của đèo cao; có cái mơ mộng, dịu dàng của bờ cát, của bến sông và
cũng có cái tráng lệ, mạnh mẽ của phố xá, của những tượng đài, cao ốc … -Một trong
những lý do là Đà Nẵng nằm giữa các trung tâm di sản lớn được UNESCO công nhận là
di sản thế giới với sức hút và tầm ảnh hưởng rất lớn đối với du khách; công tác khai thác

phục vụ du lịch tại các điểm di tích này còn hạn chế, sức hấp dẫn của di tích, nhu cầu và
mức độ quan tâm của du khách chưa cao; bản thân các di tích của Đà Nẵng chưa đủ độ
thu hút và hấp dẫn để so sánh và cạnh tranh với các điểm lân cận.
Đà Nẵng có khá nhiều di tích lịch sử cấp quốc gia và thành phố, mang nhiều giá trị
lịch sử to lớn. Tuy nhiên các sản phẩm du lịch liên quan đến những di tích này vẫn còn
rất hạn chế. Đã đến lúc cần có các giải pháp cụ thể để vừa phát triển du lịch vừa góp phần


bảo tồn, phát huy giá trị của các điểm đến lịch sử hiệu quả nhất. Hằng năm các di tích
lịch sử đón hàng triệu lượt khách thăm mỗi năm tuy nhiên bên cạnh đó còn có những di
tích lịch sử chưa được chú trọng để đem vào khai thác du lịch cho Đà Nẵng và một số di
tích được đưa vào khai thác nhưng đã và đang khai thác chưa đúng dẫn đến mất mỹ quan
hay ngây ảnh hưởng xấu đến các di tích lịch sử đó như :
+Trong năm qua, danh thắng Ngũ Hành Sơn đón hơn một triệu lượt khách tham
quan. Thang máy lên ngọn Thủy Sơn là công trình gây nhiều tranh cãi giữa những người
làm du lịch và nhà bảo tồn văn hóa. Bên cạnh đó, trên ngọn Thuỷ Sơn còn được xây dựng
thêm mặt sàn bằng kết cấu bêtông cốt thép, lát gỗ nhằm phục vụ nhu cầu tham quan,
thưởng lãm… của du khách. Vậy nhưng toàn bộ công trình chiếm một phần không gian
rất lớn trước hòn Thủy Sơn, gần như đường lên cổng 2 hoàn toàn bị che khuất. Hơn nữa,
khi bỗng nhiên “mọc lên một cột thép hiện đại” bên cạnh nét thiên nhiên hùng vĩ đã phá
vỡ cảnh quan tự nhiên của khu danh thắng. Nhìn từ xa dễ dàng nhận ra phần trên của “cột
thép lớn” ngay cạnh...
+ Sơn Trà đang chịu tác động nghiêm trọng của một số hoạt động như du lịch, xây
dựng cơ sở hạ tầng, săn bắt động vật hoang dã, khai thác tài nguyên rừng hoặc lâm sản
ngoài gỗ… Cùng với đó, vùng biển bao quanh bán đảo Sơn Trà cũng đang phải đối mặt
với những tác động bất lợi làm suy giảm nguồn gen thủy sinh vật và nguồn lợi thủy hải
sản. Tình trạng san lấp làm đường giao thông, kéo theo hiện tượng sụt lở gia tăng ở nhiều
điểm bao quanh bán đảo đã dẫn đến sự bồi lấp, vẩn đục nguồn nước, làm suy thoái rạn
san hô và quần xã thủy sinh vật. Thêm vào đó, việc khai thác thủy hải sản không được
kiểm soát tốt và ô nhiễm nguồn nước từ nhiều nguồn thải ra đã ảnh hưởng lớn đến sự tồn

tại và phát triển nguồn lợi thủy sản. Dưới sức ép của phát triển, diện tích bảo vệ của
KBTTN bán đảo Sơn Trà cũng bị thu hẹp dần qua thời gian..
Vì tiềm năng phát triển du lịch của các di tích lịch sử là rất to lớn do vậy cần có
những giải pháp nhằm khắc phục để du lịch tới các di tích lịch sử ngày một trở lên đông
hơn nữa góp phần phát triển du lịch Đà Nẵng trong những năm sắp tới:
+ Cần xác định giữa bảo vệ di sản và phát triển du lịch.Trong quan hệ này, chúng
ta phải đặt bảo vệ di sản làm cái gốc, rồi trên cơ sở đó, mới phát triển du lịch, chứ chúng
ta đặt phát triển du lịch lên trên di sản, cái đó là cái sai.
+ Cần có những biện pháp cụ thể để bảo vệ, trùng tu các di tích lịch sử sao cho vẫn
giữ được một các nguyên sơ nhất những gì trước đó…


+ Tăng cường việc quản lý, giám sát, bảo vệ các công trình kiến trúc, hệ động thực
vật của các di tích lịch sử nhằm đưa du lịch vào để khai thác các di tích lịch sử đó.
2.2.2.Lễ hội truyền thống Đà Nẵng
2.2.2.1.Giới thiệu và phân tích lễ hội truyền thống Đà Nẵng
Các lễ hội của Đà Nẵng có từ rất xưa, được lưu truyền từ đời này sang đời khác,
như Lễ hội Cầu Ngư, Lễ hội Quan Thế Âm, Lễ hội đình làng Hoà Mỹ, Lễ hội đình làng
An Hải... Qua thời gian, cũng có những lễ hội rất độc đáo như Lễ rước Mục đồng, là lễ
hội rất đặc biệt dành riêng cho trẻ chăn trâu, những đứa trẻ chân lấm đầu trần tinh nghịch.
Tham gia tour du lich da nang, bạn sẽ có dịp hòa mình vào những lễ hội truyền thống nơi
đây.

