Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Tìm hiểu những đặc điểm chung của vùng Trung Bộ và nhìn nhận riêng vùng văn hoá Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.24 KB, 40 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Vùng văn hóa - khái niệm này đặc trưng cho từng bản sắc riêng của từng vùng
dưới sự thống nhất do cùng cội nguồn tạo ra bẳn sắc chung. Nó làm nên tính đa
dạng cho bức tranh văn hóa dân tộc. Vùng văn hóa do đó chỉ sự khác nhau của đặc
trưng văn hóa tộc người theo không gian địa lý trên mọi lãnh thổ. Những nhóm tộc
người khác nhau ở những chỗ khác nhau tạo nên sự phân hóa vùng văn hóa. Từ xa
xưa ông cha ta đã ý thức về việc phân biệt văn hóa vùng miền và ngày càng được
chú trọng một cách ý thức trong giới nghiên cứu ngày nay. Theo đó, về tổng quát
vùng lãnh thổ Việt Nam chia làm 6 vùng văn hóa trong đó có vùng văn hóa Trung
Bộ.
Trung Bộ, ngoại trừ Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, từng là nơi định cư của
các tiểu vương quốc Chăm-pa. Vì vậy đặc điểm căn bản văn hoá vùng Trung Bộ
chủ yếu mang dấu tích của văn hoá Chăm-pa. So với 2 vùng Bắc Bộ và Nam
Bộ thì Trung Bộ thể hiện rõ nét là một vùng đệm mang tính trung gian. Nơi đây
phần nào đã chịu sự ảnh hưởng từ các yếu tố tự nhiên là núi non, biển, sông ngòi,
các đầm và đồng bằng, vào trong các thành tố văn hoá vùng. Thể hiện qua các loại
hình văn hóa, tập tục xã hội nói chung và cuộc sống trong các làng, xã đồng bằng
ven biển nói riêng. Các làng nghề nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công, có hoạt động
đan xen, hỗ trợ nhau. Điển hình là các ngày lễ cúng đình của làng nghề nông
nghiệp và đồng thời là lễ cúng cá ông của làng nghề đánh cá, phần do vùng Trung
Bộ gồm có những tiểu đồng bằng nhỏ hẹp, bám sát vào các chân núi ven biển. Khí
hậu quanh năm trong vùng không được thuận lợi và tính chất văn hoá vùng miền
chịu sự chi phối mạnh của điều kiện tự nhiên vốn luôn khắc nghiệt này. Tuy văn
hóa Trung Bộ có những đặc điểm riêng biệt với các vùng khác, nhưng xuất phát từ
hệ thống địa lý liền một dải, lại có mối quan hệ tương hỗ giữa các vùng miền
trong lịch sử phát triển nên vừa có tính đặc trưng lại vừa tương đồng với nền văn
1


hoá chính thể. Bên cạnh đó, ta còn biết được giá trị văn hóa vùng Trung Bộ qua
lĩnh vực du lịch và ẩm thực mà cụ thể là tiểu vùng văn hóa xứ Huế và sự phát triển


của nó.
Chính những đặc điểm tự nhiên, xã hội, lịch sử này của Trung Bộ đã tạo cho
vùng văn hóa Trung Bộ những đặc điểm riêng, so với các vùng văn hóa khác của
Việt Nam. Để biết được rõ hơn về “ văn hóa đặc trưng cũng như các giá trị văn
hóa của vùng văn hóa Trung Bộ”, chúng ta sẽ đi tìm hiểu những đặc điểm chung
của vùng Trung Bộ và nhìn nhận riêng vùng văn hoá Huế.
Phần I. Cơ sở lý thuyết
Trong các nhân tố thúc đẩy sự phát triển của văn hóa, các điều kiện này khác
nhau ở các vùng tạo ra sự phát triển văn hóa giữa các vùng có nhiều điểm không
tương đồng và tạo nên một khái niệm đặc trưng cần nghiên cứu: không gian văn
hóa – vùng văn hóa.
1.1.

Không gian văn hóa

Không gian văn hóa là khái niệm liên quan chặt chẽ nhưng không đồng nhất với
khái niệm lãnh thổ. Nó bao quát tất cả những vùng lãnh thổ mà ở đó dân tộc đã tồn
tại qua các thời đại, nghĩa là được xem xét qua một chiều dài thời gian. Khái niệm
không gian văn hóa rộng hơn khái niệm không gian lãnh thổ. Như vậy, không gian
văn hóa là khái niệm chỉ những vùng lãnh thổ qua sự tích lũy của bề dày thời gian
lịch sử. Nó thường là khái niệm mang tính tương đối , không tách bạch như không
gian lãnh thổ, thậm chí không gian văn hóa của hai dân tộc cạnh nhau thường có
phần chồng lên nhau có miền giáp ranh .
Chẳng hạn không gian văn hóa Việt Nam có liên hệ mật thiết nhưng không
đồng nhất với không gian lãnh thổ. Nó không chỉ giới hạn trong giới hạn lãnh thổ

2


mà có ảnh hưởng qua lại đến văn hóa các dân tộc, lãnh thổ lân cận như: Trung

Hoa, Lào, Campuchia,...với các miền giáp ranh tương ứng.
Xét từ nguồn cội, không gian văn hóa Việt Nam vốn được hình thành trên nền
của không gian văn hóa khu vực Đông Nam Á. Nó được hình dung như một hình
tròn bao quát toàn bộ Đông Nam Á lục địa và phần hải đảo.
1.2.

Vùng văn hóa

Khái niệm đặc trưng cho bản sắc riêng của từng vùng dưới sự thống nhất do
cùng cội nguồn tạo ra bản sắc chung. Nó làm nên tính đa dạng cho bức tranh văn
hóa dân tộc. Vùng văn hóa do đó chỉ sự khác nhau của đặc trưng văn hóa tộc người
theo không gian địa lý trên một lãnh thổ. Những nhóm tộc người khác nhau ở
những chỗ khác nhau tạo nên sự phân hóa vùng văn hóa.
Từ xa xưa ông cha đã ý thức việc phân biệt văn hóa vùng miền và ngày càng
được chú trọng một cách ý thức trong giới nghiên cứu ngày nay. Tuy nhiên hiện
còn nhiều ý kiến không đồng nhất theo từng khuynh hướng từng tác giả.
1.3.

