Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Phân tích xu hướng tiêu thụ thuốc và sự biến động giá thuốc và một số nhà thuốc trên địa bàn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

Vũ Năng Thoả

PHÂN TÍCH XU HƯỚNG TIÊU THỤ THUỐC
VÀ SỰ BIẾN ĐỘNG GIÁ THUỐC
TẠI MỘT SỐ NHÀ THUỐC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

Luận văn thạc sĩ dược học
Chuyên ngành: Tổ chức quản lý dược
Mã số: 607320
Người hướng dẫn khoa học: PGS TS. Nguyễn Thanh Bình

Hà Nội, năm 2008


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

Vũ Năng Thoả

PHÂN TÍCH XU HƯỚNG TIÊU THỤ THUỐC
VÀ SỰ BIẾN ĐỘNG GIÁ THUỐC
TẠI MỘT SỐ NHÀ THUỐC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI



Luận văn thạc sĩ dược học

Hà Nội, năm 2008


Lời cảm ơn
Sau một thời gian thực hiện đề tài với nhiều nỗ lực và cố gắng,
thời điểm luận văn hoàn thành cũng là lúc viết lên những lời cảm ơn
sâu sắc tới những người thầy, người hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong thời
gian qua.
Trước hết, với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin trân trọng
cảm ơn PGS. TS Nguyễn Thanh Bình Phòng Đào tạo sau đại học
đã hướng dẫn, truyền đạt kinh nghiệm nghiên cứu cho tôi trong quá
trình thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn, Ban giám hiệu, Phòng đào tạo sau đại
học, các thầy cô giáo trường Đại học Dược Hà Nội đã giảng dạy và tạo
mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Xin trân trọng cảm ơn Ths. Bùi Văn Đạm Trưởng khoa Dược
Bệnh viện Tai Mũi Họng TW. Tôi đã được học ở thầy nhiều kinh
nghiệm quý, định hướng trong quá trình thực hiện luận văn.
Trân trọng cảm ơn Ban giám đốc, Khoa Dược, các khoa phòng
Bệnh viện Tai Mũi Họng TW nơi tôi công tác đã tạo điều kiện, giúp đỡ
tôi trong công tác và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cha mẹ và người
thân trong gia đình, những người luôn động viên, chăm lo cho tôi trong
cuộc sống và sự nghiệp.
Hà Nội, tháng 12 năm 2008
Học viên


Ds Vũ Năng Thoả


Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Alpha

: Alpha Choay

Amox

: Amoxicillin

Ampi

: Ampicillin

AmpiVn

: Ampicillin Vit Nam

ATC

: Anatomical Therapeutical Classification

Cefa

: Cefalexin

Chymo


: Alphachymotrypsin

CIF

: Cost Insurane Freight Giá cập cảng

Cloram

: Chloramphenicol

CPI

: Chỉ số giá hàng hoá, tiêu dùng

Decol

: Decolgen Nodrowse

GDP

: Thực hành tốt phân phối

GLP

: Thực hành tốt phòng thí nghiệm

GMP

: Thực hành tốt sản xuất thuốc


GPP

: Thực hành tốt nhà thuốc

GSP

: Thực hành tốt bảo quản

GTTT

: Giá trị tiêu thụ

Nk

: Nhập khẩu

Rhume

: Rhumenol D 500

SĐK

: Số đăng ký

SLTT

: Số lượng tiêu thụ

Sx


: Sản xuất trong nước

Tetra

: Tetracyline

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

TSTT

: Tần suất tiêu thụ

TTBQĐN

: Tiền thuốc bình quân đầu người

USD

: Dollar Mỹ

Vidor

: Vidorigyl

WTO

: World Trade Organization - Tổ chức thương mại thế giới.



1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Dưới sự lãnh đạo của Đảng sau 20 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam phát triển
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do đó thu nhập của người dân thay
đổi so với những năm thập kỷ 90 vì vậy nhu cầu thuốc cũng tăng lên. Theo thống kê
tổng giá trị tiền thuốc sử dụng năm 2007 gần 1,2 tỷ USD tăng trưởng 16,5% so với
năm 2006. Tiền thuốc bình quân đầu người năm 2007 là 12,69 USD/người/năm gấp
hơn 2 lần năm 2001.
Thuốc có vai trò quan trọng trong việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Trong
chính sách quốc gia về thuốc của Việt Nam đã đưa ra chính sách cụ thể: đảm bảo cung
ứng đủ thuốc có chất lượng và sử dụng thuốc an toàn hợp lý hiệu quả. Xác định được
nhu cầu thuốc để cung ứng thuốc là một vấn đề quan trọng trong từng thời kỳ.
Hiện nay mạng lưới nhà thuốc phát triển rộng khắp trên toàn quốc trở thành
một bộ phận quan trọng của hệ thống y tế cơ sở. Tính đến năm 2007 có gần 40.000 cơ
sở bán lẻ trên toàn quốc đạt 2.000 người/1 cơ sở bán lẻ. Do đó nghiên cứu tình hình
tiêu thụ thuốc tại khối nhà thuốc là cơ sở góp phần vào việc dự đoán xu hướng tiêu thụ
thuốc trong thời gian tới. Góp phần đảm bảo cung ứng đủ thuốc có chất lượng, sử
dụng thuốc an toàn hợp lý hiệu quả cho người dân.
Trong thời gian qua, giá thuốc có sự biến động, diễn ra phức tạp ảnh hưởng lớn
tới việc chăm sóc sức khoẻ và gây nhiều dư luận trong nhân dân. Vì vậy thuốc đến tay
người tiêu dùng với giá như thế nào có biến động không là một trong những vấn đề
cần được giải đáp.