• Lễ hội pháo hoa Đà Nẵng
Lễ hội Pháo hoa Đà Nẵng được tổ chức tại Đà Nẵng lần đầu tiên vào năm 2008.
Lễ hội được tổ chức mỗi năm một lần và thu hút lượng lớn du khách đến Đf Nẵng. Lễ hội
diễn ra 2 ngày liên tiếp vào dịp tháng 3, kỷ niệm thành phố Đà Nẵng giải phóng, hoặc
vào 30 tháng 4 và 1 tháng 5.
Lễ hội quy tụ các đội pháo hoa lớn trên thế giới tham gia. Xoay quanh lễ hội pháo
hoa là các hoạt động khác kèm theo: Lễ hội ẩm thực, Đêm nhạc lớn, triễn lãm tranh…

Mỗi năm là một chủ đề biểu diễn riêng rất đặc sắc và ý nghĩa: Vào dịp này, cả
thành phố Đà Nẵng rực rỡ sắc màu của pháo hoa, nô nức với các hoạt động văn hóa…
Khách du lịch đến Đà Nẵng dịp này rất lớn. Địa bàn thành phố có hơn200 khách
sạn lớn như: khách sạn Bamboo Green Central, Furma resort, Fusion Maia Đà Nẵng…,
172 nhà nghỉ và 10 nhà khách, với tổng cộng 11.890 phòng nghỉ đã kín chỗ cả tháng
trước khi lễ hội pháo hoa diễn ra.
Vé xem pháo hoa luôn là cơn sốt trong dịp này, vé được bán tại một số điểm du
lịch của thành phố. Tại các trung tâm lữ hành. Vé bán online trên các website của chương
trình lễ hội và website của các công ty lữ hành.




Lễ hội Quán Thế Âm
Lễ hội Quan Thế Âm được tổ chức hàng năm tại khu du lịch Ngũ Hành Sơn,

thành phố du lịch Đà Nẵng. Lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1960, nhân ngày khánh
thành tượng Bồ Tát Quán Thế Âm ở động Hoa Nghiêm thuộc ngọn Thuỷ Sơn, phía Tây
Ngũ Hành Sơn. Hai năm sau, lễ hội được tổ chức nhân dịp khánh thành chùa Quan Âm ở
động Quan Âm, là nơi phát hiện một khối thạch nhũ có hình tượng Phật bà Quán Thế
Âm.
Sau đó, vì nhiều lý do, lễ hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài. Mãi
đến ngày vía đức Phật bà Quan Thế Âm vào năm 1991 (19/2 năm Tân Mùi), Lễ hội Quán
Thế Âm mới được khôi phục trở lại.
Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa hòa gió
thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản
sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn. Hàng năm, cứ đến ngày 19.2 Âm lịch, lễ
hội lại được tổ chức với một tầm vóc, quy mô ngày càng lớn và nội dung ngày càng
phong phú hơn. Lễ hội Quán Thế Âm diễn ra trong 3 ngày, bao gồm hai phần: lễ và hội.
* Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung:

- Lễ rước ánh sáng: Nghi lễ rước ánh sáng thường tổ chức vào tối ngày 18, gồm rước
đuốc, rước kiệu, múa lân, múa rồng để cầu mong ánh sáng soi đường cho chúng sinh, mà
trong phật giáo ánh sáng đồng nghĩa với trí tuệ, trí tuệ sáng thì tấm lòng, đạo đức trong
sáng, sẽ làm nhiều việc thiện.
- Lễ khai kinh: Lễ được tổ chức vào sáng sớm ngày 19, đây là lễ cầu nguyện cho quốc
thái dân an, chúng sinh an lạc.
- Lễ trai đàn chẩn tế: lễ này cũng được tổ chức vào sáng ngày 19 để cầu siêu, cúng thập
loại chúng sinh, thường trước đó đồng bào phật tử gởi danh sách những người thân của
mình đã mất đến chùa để làm lễ cầu siêu. Trong lễ này phải mời người có giới phẩm
đứng ra làm lễ.
- Lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc: lễ cúng được tổ chức vào sáng ngày
19, ngợi ca lòng từ bi bác ái của đức Phật Bồ Tát Quán Thế Âm và cầu nguyện cho dân
tộc an bình, thịnh vượng.