Di sản văn hóa

Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là
sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền
từ thế hệ này qua thế hệ khác
Phần II. Khái quát vùng văn hóa Trung Bộ
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên Trung Bộ
a) Vị trí ,địa hình

3



Trung bộ là miền đất được giới hạn phía Bắc giáp với khu vực đồng bằng sông
Hồng và Trung du miền núi Bắc Bộ , phía Nam giáp với các tỉnh Bình Phước,
Đồng Nai, Bà Ria Vũng Tàu; phía Tây giáp 2 nước LàovàCampuchia.
Vùng trung bộ bao gồm các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế,
Quảng Nam Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên,Khánh Hòa,Ninh Thuận,Bình
Thuận và thành phố Đã Nẵng hiện nay.
Trung bộ bao gồm Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ
- Địa hình vùng Trung Bộ bị cắt xẻ bởi các đèo và sông :
 Địa hình miền trung chia cắt theo chiều dọc Bắc Nam bởi các đèo tách từ núi
đồi đâm từ dãy Trường Sơn ra biển .
 Sông ở trung bộ chảy theo hướng Tây – Đông ra biển sông ngắn nước biếc
xanh ít phù sa châu thổ hẹp , nhiều cửa sông tạo thành các vịnh, cảng. Vùng
Trung Bộ còn có nhiều đảo , quần đảo lớn như Hoàng Sa , Trường Sa , Hòn
Gio( Quảng Bình ) , Cồn Cỏ ( Quảng Trị), Cù Lao Chàm ( Quảng Nam ) , Lý
Sơn( Quảng Ngãi ) , Phú Qúy ( Phú Yên ) , Hòn Tre( Khánh Hòa) ..
- Đường bờ biển kéo dài, ưỡn cong ra biển Đông tuy là hướng gió ,bão sóng
thần nhưng đây cũng là nơi có luồng cá biển chạy gần bờ hơn so với miền bắc.
Ngoài ra sát bờ biển , từ Quảng Bình trở vô Nam , Ngãi , Bình Phú có các dải
cồn cát chạy dọc dài Bắc Nam . Ở giữa các dải cồn cát là vùng trũng nổi ,chân cồn
là những vùng nước ngọt.
b) Khí hậu
Miền Trung có mùa mưa lệch pha so với hai đầu Bắc Nam của đất nước, chịu
ảnh hưởng của gió Tây khô nóng thổi từ Lào sang.Khí hậu Trung Bộ được chia ra
làm hai khu vực chính là Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Nam Trung Bộ.

4


Khu vực Bắc Trung Bộ (bao gồm toàn bộ phía Bắc đèo Hải Vân ). Vào mùa
đông , do gió mùa thổi theo hướng Đông Bắc mang theo hơi nước từ biển vào nên

toàn khu vực chịu ảnh hưởng của thời tiết lạnh kèm theo mưa. Đây là điểm khác
biệt với thời tiết khô hanh vào mùa Đông vùng Bắc Bộ. Đến mùa hè, không còn
hơi nước từ biển vào nhưng có thêm gió mùa Tây Nam(còn gọi là gió Lào) thổi
ngược lên gây nên thời tiết khô nóng, vào thời điểm này nhiệt độ ngày có thể lên
tới trên 40độC, trong khi đó độ ẩm không khí lại rất thấp.
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ (bao gồm khu vực đồng bằng ven biển Nam
Trung Bộ thuộc phía Nam đèo Hải Vân). Gió mùa Đông Bắc khi thổi đến đây
thường suy yếu đi do bị chặn lại bởi dãy Bạch Mã. Vì vậy khi về mùa hè khi xuất
hiện gió mùa Tây Nam thổi mạnh từ vịnh Thái Lan và tràn qua dãy núi Trường Sơn
sẽ gây ra thời tiết khô nóng cho toàn bộ khu vực.
c) Tài nguyên thiên nhiên
Bắc Trung Bộ
 Là vùng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch với các bãi biển
đẹp như: Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An), Nhật Lệ (Quảng Bình),
Cửa Tùng (Quảng Trị), Thuận An, Lăng Cô (Thừa Thiên – Huế)…
 Nhiều cảnh quan thiên nhiên đặc sắc như: sông Hương, phá Tam Giang, cầu
Hai (Thừa Thiên – Huế), núi Thiên Cầm, hồ Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh)…
 Các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia: Bến En (Thanh Hóa), Pù
Huống, Pù Mát (Nghệ An), Vũ Quang, Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh), Phong Nha – Kẻ
Bàng (Quảng Bình), Bạch Mã (Thừa Thiên – Huế)…

5


 Những di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc có giá trị: Kinh thành Huế, đường
mòn Hồ Chí Minh hay địa đạo Vịnh Mốc, nghĩa trang Trường Sơn, căn cứ
Cồn Tiên, Thành cổ Quảng Trị…
Nơi đây còn là quê hương của nhiều lễ hội độc đáo như: lễ hội Lam Kinh
(Thanh Hóa), lễ hội đền Cuông (Nghệ An), lễ hội điện Hòn Chén (Thừa Thiên –
Huế); đặc biệt Festival Huế được tổ chức định kỳ 2 năm một lần đã trở thành một

sự kiện văn hóa mang tầm quốc tế được nhiều du khách trong và ngoài nước quan
tâm.
Khu vực này còn là nơi tập trung 4 di sản thế giới được UNESCO công nhận là
Thành nhà Hồ, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quần thể di tích cố đô Huế
và Nhã nhạc – Âm nhạc cung đình Việt Nam. Đây cũng là quê hương của nhiều
danh nhân nổi tiếng Việt Nam như: Hồ Chí Minh, Nguyễn Du, Phan Bội Châu,
Trần Phú, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn...; các vua nhà Lê, nhà Hồ, nhà Nguyễn, chúa
Nguyễn, chúa Trịnh...

Duyên hải Nam Trung Bộ
Khu vực này có địa hình phức tạp, đồi - núi - rừng - biển đan xen tạo nên nhiều
kỳ quan, thắng cảnh hùng vĩ cùng những bãi tắm với biển xanh, cát trắng, nắng
vàng thơ mộng. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi để các tỉnh trong khu vực phát
triển du lịch mà trọng tâm là du lịch biển - đảo.
Biển Đà Nẵng đã được Tạp chí Forbes (Mỹ) bình chọn là 1 trong 6 bãi biển hấp
dẫn nhất hành tinh. Nha Trang với nhiều vũng, vịnh, bãi tắm sóng gió miên man
làm mê hồn biết bao du khách như: vịnh Cam Ranh, vịnh Vân Phong, bãi biển Đại
6


Lãnh, bãi Trũ, hòn Tằm... Phú Yên với bờ biển dài 190km, nhiều nơi núi - biển liền
kề tạo nên nhiều vịnh, đầm mang vẻ đẹp tự nhiên, hoang sơ như: vịnh Vũng Rô,
vịnh Xuân Đài, vũng Lắm, đầm Cù Mông, đầm Ô Loan, ghềnh Đá Đĩa….
Du lịch biển đảo: Cù lao Chàm (Quảng Nam), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Quy
Nhơn (Bình Định), Ninh Chữ - Cà Ná (Ninh Thuận), Mũi Né (Bình Thuận).
Hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng nằm trên địa phận các tỉnh Duyên
hải Nam Trung bộ. Đây là cơ sở để phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng, thể thao
trênbiển, trên cát và là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá để phát triển loại hình du
lịch sinh thái biển, lặn biển trong tương lai.
Những di tích văn hóa, lịch sử độc đáo như quần thể đền tháp Champa, thành cổ

Trà Bàn, thành Trường Lũ.
Duyên hải Nam Trung Bộ còn có 2 Di sản văn hóa thế giới được UNESCO
công nhận là đô thị Hội An và khu đền tháp Mỹ Sơn, hàng năm thu hút rất đông du
khách trong và ngoài nước đến tham quan, khám phá.

2.2. Đặc điểm về con người Trung Bộ:
Con người Trung Bộ luôn chịu thương chịu khó chăm chỉ cần cù bởi thiên
nhiên ở đây quá khác nghiệt. Tuy nhiên người miền trung luôn thật thà mộc mạc
chân chất có tấm lòng hiếu khách và yêu thương nhau .