- Lễ rước tượng Quán Thế Âm: Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19, sau các
nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật bà đi trước, và đồng bào Phật tử đi
sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên Sông Cầu Biện
(nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm
cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi
bình an. Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc
thái dân an. Lễ thường được tổ chức vào đêm ngày 18. Trong ngày lễ này các bô lão của
các phường Hòa Hải, Hòa Quý khăn áo chỉnh tề, tay cầm cờ lọng, đuốc, lồng đèn, có đội
nhạc cổ và chiêng trống đi theo. Sau khi làm lễ và đọc văn tế, đoàn bô lão sẽ dẫn đầu
đoàn rước cộ xuống bờ sông Cầu Biện để mở hội hoa đăng, rồi từ chùa Quán Thế Âm đi
quanh các khu phố qua các làng đá mỹ nghệ Non Nước, xuống khu du lịch Non Nước và
trở về lại lễ đài với lộ trình dài hơn 2km.
* Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm bản sắc dân
tộc xen lẫn với hiện đại như hội hoá trang, hát dân ca, thi cờ, nhạc, hoạ, điêu khắc, múa
tứ linh, thả đèn trên sông, hát tuồng... các hoạt động văn hóa như triển lãm thư pháp và

tranh thủy mặc, hội thi thuyết minh về danh thắng Ngũ Hành Sơn, hội thi nấu ăn chay...

• Lễ hội làng Hòa Mỹ
Cứ mỗi độ xuân về, làng Hòa Mỹ lại rợp cờ hoa đón mừng dòng người muôn nơi
nô nức về trẩy hội.Địa danh Hoà Mỹ được xác lập trên bản đồ đất nước từ năm 1825
(năm Minh Mạng thứ 5), nay là khối phố Hoà Mỹ, phường Hoà Minh, quận Liên Chiểu,
thành phố Đà Nẵng. Lễ hội đình làng diễn ra hàng năm vào ngày 12/01 âm lịch nhằm
nhắc nhở tinh thần “uống nước nhớ nguồn” trong con cháu các tộc họ, kiểm điểm những
việc đã làm được trong một năm và định hướng những việc sẽ thực hiện trong năm đến.
Do hoàn cảnh chiến tranh, việc tổ chức lễ hội bị gián đoạn một tới gian dài, mãi đến năm
1994 mới được khôi phục trở lại.
Lễ hội đình làng diễn ra hàng năm vào ngày 12/01 âm lịch. Với mục đích nhằm
nhắc nhở tinh thần “uống nước nhớ nguồn” trong con cháu các tộc họ, kiểm điểm những
việc đã làm được trong một năm và định hướng những việc sẽ thực hiện trong năm đến.
Do hoàn cảnh chiến tranh, việc tổ chức lễ hội bị gián đoạn một tới gian dài, mãi
đến năm 1994 mới được khôi phục trở lại.


Địa danh Hoà Mỹ được xác lập trên bản đồ đất nước từ năm 1825 (Minh Mạng
thứ 5), nay là khối phố Hoà Mỹ, phường Hoà Minh, quận Liên Chiểu, thành phố du lịch
Đà Nẵng.
Lễ hội đình làng Hoà Mỹ diễn ra trong một ngày rưỡi. Phần lễ theo nghi thức cổ
truyền gồm lễ vọng và lễ hội kỵ chính thức. Phần hội có nhiều nội dung phong phú,
truyền thống và hiện đại đan quyện vào nhau, tạo nên nét rất riêng cho lễ hội. Mở đầu
phần hội bao giờ cũng là giải chạy việt dã truyền thống, thu hút đông đảo nông dân, thanh
- thiếu niên, nam nữ học sinh tham gia. Trong khi người trẻ tuổi thi cắm hoa, thi làm bánh
thì người cao tuổi biểu diễn thể dục dưỡng sinh, vui chơi bài chòi.
Khán giả bao giờ cũng thật đông quanh các trò chơi dân gian như kéo co, đập
om... bởi cái không khí rất hội hè của chúng. Các tổ dân phố, các gia tộc, các đoàn thể có
dịp ngồi lại bên nhau trong buổi sinh hoạt giao lưu văn hoá, trao đổi những kinh

nghiệm về nếp sống đẹp trong đời thường để cùng giúp nhau tiến bộ. Các trích đoạn hát
tuồng đan xen vào các tiết mục ca múa nhạc kịch của chương trình văn nghệ lễ hội cũng
là một cách kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại.
Lễ hội đình làng giữa một khu phố như Hoà Mỹ là một nét rất riêng trong đời sống
văn hoá của người dân Đà Nẵng.

• Lễ Hội Rước Mục Đồng
Từ hạ tuần tháng ba âm lịch, khi vụ mùa đã hoàn tất là lúc các công việc sắp đặt
cho lễ hội bắt đầu. Chiều 29/3 âm lịch làm lễ dạo đồng. Đây là lúc con cháu sinh sống ở
các nơi xa kèo về đông đủ. Mục đồng cầm cờ dạo quanh các cánh đồng tỏ ý cầu cho được
mùa. Sáng ngày 30, chính thức diễn ra lễ rước. Lễ bắt đầu vào sáng tinh mơ
Theo cụ Ngô Tấn Nhã, là 'lão làng' của Phong Lệ, tuổi đã trên 90, thì ngày trước,
theo lệ cứ đến các năm Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, nghĩa là cách 3 năm, làng lại tổ chức lễ rước
Mục đồng một lần. Sau dãn dần ra sáu năm, rồi cuối cùng 12 năm mới tổ chức một lần.
Lần cuối cùng được ghi nhận là vào năm Bảo Đại thứ 11 (1936).
Chuyện kể rằng, làng Phong lệ xưa có một cồn cỏ. Ngày nọ, có người xua đàn vịt lên
cồn, chân vịt bỗng dính chặt xuống đất như có bàn tay ai đó níu lại. Cho là có thần linh
giánh hạ nên chẳng ai dám bén mảng đến cồn. Từ đó cồn có tên là cồn Thần. Một hôm,


có đàn trâu trong làng chạy lạc đến cồn, đám trẻ chăn trâu đến tìm nhưng không hề hấn gì
cả. Từ đó có tiếng đồn là cồn Thần chỉ cho các trẻ chăn trâu đến gần mà thôi. Xóm Cồn
về sau được gọi là xóm Đồng, làm nơi tụ tập của các mục đồng trong làng. Câu chuyện lạ
lùng ấy, sau nhiều thế hệ dần dần hình thành một lễ hội dành riêng cho các trẻ chăn trâu,
gọi là lễ rước Mục đồng.
Lễ bắt đầu vào sáng tinh mơ ngay giữa đình thần. Sau khi hương khói, khấn lễ,
Trùm Mục (người cai quản các mục đồng) lễ phục tươm tất trịnh trọng tiến vào hậu tẩm
khấn vái, cung kính thỉnh bài vị thần nông nâng cao ngang mày rồi quỳ xuống vào đặt
vào trong kiệu. Kiệu rước được bài trí như kiệu rước thần, cỡ 80 x 100 cm, nóc kiệu có 4
mái, rèm kiệu được giăng hoa kết đèn rực rỡ, do 4 mục đồng khiêng. Đoàn người cờ xí

xếp hàng đâu vào đấy, chiêng trống lại gióng giã vang lên; tất cả mục đồng hướng vào
chánh điện đồng loạt chắp tay xá ba cái rồi đám rước dài lượt thượt đi qua đường làng,
hướng về Cồn Thần, trong tiếng nhạc rộn rã của phường bát âm và cờ xí rợp trời. Đến
Cồn Thần, kiệu thần hạ xuống. Trùm Mục quỳ trên chiếc chiếu hoa, ngửa mặt lên trời
lầm rầm khấn giữa 2 hàng đuốc chập chờn hư ảo. Sau một hồi lâu khấn vái, Trùm Mục
gieo 2 đồng tiền vào cái đĩa con trước mặt: một sấp, một ngữa. Thế là thần đã giáng! Một
hồi sênh nổi lên, tiếp đó là ba hồi chiêng trống. Rồi, trống cơm, phường bát âm cùng tấu
những âm điệu rộn rã chào mừng. Sau 3 tiếng sênh làm hiệu, Trùm Mục dõng dạc xướng:
“Chúng Mục Đồng Phong Lệ tạ! Xin cho tốt lúa, tốt gieo, vũ thuận, phong điều! Đồng
reo một tiếng'...
Đoàn Mục Đồng đồng reo vang trời và cầm cờ nối đuôi theo vị Trùm Mục chạy
tới, chạy lui, quanh đi, quẫn lại chung quanh tảng đá trắng giữa cồn thần. Một lúc sau,
đám rước rồng rắn quay trở lại đình thần trong tâm niệm tôn kính là trên kiệu đã có vị
thần thiêng liêng của mình.
Trời vừa sáng, đám rước về đến đình làng. Sau đó là lễ đặt bài vị và lễ dâng vật
cúng của dân làng. Trong lễ, mọi người ai ai cũng giữ sự cung kính trước đám mục đồng.
Lễ vật xôi gà được bày trên chiếu hoa trải khắp ba gian đình, ai nấy đều hoan hỉ vì tin
rằng lòng thành của mình đã được thần mục chứng giám; và ngày mai, đồng ruộng sẽ tốt
tươi.


• Lễ Hội Cầu Ngư
Ngày đầu thiết lễ tiên thường, ngày sau là lễ tế chính thức. Trong ngày lễ, bàn thờ
được trang hoàng hết sức rực rỡ, trang nghiêm. Các nhà đều đặt bàn hương án bày đồ lễ
cúng. Trên mỗi tàu thuyền đều chăng đèn kết hoa. Làng chọn ra một ban nghi lễ gồm các
cụ cao niên, hiền đức, có uy tín với bạn chài và không bị mắc tang chế. Vị chánh bái dâng
đồ tế lễ (không được dùng hải sản) và đọc văn tế nói lên lòng biết ơn của dân làng đối với
công đức Cá Ông và cầu mong mùa đánh bắt bội thu, thuyền bè đi khơi về lộng an toàn.
Rạng sáng ngày hôm sau, dân làng đánh trống làm lễ rước trên biển. Có nơi còn tổ
chức lễ rước Ông từ làng này qua làng khác để bày tỏ sự đoàn kết giữa các vạn chài. Tất