7


Điều kiện tự nhiên tuy khí hậu khắc nghiệt nhưng miền Trung Bộ có được
những danh nam thắng cảnh đẹp, có đường bờ biển dài thuận lợi co phát triển du
lịch biển và hơn cả là con người miền trung bộ thật thà, thân thiện và hiếu khách.
2.3. Không gian văn hóa vùng Trung Bộ
Khác với hai vùng châu thổ ở hai đầu đất nước, vùng Trung Bộ là nơi chịu sự
phân cắt mạnh bởi địa hình, tạo thành các tiểu vùng, giới hạn bởi các dải núi từ dãy
Trường Sơn ở phía tây vươn ra tới biển. Các dòng sông trong vùng thường ngắn và
dốc, chảy theo hướng đông - tây ra biển, lưu vực nhỏ, cửa sông thường bị chế ngự
bởi các cồn cát chạy dài dọc bờ biển. Vì thế trong toàn vùng không có sự liên kết
trực tiếp bằng mạng lưới đường thủy như các vùng châu thổ ở Bắc Bộ và Nam Bộ.
Với đặc điểm cấu tạo địa hình như vậy, không gian văn hóa vùng duyên hải
miền Trung thường bao hợp cả không gian văn hóa biển đảo, văn hóa duyên hải,
văn hóa nông thôn đồng bằng và văn hóa miền núi - trung du.
a) Văn hóa biển đảo
Trong nhiều thế kỷ trước, một số đảo ở vùng duyên hải miền Trung đã có con
người cư trú. Trong đó, quần đảo Cù Lao Chàm từng là bến cảng nằm trên “con
đường tơ lụa trên biển” nối liền từ đông sang tây, có tính chất và niên đại cùng với

cảng Kokokhao, Laempho của Nam Thái Lan, cảng Mantai của Srilanca khoảng
thế kỷ IX – X. Do thiên nhiên tạo nên ở vùng biển miền Trung các luồng hải lưu
gần bờ, đã đem đến cho vùng biển này những luồng cá lớn đi sát bờ, và do địa hình
có núi vươn ra sát biển, hoạt động nông nghiệp khó khăn do đồng bằng chật hẹp,
nên khi thiên di tới vùng đất này, người Việt buộc phải thích nghi với biển. Vì vậy,
có thể nói, chất biển đậm màu trong văn hóa của người Việt ở vùng đất này, thể
hiện trong nếp sống văn hóa với những phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội dân
gian.
8


b) Văn hóa đô thị:
Những đặc điểm về địa hình không chỉ tạo cho vùng Trung Bộ mang một diện
mạo tự nhiên đặc trưng mà còn hình thành nên một phong cách văn hóa mở. Phía
trước là biển cả đã đem lại cho cư dân nơi đây không chỉ không gian biển đầy sóng
gió và những nguồn lợi phong phú từ đại dương, mà còn tạo cho họ một phong
cách sống, một lối tư duy khoáng đạt, rộng mở, sẵn sàng đón nhận những luồng
dịch chuyển văn hóa mạnh mẽ từ bên ngoài vào. Phong cách sống, lối tư duy đặc
trưng ấy cùng với thời gian, với những con sóng, ngọn gió cùng với sự quần cư của
số đông người ven những con sông thì diện mạo đầu tiên của một đô thị được hình
thành.
Dưới thời các chúa Nguyễn cai trị ở Đàng Trong (1558 - 1775), nhiều đô thị
thương cảng được hình thành và phát triển rực rỡ như Hội An (Quảng Nam),
Thanh Hà (Huế), Nước Mặn (Bình Định)... Những đô thị cổ này thường nằm bên
những con sông lớn, bởi nó thuận tiện cho việc đi lại và vận chuyển hàng hóa bằng
đường thủy. Những cảng thị ấy xuất hiện như một tất yếu trong một không gian
văn hóa của cả vùng duyên hải miền Trung, chúng được các nhà nghiên cứu gọi là
“mặt tiền văn hóa” của miền đất này. Chính đô thị là nơi gặp gỡ của những luồng
văn hóa khác nhau ở trong nước cũng như quốc tế. Sự giao lưu với những luồng
văn hóa từ bên ngoài thông qua những con sông đã tạo dựng nên một lối tư duy

của cư dân đô thị thương cảng.
Trong vùng Trung Bộ đã hình thành một chuỗi đô thị với hàng trăm năm tuổi:
Huế, Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang…
Tuy nhiên, so với các đô thị lớn ở hai đầu đất nước, đô thị ở miền Trung là các đô
thị quy mô nhỏ, tầng lớp thị dân ở các đô thị này có gốc gác trực tiếp với tầng lớp
nông dân ven đô. Vì thế văn hóa đô thị ở trong vùng duyên hải miền Trung có tính

9


chất đặc thù, khác với văn hóa đô thị ở các đô thị lớn, và có mối quan hệ chặt chẽ
với những vỉa tầng văn hóa khác ở trong vùng.
c) Văn hóa duyên hải:
Vùng duyên hải miền Trung được che chắn bởi những cồn cát nằm ven biển
chạy dọc từ bắc xuống nam.Phía sau những cồn cát rộng lớn bao giờ cũng có
những đầm hồ hẹp, là dấu tích của vụng biển cũ. Trên vùng này, khi tiến dần về
phương Nam mở cõi, người Việt đã gặp biển và theo truyền thống nông nghiệp, họ
“quai đê lấn biển”, khai phá những vùng sình lầy, phù sa ven biển và sử dụng một
số biện pháp khử mặn, rửa chua, thuần hóa đất… Cư dân vùng này tuy sống ven
biển nhưng do điều kiện môi trường và phương tiện khai thác thủy, hải sản còn hạn
chế, nên chỉ một bộ phận trong số họ sinh sống bằng nghề biển. Phần dân cư còn
lại sống bằng nghề nông, trồng các loại hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày
như khoai, sắn, đậu phụng, thuốc lá... trên các vùng động cát và một ít lúa nước
trong những dải đất hẹp ở các cồn bàu ven biển.Chính điều này đã tạo nên những
nét văn hóa mang đặc trưng riêng.
Cư dân ở vùng do tiếp xúc với biển và nhiều luồng văn hóa khác nhau nên đã
tích lũy được một số kiến thức nhằm khai thác biển, như nhận thức về các hiện
tượng tự nhiên, độ nông sâu, thoải dốc của bờ, các dòng hải lưu nóng lạnh, chế độ
thủy triều, chu kỳ con nước, các loại hải vật và sinh hoạt của chúng trong không
gian và thời gian, các công cụ đánh bắt, hướng gió, mây, trăng, sao… cùng những

kiêng kỵ dần dần hình thành trong đời sống văn hóa của họ.
d) Văn hóa nông thôn đồng bằng:
Các nhà địa lý, địa chất cho rằng, đồng bằng ở đây có nguồn gốc khác nhau.
Đất phù sa trong các đồng bằng này thường rất màu mỡ nên người dân nơi đây chủ
yếu trồng lúa và các loại cây hoa màu như mía, khoai, đậu phụng và bắp. Một số
10