cả tàu thuyền ra khơi đến một vị trí đã định trước và vị chánh tế tổ chức “xin keo”. Đó là
lễ Cá Ông chứng dám lòng thành của ngư dân ngoài biển. Vào nửa đêm hôm đó, dân làng
làm lễ chánh tế bao gồm lễ khai mõ, đội học trò dâng hương. Về phần hội, tuỳ điều kiện,
mỗi địa phương có một hình thức tổ chức riêng, nhưng cũng đều là các trò chơi dân gian
vùng biển: lắc thúng, đua thuyền, bơi lội, kéo co, đá bóng... Về văn nghệ, ngoài hát
tuồng, hát hò khoan, còn có một hình thức múa hát đặc trưng của Lễ hội Cầu ngư là múa
hát bả trạo (bả: nắm, trạo: chèo đò) diễn tả tinh thần đoàn kết giữa các thành viên trong
một con thuyền, vượt qua sóng to gió cả, mang về một mùa bội thu cho nhân dân.
2.2.2.2.Đánh giá
* Ưu điểm
Phần lễ tổ chức trang trọng, linh thiêng và thành kính, chương trình tham gia phần
hội phong phú hấp dẫn, bảo tồn có chọn lọc những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc
theo xu hướng lành mạnh, tiến bộ, tiết kiệm, tổ chức các hoạt động văn hóa dân gian, diễn
xướng dân gian, dân ca, dân vũ, dân nhạc của các dân tộc để quảng bá, giới thiệu những giá
trị văn hóa của các dân tộc Việt Nam. Gắn kết các hoạt động văn hóa, thể thao truyền thống
với quảng bá du lịch, giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam và mỹ tục truyền
thống văn hoá lâu đời tốt đẹp, độc đáo của dân tộc ta, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, tâm thức
hướng về nguồn cội của cộng đồng. Đồng thời các sinh hoạt lễ hội truyền thống đã góp
phần giáo dục đạo lý uống nước nhớ nguồn, tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng
đồng, làm nên vẻ đẹp của các công trình tín ngưỡng, tôn giáo.


- Một số lễ hội tổ chức với quy mô ngày càng lớn, hình thức tổ chức với nhiều nội dung,
nhiều hoạt động, các địa phương đã dựa vào nội lực là chính, nhiều lễ hội đã chinh phục
được du khách, tôn vinh di sản, nâng cao uy tín của thương hiệu du lịch hấp dẫn của địa
phương.
- Kinh nghiệm tổ chức một số Lễ hội Văn hóa, thể thao, du lịch đã dần dần mang tính
chuyên nghiệp hóa góp phần tạo ra doanh thu và hiệu quả đầu tư, góp phần đẩy mạnh và
nâng cao đời sống văn hóa cho nhân dân ở các địa phương. Đặc biệt loại hình lễ hội văn
hóa, thể thao, du lịch đã tạo ra sự đột phá tuyên truyền quảng bá những tiềm năng thế

mạnh, thành tựu kinh tế xã hội của địa phương, góp phần quảng bá hình ảnh và đất nước
con người Việt Nam, tôn vinh các giá trị văn hóa, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế trong văn hóa du lịch, tạo dấu ấn với du khách trong nước và
quốc tế
- Thông qua tổ chức lễ hội đã huy động được nguồn lực lớn từ nhân dân, phần lớn kinh
phí tổ chức lễ hội (đặc biệt là lễ hội dân gian) đều do nhân dân và du khách thập phương
tự nguyện đóng góp. Trong nhiều lễ hội, nhân dân đã đóng góp nguồn kinh phí lớn có thể
tính được bằng tiền tỷ để trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, bảo tồn các phong
tục, tập quán truyền thống.
* Hạn chế
- Công tác tuyên truyền, hướng dẫn cho quần chúng nhân dân hiểu rõ giá trị truyền thống
trong việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong công tác tổ chức lễ hội còn
hạn chế; Không ít lễ hội do nặng về hình thức quy mô phải hoành tráng với chương trình
nghệ thuật sân khấu hóa hiện đại, nặng về trình diễn nghệ thuật, đạo cụ, phô diễn tốn kém
nhưng nội dung chưa đảm bảo, còn đơn điệu, chung chung, ít được đầu tư từ đó giám tính
tích cực, hấp dẫn của lễ hội.
- Một số lễ hội còn có biểu hiện lãng phí. Còn xuất hiện hiện tượng bói toán, lên đồng, cờ
bạc, thương mại hóa trong hoạt động dịch vụ lễ hội, tệ nạn bán hàng rong, bán sách ngoài
luồng, xem tướng số, tử vi, lôi kéo khách hành hương, nâng giá trị dịch vụ, đặt tiền công
đức - giọt dầu tùy tiện, tệ nạn ăn xin, ăn mày... làm giảm đi tính tôn nghiêm và những nét
đẹp văn hóa trong hoạt động lễ hội.


- Lễ hội dân gian lớn được tổ chức quy mô và cầu kỳ hơn trước nhưng cơ sở vật chất, hệ
thống hạ tầng, đặc biệt là hình thức dịch vụ chưa đáp ứng nhu cầu mật độ đông của du
khách, văn hóa tâm linh có xu hướng thiếu lành mạnh.
- Lễ hội văn hóa, thể thao, du lịch có chiều hướng phát triển nhanh về số lượng và quy
mô tổ chức dẫn đến sự lúng túng trong công tác chỉ đạo quản lý hướng dẫn của địa
phương. Việc tổ chức lễ hội nghiêng về lợi ích kinh tế, do đó ý nghĩa văn hóa tinh thần
mờ nhạt.

- Do tác động của mặt trái kinh tế thị trường đã dẫn đến nhận thức sai lệch về mục đích tổ
chức lễ hội, coi di tích và lễ hội là nguồn lợi riêng của địa phương nên tập trung khai thác
giá trị kinh tế, thương mại hóa các loại hình hoạt động dịch vụ, làm giảm giá trị truyền
thống của lễ hội.
- Nếp sống văn hóa - văn minh của người phục vụ và người tham gia lễ hội còn yếu. Sự
bùng nổ nhu cầu tham gia lễ hội của đông đảo nhân dân ngoài dự kiến đã dẫn đến tình
trạng lộn xộn không kiểm soát được tại một số lễ hội lớn.
- Trình độ quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức hoạt động lễ hội của cán bộ văn hóa cơ cở
và những người trực tiếp quản lý di tích và điều hành lễ hội còn hạn chế.
2.2.3.Văn hóa ẩm thực Đà Nẵng
2.2.3.1.Giới thiệu và phân tích ẩm thực Đà Nẵng
Nguồn gốc, lai lịch và sự phát triển của văn hóa ẩm thực Đà Nẵng: Đà Nẵng vốn
thuộc xứ Quảng, vùng đất bao gồm tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng hiện nay. Vì
thế, văn hóa nói chung và văn hóa ẩm thực nói riêng của Đà Nẵng và Quảng Nam vẫn có
nhiều nét tương đồng, ảnh hưởng, tác động lẫn nhau.Văn hóa ẩm thực Quảng Nam - Đà
Nẵng, hay còn gọi là văn hóa ẩm thực xứ Quảng,có nguồn gốc từ văn hóa ẩm thực của
vùng châu thổ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, đặc biệt là vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh, vốn là cố
hương của lưu dân xứ Quảng và sự giao lưu với văn hóa Chăm, hình thành một nền văn
hóa ẩm thực mang hương vị riêng, phong cách riêng.
Một số đặc trưng của văn hóa ẩm thực Đà Nẵng: văn hóa ẩm thực xứ Quảng nói
chung, văn hóa ẩm thực Đà Nẵng nói riêng, có những đặc trưng đáng chú ý sau:
-Sử dụng nguyên liệu tại chỗ là chủ yếu;


- Coi trọng yếu tố “ăn lấy no”, thích ăn thật mặn, thật cay và thật ngọt;
- Thích ăn trầu cau, uống nước chè xanh và uống rượu gạo, ăn bánh tráng;
- Mang đậm dấu ấn của ẩm thực lưu dân, sẵn sàng chọn lọc, tiếp nhận và bản địa
hóa tinh hoa ẩm thực của các cộng đồng/dân tộc khác, sáng tạo trong chế biến và bảo
quản đồ ăn thức uống, coi trọng bữa ăn gia đình
Nhắc đến ẩm thực Đà Nẵng thì du khách sẽ nghĩ ngay đến các món hải sản ngon tuyệt.