nơi người ta trồng rất nhiều dừa như ở khu vực Tam Quan (Bình Định), những
rừng dừa bạt ngàn nơi đây ước đến 1.000.000 cây trên một chiều dài khoảng chừng
30 km, rộng 20 km, làm cho cảnh quan ở đây xanh và tươi mát lạ thường.Trên
những cánh đồng, họ biết cách để “dẫn thủy nhập điền” tưới tiêu hoa màu.Trên hệ
thống mương cổ này, người dân đã nạo vét để tạo thành một mạng lưới thủy nông
tương đối dày, phục vụ tưới tiêu nông nghiệp. Bên cạnh đó, họ còn biết khai thác
nguồn nước ngầm bằng cách đào nhiều giếng ngoài ruộng, bên cạnh mỗi giếng lại
có chiếc “cần vọt” để múc nước lên tưới cho lúa, mía và hoa màu.
Chính vì vậy, văn hóa của cư dân đồng bằng chính là văn hóa nông nghiệp, hình
thành nên những phong tục, tập quán, lễ hội,… gắn liền với các hoạt động sản xuất
nông nghiệp như tục làm đất, bắt mộng, tát nước, hạ điền, thượng điền, tục đảo võ
cầu mưa, cầu bông, bón phân, gặt lúa, cúng cơm mới, xôi mới, trồng cây hoa màu,
cây công nghiệp ngắn ngày…, với những điệu hò, câu lý trong lao động sản xuất,
hò khoan đối đáp của trai gái nông thôn… Tất cả đã tạo nên những nét đẹp trong
đời sống của người dân nông thôn quanh năm chân lấm tay bùn.
e) Văn hóa miền núi – trung du
Một đặc trưng lớn nhất và cơ bản trong đời sống của người dân miền núi là nếp
sống nương rẫy.Đây là nếp sống chủ đạo và bao trùm lên tất cả các tộc người trong
Vùng.Về kinh tế, đó là truyền thống canh tác nương rẫy trên vùng đất khô của sơn
nguyên. Về xã hội, nếp sống nương rẫy duy trì các quan hệ cộng đồng công xã làng
buôn, các quan hệ bình đẳng, dân chủ của xã hội nguyên thủy,... Có thể nói, toàn
bộ đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của dân tộc miền núi duyên hải

miền Trung gắn bó với rừng núi và nương rẫy, từ tín ngưỡng, lễ hội, phong tục,
nghi lễ, đời sống tình cảm… Đó có thể được gọi chung là văn hóa rừng.

11


Có thể nói, các tộc người cùng sinh sống trên vùng núi miền Trung có những
nét tương đồng và khá đặc trưng về quan niệm ứng xử giữa thế giới người sống và
người chết, từ đó tạo nên cả một hệ thống những tập tục, nghi lễ, sinh hoạt văn hóa
xung quanh thế giới người chết, tạo nên một hiện tượng văn hóa dân gian mang
tính tổng thể - sinh hoạt nhà mồ. Từ đó, họ sáng tạo ra nghệ thuật trang trí nhà mồ,
tượng nhà mồ, các nhạc cụ, bài hát, điệu múa dành riêng cho sinh hoạt lễ hội nhà
mồ.
Điểm nổi bật trong đời sống văn hóa của tất cả các tộc người sinh sống trên
vùng núi Trung Bộ là lễ hội.Trong các lễ hội đó, nghi lễ hiến sinh trở thành quan
trọng và không thể thiếu được, ngày nay nó vẫn còn hiện diện trong đời sống của
nhiều tộc người thông qua nghi lễ đâm trâu.Điều đặc biệt là trong các lễ hội truyền
thống, trong ma chay, cưới hỏi, nghi lễ tôn giáo… không thể thiếu tiếng chiêng.
Tiếng chiêng gắn bó với mỗi đời người từ thuở lọt lòng cho đến khi trưởng thành
và đến lúc chết; tiếng chiêng âm vang suốt vụ mùa, từ đầu tháng tìm rẫy đến cuối
năm gặt hái, săn bắn; tiếng chiêng thôi thúc dân trong làng trong suốt mùa lễ hội,
gọi mời khách ngoài làng, đánh thức thần linh trong rừng, trên trời.
2.4. Di sản văn hóa vùng Trung Bộ
a) Văn hóa vật thể:
- Di tích lịch sử văn hóa:
Miền Trung là nơi có nhiều di tích LSVH bậc nhất Việt Nam.Trong đó có 3
quần thể di tích LSVH đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Đó
là: Quần thể di tích cố đô Huế (Thừa Thiên Huế), Đô thị cổ Hội An và Thánh địa
Mỹ Sơn (Quảng Nam).Hầu như ở bất kỳ tỉnh thành nào cũng đều có nhiều di tích
LSVH gắn liền với những cư dân đã từng sinh sống trên mảnh đất này. Đâu đó

trong lòng đất, người ta lại bắt gặp những hiện vật của cư dân nền văn hóa Sa
Huỳnh có niên đại cách nay trên dưới 2.000 năm, hay những kiến trúc đền tháp của
12


nền văn hóa Champa tồn tại ở khắp các địa phương trong vùng, từ Thừa Thiên Huế
cho đến Khánh Hòa, nơi nào cũng có các đền tháp Champa.

- Các bảo tàng:
Các bảo tàng trong vùng hầu hết là bảo tàng tổng hợp hay bảo tàng khảo cứu
địa phương, nhằm lưu giữ, trưng bày, những hiện vật về đời sống tự nhiên, lịch sử,
con người... trong vùng. Ngoài ra, còn có những bảo tàng chuyên ngành hoặc bảo
tàng chuyên đề như: Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, Bảo tàng Văn hóa Huế, Bảo
tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng, Bảo tàng Gốm sứ mậu dịch Hội An, Bảo tàng Văn
hóa Sa Huỳnh, Bảo tàng Sinh vật biển Nha Trang… Hoặc những bảo tàng danh
nhân như: Chi nhánh Bảo tàng Hồ Chí Minh (Thừa Thiên Huế), Bảo tàng Quang
Trung (Bình Định), Nhà lưu niệm bác sĩ Yersin (Khánh Hòa)…
- Danh lam thắng cảnh:
Miền Trung hiện nay có chiều dài bờ biển khoảng 1.161 km, với nhiều vũng,
vịnh và những bãi tắm đẹp hấp dẫn du khách trong và ngoài nước như: Thuận An,
Cảnh Dương Lăng Cô (Thừa Thiên Huế); Xuân Thiều, Mỹ Khê, Non Nước (Đà
Nẵng); Cửa Đại, Tam Thanh (Quảng Nam); Mỹ Khê, Sa Huỳnh (Quảng Ngãi);
Quy Nhơn, Hoàng Hậu (Bình Định); Tuy Hòa, Bãi Môn - Mũi Điện (Phú Yên);
Nha Trang, Cam Ranh (Khánh Hòa)...
Bên cạnh đó, còn nhiều cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, những thắng tích do thiên
nhiên khéo tạo nổi tiếng như: Sông Hương, Ngự Bình, Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng);
Cù Lao Chàm, Hồ Phú Ninh, Suối Tiên…
b) Văn hóa phi vật thể:
13