Với vị trí gần biển cùng với nguồn hải sản dồi dào từ biển mà hải sản của Đà Nẵng rất đa
dạng và phong phú. Từ các á, tôm, cua, ghẹ, sò, mực … qua cách chế biến của các đầu
bếp trở thành nhiều món ăn ngon. Dọc các tuyến đườngtrong trung tâm thành phố có rất
nhiều nhà hàng Đà Nẵng nổi tiếng về các món hải sản để du khách có thể lựa chọn.Ngoài
ra tại Đà Nẵng cũng có nhiều món ăn đã trở thành thương hiệu như: Bánh tráng cuốn thịt
heo, Mì Quảng, các món ăn vặt như: ốc hút, mít trộn …Nhắc đến ẩm thực Đà Nẵng là
nhắc đến sự đa dạng của những món ăn đặc sản nơi Xứ Quảng. Cũng vì ẩm thực Đà
Nẵng đa dạng, phong phú mà nơi đây luôn không thiếu những món ăn ngon mới lạ. . Như
bánh tráng cuốn thịt heo là món ăn dân dã nhưng lại rất đặc trưng và hấp dẫn nhờ sự lựa
chọn nguyên liệu thịt heo và hương vị của nước chấm có một không hai của người dân
Đà Nẵng. Giờ đây món ăn đặc sản này đã trở thành thực đơn chính trong các nhà hàng
hay trong các toủ du lịch ở Đà Nẵng . Thoạt nhìn món ăn này trông rất đơn giản, nhưng
đừng vì thế mà nghĩ nó không ngon. Bánh tráng cuốn thịt heo không đòi hỏi phải chế
biến cầu kì nhưng quan trọng là phải lựa chọn nguyên liệu sao cho tinh tế, đạt được độ
tươi ngon có như vậy mới khiến cho món ăn càng hoàn hảo.g.Món ăn chỉ đơn giản là
cuộn thịt heo với bánh tráng và mì ướt kèm theo một chút rau sống, dứa, chuối xanh…
chấm với nước mắm nêm chua cay. Nhưng bí quyết lại nằm ở khâu chọn thịt. Thịt được
sử dụng phải là thịt phần mông hoặc vai sau đó đem hấp hơi để giữ nguyên vị ngọt của
thịt, khi thái phải thật mỏng và đặc biệt là ở hai đầu lát thịt phải có da. Món bánh tráng
cuốn thịt heo có ngon cũng phần nhiều lệ thuộc vào đĩa rau sống. Rau sống được dùng để
ăn kèm đều là những loại rau thông dụng, nhưng phải tươi: Xà lách, húng quế, giá, rau
đắng, búp, chuối xanh, … Bánh tráng cũng được lựa chọn kỹ, phải là loại mềm nhưng
vẫn dai để khi cuốn không bị rách. Và một thứ không thể thiếu đó chính là nước mắm
nêm, loại nước chấm mà nếu thiếu sẽ không thể có một món bánh tráng cuốn thịt heo
hoàn hảo. Đúng vị nhất phải là nước mắm nêm được pha chế từ ba loại mắm ruốc, mắm


cá thu và mắm thơm kết hợp với một chút gừng, tỏi, ớt… giã nhỏ là đã có một bát nước
chấm đúng vị. Khi ăn lấy một tấm bánh tráng mỏng, thêm một lá mì ướt, đặt lên trên các
loại rau ưa thích cuối cùng là miếng thịt heo thơm ngon, sau đó cuốn tất cả lại rồi chấm

vào bát nước mắm nêm và từ từ thưởng thức. Vị ngọt mềm của thịt heo, vị thanh mát của
các loại rau, cuộn lại trong chiếc bánh tráng và lá mì ướt cùng với một chút chua chua,
cay cay của mắm nêm tạo nên hương vị khiến ai cũng phải say mê.
Bánh tráng cuốn thịt heo từ một món ăn dân dã nay đã trở thành đặc sản của người dân
Đà Nẵng. Nhiều du khách đến với Đà Nẵng đã trót một lần thưởng thức lại đâm nghiện
mà tìm về với Đà Nẵng.

2.2.3.2.ĐÁnh giá :
* Ưu điểm
Đà Nẵng là vùng đất giao thoa văn hóa, hội tụ văn hóa của cả ba miền, cho nên để
tìm một sản phẩm riêng biệt, “đẩy” nó lên thành sản phẩm đặc trưng thì không có. Tuy
nhiên, chính “nhược điểm” đó lại trở thành ưu điểm để ẩm thực Đà Nẵng phát triển theo
hướng hội tụ ẩm thực 3 miền. Du khách đến Đà Nẵng có thể thưởng thức được món
ngon, vật lạ của 3 miền Bắc – Trung – Nam do chính người dân từ các địa phương đó
mang đến, thuê địa điểm mở quán ăn, biến tấu cho phù hợp với khẩu vị địa phương.Thành phố Đà Nẵng có vị trí địa lý thuận lợi với nguồn tài nguyên du lịch đa dạng, cảnh
quan thiên nhiên đẹp, lại nằm ở trung điểm các di sản văn hóa thế giới, cộng với bề dày
lịch sử, văn hóa, cách mạng đã tạo cho Đà Nẵng nhiều tiềm năng và điều kiện để phát
triển du lịch trở thành trung tâm du lịch lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á;
- Bên cạnh đó du lịch Đà Nẵng phát triển tương đối nhanh, hệ thống kinh doanh
khách sạn nhà hàng tăng cao. Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch được đầu tư phát
triển tương đối hiện đại, đồng bộ đáp ứng tốt nhu cầu và đã có nhiều sự kiện du lịch đáng
chú ý thu hút khách trong và ngoài nước đến tham dự khá đông như lễ hội bắn pháo hoa
quốc tế, biển mùa hè…;
- Vì thế, Đà Nẵng thu hút được rất nhiều du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng.


Với ưu điểm mạnh về ẩm thực Đà Nẵng sẽ đẩy mạnh đầu tư để thu hút khách du lịch
đông đảo hơn cùng với đó là chất lượng dịch vụ và khả năng phục vụ cũng phải được
nâng cao hơn.