- Phong tục tập quán:
Ở bất kỳ tỉnh, thành nào của miền Trung, chúng ta cũng bắt gặp những ngôi
miếu thờ nữ thần gọi chung là miếu thờ Bà. Bà ở đây gồm cả Thiên Hậu, Tống
Hậu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Ngũ Hành, Bà Thủy Long, Bà Lường… đặc biệt là
Thiên Y A Na.Thánh mẫu Thiên Y A Na là vị nữ thần mang trong mình sự hỗn
dung văn hóa Chăm - Việt. Nói cách khác, Thiên Y A Na chính là sự Việt hóa Bà
Mẹ Xứ Sở của người Chăm, mà đặc biệt địa bàn của quá trình Việt hóa này là vùng
duyên hải miền Trung.
Có lẽ đặc trưng và điển hình nhất cho tín ngưỡng dân gian vùng ven biển miền
Trung là tục thờ cá Ông (cá voi). Có thể nói, đi đến đâu chúng ta cũng bắt gặp tục
thờ này và cá Ông được tôn xưng với các tước hiệu khác nhau như Nam Hải Đại
Tướng Quân, Cự Tộc Ngọc Lân Tôn Thần, Đại Càn Nam Hải Đại Tướng Quân,
Đông Hải Ngọc Lân Tôn Thần và các danh xưng dân gian khác như: Ông Khơi,
Ông Lộng, Ông Lớn, Ông Sanh, Ông Chuông, Ông Cậu… Trong các làng, nhất là
làng chài lưới trên biển đều có lăng thờ cá Ông. Hàng năm, vào những ngày nhất
định liên quan đến nghề đánh cá, người dân tổ chức lễ Nghinh Ông từ ngoài biển
về để tế lễ và múa hát bả trạo.Tục thờ cá Ông gắn với một hiện tượng có thật về cá
voi hay cứu người, cứu thuyền lúc bão tố ngoài khơi. Do vậy, có thể coi nghi thức
thờ phụng cá Ông của cư dân miền Trung như là một hiện tượng văn hóa dân gian
tổng thể, trong đó cốt lõi là tục thờ cúng cá Ông, một loại hình tín ngưỡng đặc
trưng của cư dân ven biển.
- Lễ hội
Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa lâu đời, có sức lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân
và đã trở thành một nhu cầu sinh hoạt tinh thần không thể thiếu của nhân dân ta
trong nhiều thế kỷ. Ngày nay, trên dải đất miền Trung, miền nào cũng có những
sinh hoạt lễ hội truyền thống khá đậm nét gắn liền với đời sống tín ngưỡng của cư
14



dân sông nước như: hội đua ghe/thuyền, hội vật làng Sình, lễ hội cầu ngư, lễ hội
điện Hòn Chén, lễ vía Quan Thế Âm... (Thừa Thiên Huế); lễ hội Mục đồng Phong
Lệ, lễ hội cầu ngư, lễ hội Quan Thế Âm... (Đà Nẵng),…Ngoài các lễ hội truyền
thống, có nguồn gốc từ lâu đời, hiện nay, có nhiều lễ hội văn hóa đương đại, lễ hội
du lịch. Tiêu biểu là các lễ hội, sự kiện văn hóa sau: Festival Huế (Thừa Thiên
Huế), Festival nghề truyền thống Huế (Thừa Thiên Huế), Lễ hội Quán Thế Âm
(Đà Nẵng), Lễ hội Đống Đa - Tây Sơn (Bình Định,…
- Làng nghề và nghề truyền thống
Do diện tích đất đai canh tác nông nghiệp hạn hẹp, nguồn nguyên liệu dồi dào
nên từ xưa, vùng Trung Bộ đã phát triển các làng nghề và nghề thủ công truyền
thống như nghề đúc đồng Phường Đúc, làng gốm Phước Tích, làng nón Triều Sơn,
làng hoa giấy Thanh Tiên, làng rèn Hiền Lương, làng đan lát Bao La...(Thừa Thiên
Huế); nghề đúc đồng ở Phú Lộc Tây, làng dệt chiếu Mỹ Trạch, làng nem Ninh Hòa
(Khánh Hòa)…
- Ẩm thực
Văn hóa ẩm thực là một phần văn hóa nằm trong tổng thể, phức thể các đặc
trưng diện mạo về vật chất, tinh thần, tri thức, tình cảm… khắc họa một số nét cơ
bản, đặc sắc của một cộng đồng, gia đình, làng xóm, vùng miền, quốc gia… Nó chi
phối một phần không nhỏ trong cách ứng xử và giao tiếp của một cộng đồng, tạo
nên đặc thù của cộng đồng ấy. Do đó, ẩm thực của cư dân miền Trung rất phong
phú mang đậm bản sắc và phong vị của từng nơi ví dụ như:
 Huế nổi tiếng với các món bún bò giò heo, cơm hến, bánh canh cá lóc Thủy
Dương, bánh canh Nam Phổ, cháo lòng Nam Giao, cháo le le, cháo cá Thuận
An,...
 Đà Nẵng ngoài mì Quảng thì các món như thịt heo cuốn bánh tráng, bún
mắm thịt quay và bún chả cá là những đặc sản ẩm thực dân dã. Đến Đà Nẵng
15











không thể bỏ qua những món như gỏi cá, mít non kho cá chuồn, nộm sứa,
nước mắm Nam Ô...
Quảng Nam vốn nổi tiếng với nhiều món đặc sản bình dân. Món ăn no thì
có: mì Quảng, nổi tiếng nhất là mì Quảng Phú Chiêm, phở sắn Quế Sơn, cao
lầu Hội An, cháo lươn xanh ở Thăng Bình,…
Quảng Ngãi nổi tiếng nhất là món don nấu canh, nấu cháo, hay xào với
miến, bún, mì và cá bống sông Trà. Ngoài ra còn có loài cá thài bai, thường
được chế biến theo ba kiểu: hấp, chiên và ram, cũng là đặc sản ẩm thực của
Quảng Ngãi
Bình Định cũng là quê hương của cá, tôm, cua, ghẹ, ốc, hàu...
Phú Yên có nhiều loại hải sản có giá trị như: sò huyết đầm Ô Loan; tôm hùm
Sông Cầu; ghẹ đầm Cù Mông; cá ngừ đại dương...
Khánh Hòa cũng là nơi có nhiều đặc sản ẩm thực gắn liền với biển như yến
sào, hải sâm, cá mú Côn Sơn hấp gừng, tôm hùm sốt sò điệp, cháo tôm hùm,
cháo hải sản, bún cá Ninh Hòa,…

Phần III. Khái quát đặc trưng văn hóa Trung Bộ và phân tích đánh giá thực
trạng du lịch
3.1. Vùng đất chứa nhiều dấu tích văn hóa Chăm Pa và du lịch văn hóa vùng
a) Yếu tố kiến trúc, điêu khắc Chăm trong vùng văn hóa Trung Bộ
Dễ nhận thấy nhất trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam là yếu tố kiến trúc,
điêu khắc Chăm. Người Chăm xây dựng hàng trăm đền tháp thờ thần Hindu, cùng
với việc xây dựng nhà cửa, cung điện, thành quách,... đó là những nét đặc trưng

của kiến trúc Chăm. Với óc sáng tạo và bàn tay tài hoa, các nghệ nhân Chăm đã tạo
nên những công trình nghệ thuật kiến trúc độc đáo, làm nên cái tư tưởng cái tinh
thần của dân tộc Chăm. Các công trình nghệ thuật kiến trúc Chăm đều chịu ảnh
hưởng sâu sắc nền văn hóa Ấn Độ. Người Chăm xây dựng hàng trăm các khu đền
tháp, các tháp Chăm được xây dựng bằng gạch, duyên dáng, đẹp và độc đáo. Các
tháp Chăm xây dựng nhằm mục đích xây dựng để thờ Hindu, các vua Champa và
sau này các tháp Chăm cũng là nơi diễn ra các lễ hội gắn liền với tôn giáo
16