* Hạn chế :
Tất cả được chế biến theo khẩu vị riêng của người Đà Nẵng và không ít nhà hàng,
quán ăn rất bình dân nhưng lại khá đông du khách tìm đến theo kiểu “người đi trước chỉ
người đi sau”. Những món dân gian này dĩ nhiên giá cả hợp túi tiền của du khách. Ẩm
thực Đà Nẵng tuy phong phú, giá cả không quá đắt đỏ, nhưng dịch vụ ẩm thực vẫn chưa
vươn lên thành sản phẩm du lịch. Nguyên nhân là do các nhà hàng, quán ăn ít giới thiệu
sản phẩm của mình cho các hãng lữ hành, nên các hãng lữ hành không có thông tin để
đưa vào chương trình giới thiệu cho du khách.
Thêm vào đó, du khách biết đến ẩm thực Đà Nẵng chủ yếu qua lời kể của bạn bè,
qua sự giới thiệu trực tiếp của hướng dẫn viên, hoặc là vô tình đến ăn, chứ chưa có nhiều
thông tin, hay ấn tượng gì đặc biệt với ẩm thực Đà Nẵng, nên dù có những đặc sản ngon,
đa dạng thì Đà Nẵng cũng chưa là “thỏi nam châm” để thu hút du khách sành ăn.
Ngoài khâu quảng bá, truyền thông chưa tốt, các hàng quán ở Đà Nẵng vẫn chưa
có sự liên kết với nhau để cùng phát triển, chưa thực sự “biết làm du lịch”. Hàng quán
vẫn “mạnh ai nấy bán”. Nhiều du khách đã phản ánh: ngại nhất là những quán ăn san sát
nhau, khách đến cứ chèo kéo, vẫy tay, gọi í ới, đến khi vào quán này mà không vào quán
kia lại quay ra lườm nguýt, nói nặng nhẹ. - Năng lực cạnh tranh của du lịch Đà Nẵng còn
thấp do dịch vụ chưa đa dạng, chất lượng dịch vụ còn kém, giá cả cao, sản phẩm du lịch
ít phong phú:
- Phần lớn cơ sở kinh doanh dịch vụ ẩm thực ở Đà Nẵng thuộc loại nhỏ, chất
lượng dịch vụ hạn chế, năng lực quản lý thấp. Ðội ngũ nhân lực du lịch thiếu và yếu về
trình độ ngoại ngữ và kinh nghiệm, nhất là thiếu những người có chuyên môn cao;
- Điều kiện vệ sinh trong nhiều quán ăn, nhà hàng chưa đảm bảo và chưa được đầu
tư thích đáng. Nguồn nguyên liệu để chế biến các món ăn chưa được kiểm soát chặt chẽ
và đảm bảo VSATTP;


-Chất lượng cơ sở vật chất phục vụ du lịch của Đà Nẵng còn hạn chế, chưa đáp
ứng tốt nhu cầu phát triển của lĩnh vực du lịch. Các hội nghị, hội thảo lớn ít được tổ chức
tại Đà Nẵng do ở đây chưa đáp ứng được nhu cầu;

-Sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, đơn điệu, chưa hấp dẫn du khách, đặc biệt
khách quốc tế. Đà Nẵng còn thiếu trung tâm vui chơi giải trí mang tầm quốc tế. Hiện nay,
trên địa bàn thành phố có vài điểm vui chơi công cộng, phục vụ chủ yếu là người dân địa
phương chứ không phải cho du khách;
-Đà Nẵng chưa có các loại hình du lịch dịch vụ chất lượng cao như khu vui chơi
hiện đại, trung tâm giải trí cao cấp, khu siêu thị miễn thuế để thu hút du khách đến vui
chơi giải trí và mua sắm.
2.2.4.Văn hóa khác
2.2.4.1.Giới thiệu và phân tích một số văn hóa khác
* Ngôn ngữ
Một trong những “trở ngại” lớn nhất của du khách khi đến với Đà Nẵng đó chính
là vấn đề ngôn ngữ. Không dễ nghe và dễ hiểu như ngôn ngữ miền Bắc và miền Nam,
việc nghe và hiểu được tiếng nói của người dân miền Trung nói chung, người dân Đà
Nẵng nói riêng là một điều không hề đơn giản đối với không ít du khách. Bởi lẽ, bên
cạnh cách phát âm khá “đậm đặc” thì cách nói nhanh cùng với việc sử dụng khá nhiều
phương ngữ khiến cho tiếng nói người dân Đà Nẵng trở nên tương đối khó nghe.
*Tôn giáo
Đà Nẵng được xem là một trong những thành phố năng động bậc nhất của Việt
Nam hiện nay, với vị trí nằm ở Trung Bộ của đất nước, có vị trí trọng yếu cả về kinh tế xã hội và quốc phòng - an ninh; là đầu mối giao thông quan trọng cả về đường bộ, đường
sắt, đường biển và đường hàng không, là cửa ngõ chính vươn ra biển Đông của các tỉnh
miền Trung, Tây Nguyên và các nước tiểu vùng sông Mê Kông, Đà Nẵng có bãi biển đẹp
được xếp vào một trong 5 bãi biển đẹp nhất hành tinh, nhiều danh thắng, di tích lịch sử…
là tiềm năng để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nói chung, đồng thời cũng là điều kiện
thuận lợi để du nhập và phát triển các loại hình tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo và đông đảo


×