Bàlamon. Ngày nay trong vùng văn hóa Trung Bộ tượng trưng cho các lục địa và
ngoài cùng là hào rãnh, biểu tượng của đại dương.
Nằm trong vùng văn hóa Trung Bộ Việt Nam, Ninh Thuận, Bình Thuận vốn là
vùng đất lịch sử của vương quốc Champa đã tồn tại trong suốt nhiều thế kỷ, từ sau
thế kỷ thứ II sau Công nguyên. Người Chăm và các tộc người của vương quốc
Champa đã sáng tạo nên một nền văn hóa rực rỡ, mà một số nhà khoa học trong và
ngoài nước đã đánh giá là mộttrong những đỉnh cao của văn minh các quốc
giaĐông Nam Á cổ đại. Ngày nay, nền văn hóa Chăm còn hiện hữu ở nhiều lĩnh
vực văn hóa vật thể và phi vậtthể trên đất Ninh Thuận (hiện nay ở Ninh Thuận
cókhoảng 67.000 người Chăm), có thể kể ra một số di sản và giá trị văn hóa Chăm
đáng chú ý, liên quan đến hoạt động du lịch của tỉnh Ninh Thuận.
- Đền Tháp Chăm: Ninh Thuận là địa phương có đông đồng bào Chăm sinh
sống
và ngày nay họ vẫn còn lưu giữ nhiều giá trị truyền thống văn hóa như phong tục
tập quán, tôn giáo tín ngưỡng và các nghề thủ công truyền thống… Đặc biệt, hiện
nay ở Ninh Thuận còn tồn tại 3 cụm tháp Chăm, mang 3 phong cách và niên đại
khác nhau: tháp Hòa Lai (Ba Tháp), tháp Pô Klong Garai và tháp Pô Rôme.
“Tháp Hòa Lai, xây dựng vào thế kỷ IX được xếp vào phong cách Hoà Lai.
Trong các tháp Chăm hiện còn ở Ninh Thuận, cụm tháp Hoà Lai gồm có 3 ngôi
tháp và được xây dựng vòng thành bao quanh. Trải qua sự bào mòn của thời gian

và sự khắc nghiệt của tự nhiên nên tháp trung tâm và vòng thành đã bị sụp đổ hoàn
toàn, chỉ còn lại 2 ngôi tháp ở phía bắc và phía nam nhưng vẫn đang trong tình
trạng hư hại trầm trọng. Để bảo vệ khu di tích lịch sử văn hóa cụm tháp Hòa Lai
nhà nước đã tiến hành trùng tu, chống xuống cấp và đến nay công cuộc trùng tu,
tôn tạo đã hoàn thành. Tháp Hòa Lai, mặc dù có phong cách riêng nhưng nó cũng
17


mang một số đặc điểm chung như các tháp Chăm nêu trên. Bên trong lòng của tháp
phía nam thờ bệ thờ Linga – Yoni, ở trên các mặt tường tháp có điêu khắc các
tượng thờ như tượng tu sĩ Bàlamôn, chim thần Garuda và các cột trụ đều có chạm
khắc, trang trí hình hoa lá. Các đề tài trang trí trên tháp Hòa Lai đều được các nghệ
nhân Chăm tạc trực tiếp lên mặt tường của tháp làm nên sự độc đáo cho công trình
kiến trúc Chămpa, hiện nay tháp này người Chăm không thờ phượng cúng tế”
“Nằm trên ngọn đồi trầu (cơk hala) thuộc phường Đô Vinh, cách trung tâm
thành phố Phan Rang - Tháp Chàm 9 km về phía Tây Bắc. Tháp Pô Klong Garai là
một tổng thể kiến trúc nghệ thuật được người Chăm xây dựng vào khoảng giữa thế
kỷ XII đầu thế kỷ XIII để thờ vị vua Pô klong Garai (1151-1205) - một vị vua có
công với dân, với nước, được người Chăm suy tôn thành thần thánh. Tháp Pô
Klong Garai ở Ninh Thuận là một cụm tháp Chăm hoàn mỹ, kỹ thuật tinh xảo đã
đạt đến đỉnh cao rực rỡ trong nền nghệ thuật kiến trúc Chămpa, do đó Tháp được
Bộ Văn hoá xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật vào năm 1979”
“Nằm trên một ngọn đồi “Bôn acho” thuộc thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu,
huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, cách thành phố Phan Rang – Tháp Chàm 15
km về phía Tây Nam. Tháp Pô Rôme được xây dựng vào thế kỷ XVII để thờ vị vua
Pô Rôme. Tháp Pô Rôme không cao to bề thế như tháp Pô Klong Garai nhưng tháp
có một phong cách nghệ thuật kiến trúc riêng biệt – phong cách Pô Rôme, tháp
được xem là ngôi tháp cuối cùng trong lịch sử nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc đền
tháp của người Chăm trong vùng văn hóa Trung bộ Việt Nam. Tháp Pô Rôme với
phong cách riêng của mình, được Bộ Văn hoá xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật

năm 1992”.Được sự quan tâm của Đảng và nhà nước, hiện nay tháp Pô Rôme đang
được tiếp tục trùng tu, tôn tạo.

18


Cùng với kiến trúc đền tháp, điêu khắc Chăm cũng là những kiệt tác phong
phú, đa dạng về loại hình, kỹ thuật đạt đến trình độ tinh xảo thể hiện được những
dáng vẻ độc đáo. Những tác phẩm điêu khắc Chăm là các tượng thờ Siva, Vishnu,
Brahma, những con thờ vật thờ ở tháp Chăm phổ biến vẫn là cặp Linga – Yoni.
Ngoài ra ở các đền tháp Chăm còn trang trí những tác phẩm điêu khắc độc đáo
như: tượng thờ Vũ nữ, người cưỡi ngựa đánh cầu, những con vật huyền thoại như
Garuda, Kala, bò thần Nandin. Những cảnh chạm khắc trang trí ở các bệ thờ, điêu
khắc Chăm phần lớn ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ. Nổi bậc lên là điêu khắc Trà Kiệu,
“gồm đài thờ vuông có bốn mặt hoạt cảnh, hai vũ nữ bán tròn gắn vào trụ tường và
một vài hình khác với một số nét diện mạo, quần áo, đồ trang sức, nụ cười có vẻ
duyên dáng, thanh lịch, mềm mại.
- Nghề thủ công
Ở Ninh Thuận, cho đến nay vẫn còn hai làng nghềthủ công nổi tiếng thu hút
nhiều khách tham quan. Đó là làng Bàu Trúc, chuyên sản xuất các sản phẩm gốm
với kỹ thuật còn rất nguyên sơ, không dùng bàn xoaytạo hình sản phẩm và nung
gốm lộ thiên.Làng dệt Mỹ Nghiệp với những sản phẩm dệt trên những khung dệt
đặc biệt, nhều loại hoa văn màu sắc hấp dẫn.
- Làng Chăm
Nhiều làng của người Chăm ở Ninh Thuận đã đượcxây dựng từ nhiều thế kỷ
qua vẫn còn tồn tại ở cáchuyện Ninh Phước, Ninh Chữ… Làng Chăm khác vớilàng
xóm của người Việt và một số cư dân khác về cưtrú, cảnh quan. LàngChăm ítcó
cây cối, những cây cổthụ, chung quanh nhà và làng là những vòngràocâykhô,nhà
quay về hướng Nam…
- Trang phục


19


Trang phục của người Chăm ở Ninh Thuận cũnggiống với trang phục của người
Chăm ở Bình Thuận.Tuy nhiên, cũng có sự phân biệt giữa trang phục mặctrong
ngày thường, ngày lễ hội, giữa người dân và cácchức sắc tôn giáo, tín ngưỡng.Đặc
biệt trang phục của phụ nữ Chăm với các loại váy, áo, khăn đội đầu.

- Ẩm thực
Ẩm thực Chăm Ninh Thuận có nhiều món ăn độcđáo nhất là các món nướng, cà
ri và món canh chua(ya rai), chế biến từ rau quả với thịt, cá thiên nhiên,nhiều loại
gia vị có sự khác biệt ít nhiều về ẩm thựcgiữa các nhóm Chăm theo các tôn giáo
khác nhau.Người Chăm Ját kiêng ăn thịt bò, người Chăm Banikiêng ăn thịt heo.

- Phong tục tập quán
Người Chăm vẫn còn bảo lưu nhiều phong tục tậpquán trong đời sống hàng
ngày, sự thờ cúng, kiêngkị, những nghi lễ vòng đời như sinh đẻ, hôn nhân,tang
ma… Người Chăm theo Bàlamôn khi chết sẽhỏa táng, người Chăm Bani khi chết
sẽ chôn trong cácnghĩa trang trên các đồi cát. Người Chăm theo mẫu hệ, vai trò
người phụ nữ được cộng đồng coi trọng.Chế độ mẫu hệ hiện nay trên thế giới còn
khôngnhiều, do vậy chế độ mẫu hệ của người Chăm là đốitượng nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học xã hội vànhân văn.
- Tín ngưỡng và tôn giáo
Người Chăm có một hệ thống tín ngưỡng rất đa dạng, thờ cúng nhiều vị thần
dân gian, nhiều nghi lễ cúng ruộng, cúng đất nước, cúng thần lúa,… kiêng sợ nhiều

20



loại ma quỷ, tín ngưỡng phồn thực, nghi lễ nông nghiệp, nghi lễ vòng đời người…
hay các tín ngưỡng dân gian như thờ bà mẹ xứ sở , thờ cá voi, thờ thần biển,....
Mặt khác, Trung Bộ là vùng đất được người Việt khai phá theo kiểu tiệm tiến.
Sự cộng cư với người Chăm , thái độ ứng xử với những vốn văn hóa hiện diện trên
mặt đất tàng ẩn dưới lòng đất theo bản chất hiền hòa của người Việt, tạo cho sự
giao lưu văn hóa ở đây có những điểm khác biệt. Trước hết, người Việt tiếp nhận
những di sản văn hóa Người Chăm Việt hóa biến thành di tích văn hóa của mình.
Tháp Chăm, đền Chăm khi người Chăm ra đi thì người Việt thờ cúng, sử dụng.
Chẳng hạn như Tháp Bà ở Nha Trang tỉnh Khánh Hòa, vốn là một ngôi tháp của
người Chăm được người Việt sử dụng, coi như nơi thờ tự linh thiêng của tín
ngưỡng thờ Mẫu, một tín ngưỡng của người Việt.
Tiêu biểu cho quá trình tiếp biến văn hóa ở Trung Bộ của người Việt là tiếp thu
tín ngưỡng thờ bà mẹ Xứ sở ( Po Yan Ina Nagar) của người Chăm. Với tín ngưỡng
thờ Mẫu ẩn trong tâm thức, khi vào Trung Bộ, người Việt gặp tín ngưỡng này của
người Chăm, họ đã tiếp thu các nữ thần Chăm và chuyển hóa thành các nữ thần
Việt. Nữ thần Mujuuk của người Chăm được biến thành bà chúa Ngọc. Câu chuyện
mà Phan Thanh Giản ghi trên bia kí ở sau Tháp Bà, là câu chuyện đã Việt hóa sự
tích một nữ thần Chăm, tại điện Hòn Chén, Thánh Mẫu Vân Hương ( tức thánh
mẫu Liễu Hạnh ) được đưa vào điện thần cùng với bà chúa Ngọc. Nói cách khác đi
là sự tiếp biến văn hóa đã khiến diện mạo tín ngưỡng của người Việt ở Trung Bộ
thay đổi so với người Việt Bắc Bộ.
- Âm nhạc và múa
Âm nhạc và múa là một nét đặc sắc của văn hóaChăm. Âm nhạc Chăm với
nhiều nhạc cụ độc đáo nhưtrống paranưng, kèn saranai… đã tạo cho âm nhạcChăm
một sắc thái riêng biệt.Hiện nay ở Ninh Thuậnvẫn còn nhiều nhạc công, nghệ nhân
21


biểu diễn các nhạc cụ trong các dịp lễ hội và đời sống thường ngày.Trên các đền
tháp Chăm, các điêu khắc Chăm cònlưu lại rất nhiều vũ điệu Chăm, các apsara

Chăm biểudiễn nhiều điệu múa cung đình. Múa dân gian Chămở Ninh Thuận với
nhiều vũ điệu đặc sắc là một vốnvăn hóa lớn của dân tộc Chăm.Quả thực văn hóa
Chăm nói chung và ở tỉnh Ninh Thuận nóiriêng vô cùng phong phú và đa dạng, là
một bộ phậncủa văn hóa Việt Nam. Việc khai thác để bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa Chăm là hết sức cần thiếtvà có thể xem là một tiềm năng lớn lao trong
hoạtđộng phát triển du lịch của Ninh Thuận
b) Hiện trạng khai thác tiềm năng văn hóa Chăm trong hoạt động du lịch
của tỉnh Ninh Thuận
Sản phẩm văn hóa Chăm cung ứng cho hoạt độngdu lịch nói chung và ở Ninh
Thuận nói riêng, trongthời gian gần đây đã được lưu ý. Thời gian qua đã cóhàng
ngàn lượt du khách trong và ngoài nước tìmđến các làng nghề thủ công truyền
thống của ngườiChăm như: làng gốm Bàu Trúc, làng dệt Mỹ Nghiệpđể tham quan.
Đó là chưa kể hầu hết các tour du lịchở Ninh Thuận đều có ghé tham quan các đền
thápnhư Po Klong Garai (xã Hữu Đức, Ninh Phước)… Vàocác dịp lễ hội Katê
hàng năm, các tháng Ramađan(người Chăm ở Ninh Thuận quen gọi là Ramưwan)ở
Ninh Thuận đã thu hút hàng vạn du khách thamdự, chiêm ngưỡng tháp Chăm, âm
nhạc, vũ đạo vàcác nghi lễ cúng tế thần thánh… Ngoài ra, một sốnhà khoa học
nước ngoài đi theo hình thức tourdu lịch để nghiên cứu văn hóa Chăm ở Ninh
Thuận.
Những hoạt động du lịch văn hóa Chăm ở NinhThuận đang được Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịchcùng một số ban ngành liên quan, các công ty du lịchở Thành
phố Hồ Chí Minh cố gắng khai thác và quảngbá. Tuy nhiên những cố gắng đó vẫn
còn nhiều hạnchế trên nhiều lĩnh vực, nhất là chưa có một chiếnlược và hành động
cụ thể để có thể khai thác hữuhiệu tiềm năng văn hóa Chăm cho sự phát triển
22


dulịch của tỉnh Ninh Thuận. Có một số nguyên nhân của sự hạn chế và chưa tương
xứng trong việc khai thác, phát huy giá trị văn hóa Chăm trong du lịch ở Ninh
Thuận:

- Chưa đánh giá và nhận thức đúng mức tiềm năng, giá trị văn hóa Chăm để
phát
huy trong hoạt động du lịch của Ninh Thuận. Thực tế trong nhiều năm qua, hoạt
động du lịch văn hóa vẫn chỉ quanh quẩn ở hai làng nghề Bàu Trúc và Mỹ Nghiệp,
tiếp đó là tham quan các tháp Chăm và dự lễ hội Katê hàng năm. Ngay việc du lịch
tham quan hai làng nghề thủ công của người Chăm ở Ninh Thuận cũng khá đơn
điệu, du khách chưa có cảm nhận về nét độc đáo làng nghề thủ công Chăm, chưa
thấy được sự khác biệt với các làng nghề của người Việt và một số dân tộc thiểu số
ở miền Trung và Tây Nguyên. Các tour du lịch ở Ninh Thuận có ghé tham quan
các tháp Chăm như Po Klong Garai, Po Rome… du khách chiêm ngưỡng một số
cơ sở thờ tự, kiến trúc của người Chăm, nhưng ít ai hiểu biết văn hóa Chăm qua
các đền tháp này. Đến thăm các đền tháp Chăm, nhiều du khách có cảm giác như
đến thăm các đền chùa khác trong vùng có chăng là ở đây không thờ Phật mà thôi!
Có thể nói, văn hóa Chăm ở Ninh Thuận như một sản phẩm du lịch đặc sắc, độc
đáo, vẫn còn bỏ ngỏ.
Những cơ quan hữu quan, những người hữu trách hình như chưa nhận thức hết
giá trị của văn hóa Chăm trong du lịch, mà xem văn hóa Chăm cũng như các sản
phẩm du lịch văn hóa khác trong địa phương. Khi chưa thấy được nét độc đáo, vị
trí văn hóa Chăm, tính đa dạng của văn hóa Chăm thì sẽ khó có cách ứng xử thích
hợp với văn hóa Chăm trong du lịch, chưa có định hướng khai thác hữu hiệu.
- Chưa có tính chuyên nghiệp trong hoạt động du lịch văn hóa Chăm ở Ninh
Thuận.

23


Tính chuyên nghiệp trong hoạt động du lịch với sản phẩm là văn hóa Chăm thể
hiện trên nhiều mặt như: quy hoạch tổng thể, thiết kế các tour chuyên biệt, đào tạo
nguồn nhân lực, quảng bá hoạt động, sự phối kết hợp với các địa phương… Rõ
ràng, để có thể phát huy thế mạnh của văn hóa Chăm trong du lịch ở Ninh Thuận,

cần có tầm nhìn và được thể hiện trong một quy hoạch tổng thể. Chính vì vậy, tính
chuyên nghiệp trong du lịch văn hóa Chăm ở Ninh Thuận là điều cần thiết cho việc
khai thác tiềm năng du lịch lớn lao này.
3.2. Tiểu vùng văn hóa xứ Huế
Thiên nhiên đã tạo cho xứ Huế có một diện mạo riêng. Đó là một vùng Huế núi
đồi mà nhà Nguyễn cùng sức muôn dân đã tạo ra một khu lăng tẩm đế vương. Đó
là một vùng Huế cồn bãi đôi bờ Hương Giang cùng các nhánh sông Bạch Yến, An
Cựu, Kim Long (nay đã bị lấp nhiều). Nói khác đi, xứ Huế là vùng thiên nhiên đa
dạng : có rừng, có biển, có núi, lại có cả đồng bằng. Mặt khác, lịch sử lại đem đến
cho vùng đất có một số phận đặc biệt. Từ chỗ là phiên giậu của Đại Việt, nơi địa
đầu giao lưu với Chăm-pa đến chỗ thành dinh của chúa Nguyễn, rồi kinh đô của
vương triều Tây Sơn, kinh sư, thượng kinh của nhà Nguyễn. Chính những điều
kiện tự nhiên và biến đổi lịch sử ấy in dấu vào đời sống văn hóa vật chất lẫn tinh
thần của xứ Huế, tạo cho nó một gương mặt riêng ...
Nói tới xứ Huế là nói tới một vùng đất với nghệ thuật kiến trúc, tín ngưỡng và
ẩm thực hết sức đa dạng, phong phú, hấp dẫn khách du lịch bốn phương.
3.2.1. Văn hóa xứ Huế
3.2.1.1. Con người xứ Huế
Nhắc đến Huế người ta đã thấy một vẻ đẹp gì đó nhẹ nhàng quyến rũ thư thái đi
vào lòng người, không chỉ vì vẻ đẹp của những thắng cảnh thiên nhiên, sự cổ kính
24


của những đền đài, lăng tẩm,...Người ta còn bị “ cuốn hút” bởi tính cách con người
xứ Huế.
Người Huế luôn nở nụ cười trên môi khi gặp người khác. Luôn nhận được sự
quan tâm, hỏi han và giúp đỡ của người Huế những lúc gặp khó khăn.
Người Huế trầm mặc và ít nói.
Họ ít nói, sống luôn giữ kẽ và hết sức kín đáo trong lời ăn, tiếng nói hằng ngày,
họ thường giấu kín những khó khăn riêng của mình trước bạn bè, không để điều to

tiếng, chuyện buồn đối với khách khứa láng giềng.
Người Huế sống hoài cổ và thủ cựu. Điều này thể hiện ở cái cách mà người Huế
tiếp nhận cái mới, cái lạ, tất cả những gì mới và lạ du nhập vào Huế đều cần phải
có một thời gian dài, phải nói là rất lâu mới có thể bám rễ và phát triển ở Huế, phải
trải qua một quá trình thẩm thấu, chọn lọc thật kĩ thì những cái đó mới được người
Huế đón nhận, từ nghệ thuật cho đến văn hóa, thể thao và nhiều cái khác nữa.
Chẳng hạn, ở Huế người ta chuộng nghe nhạc tiền chiến, nhạc Trịnh Công Sơn hơn
là nhạc trẻ – nhạc thị trường, thị trường nhạc trẻ ở Huế không sôi động như các
thành phố khác.Văn hóa cũng vậy, phần đông người Huế vẫn quý trọng mái tóc và
tà áo dài của người con gái, nhẹ nhàng và thanh thoát, tất cả mọi người đều quý
trong những giá trị truyền thống, những cái cốt lõi, cái tinh túy đã song hành với họ
trong cuộc sống.
Người Huế sống nền nếp và gia phong.Bước vào các gia đình Huế người ta sẽ
cảm nhận ngay được rằng người Huế sống rất có phép tắc từ già tới trẻ, từ đàn ông
con trai đến đàn bà con gái, tất cả tuân theo một khuôn phép đã có trước đó từ rất
lâu đó chính là truyền thống nền nếp gia phong. Người lớn tuổi được kính trọng và
đề cao, lớp trẻ chỉ cần đi vào nhà thấy khách đến chơi là phải thưa, đi thì phải xin
25


×