2

Để góp phần giải quyết các vấn đề đã đặt ra chúng tôi tiến hành nghiên cứ đề
tài: “Phân tích xu hướng tiêu thụ thuốc và sự biến động giá thuốc tại một số nhà

thuốc trên địa bàn Hà Nội” với hai mục tiêu sau:
1. Phân tích mức tiêu thụ thuốc tại một số nhà thuốc ở Hà Nội từ 5/2005 đến
5/2008.
2. Phân tích sự biến động giá của một số loại thuốc tiêu thụ tại các nhà thuốc
trên địa bàn Hà Nội.


3

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1

Tình hình tiêu thụ thuốc
Cùng với sự phát triển của công nghệ, khoa học kỹ thuật ngành dược phẩm đã

nghiên cứu được các thuốc có tác dụng mạnh, nhanh và hiệu quả trong điều trị. Các
sản phẩm đa dạng và phong phú với 2.000 loại hoá dược và 100.000 biệt dược khác
nhau được sử dụng. Doanh số bán thuốc trên toàn thế giới có sự tăng trưởng từ 9 –
10% mỗi năm. Doanh số bán thuốc trên thế giới năm 2007 đạt trên 700 tỷ USD, tăng
gần gấp 2 lần so với năm 2001. Doanh số bán ra một số khu vực cũng có sự khác biệt
[36]. Theo IMS health doanh số thuốc trên thế giới từ năm 2001 đến 2007 như sau:
Bảng 1.1: Doanh số bán thuốc trên thế giới từ năm 2001 đến 2007[36]
Năm

2001

2002

2003


2004

2005

2006

2007

Doanh số (tỷ USD)

364,5
100,0

371,9
102,0

424,6
109,9

466,3
127,9

550,0
150,1

602,0
165,2

712,0
195,3


Tăng trưởng (%)

Bảng 1.2: Bảng doanh số bán ra một số khu vực trên thế giới
Khu vực

Doanh số

Thế giới
Bắc mỹ
Châu Âu
Mỹ la tinh
Châu Á TBD, châu Phi

Đơn vị tính: tỷ USD
Năm 2005

Tỷ lệ %

Năm 2006

Tỷ lệ %

550,0
242,0
155,1
22,0
42,35

100,0

44,0
28,2
4,0
7,7

602,0
270,9
115,6
31,3
62,0

100,0
45,0
19,2
5,2
10,3

(Nguồn IMS health)

Năm 2002, chỉ 18% dân số thế giới thuộc các nước phát triển đã sử dụng tới
85% lượng thuốc được sản xuất. Thị trường Bắc Mỹ tiêu thụ tới 45% doanh số
dược phẩm trên toàn thế giới năm 2006 trong đó châu Á và châu Phi là khu vực các
nước đang phát triển chỉ chiếm 10,3% [37].
Cùng với thế giới, Việt Nam sau 20 năm đổi mới đời sống có những thay đổi
nên việc sử dụng thuốc cũng có những chuyển biến. Theo báo cáo của Cục Quản lý
Dược – Bộ Y tế tổng giá trị tiền thuốc sử dụng năm 2007 trên 1,1 tỷ USD tăng 16,5%
so với năm 2006; tăng gấp 2,4 lần năm 2001 [15].


4


Bảng 1.3: Tổng giá trị tiền thuốc sử dụng năm 2001 đến năm 2007
Năm

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Tổng giá trị tiền thuốc
sử dụng (triệu USD)

472,35

525,80

608,70

707,53

817,40


956,35

1.136,35

Tăng trưởng (%)

100

111,31

128,81

149,79

173,04

202,46

240,57

Từ số liệu trên cho chúng ta thấy tổng giá trị tiền thuốc sử dụng năm 2007 gấp
gần 1,2 lần năm 2006, năm 2007 gấp gần 1,4 lần năm 2005. Tuy nhiên việc tiêu thụ
thuốc lại chủ yếu là các thuốc nhập khẩu. Theo báo cáo của Cục quản lý Dược giá trị
thuốc nhập khẩu năm 2001 - 2007 như sau[30]:

Hình 1.1: Trị giá nhập khẩu và tổng giá trị thuốc 2001-2007

Do ngành công nghiệp dược Việt Nam chưa phát triển, hiện đang theo hướng
sản xuất thuốc generic nên vẫn còn nhiều loại thuốc chuyên khoa đặc trị, thuốc mới

vẫn phải nhập khẩu từ các nước tiên tiến đặc biệt là thuốc nhập khẩu cho nhu cầu điều
trị tại bệnh viện[30].
Nền kinh tế thị trường đã tác động đến ngành dược phẩm, hệ thống phân phối và
bán lẻ phát triển mạnh. Mạng lưới cung ứng thuốc phát triển rộng khắp đảm bảo cung
cấp kịp thời, đầy đủ đến tận tay người dân. Tổng số cơ sở bán lẻ trên toàn quốc năm
2007 là 39.016 cơ sở, tính trung bình có 4,58 cơ sở bán lẻ thuốc/1 vạn dân. Theo báo
cáo của Cục quản lý dược mạng lưới cung ứng thuốc trong cả nước như sau giai đoạn
2005-2007 như sau[17]:


5

Bảng 1.4: Mạng lưới cung ứng thuốc
Stt
1
2
3
4
5
6

Loại hình
Số DN dược trong nước
Số DN dược có vốn đầu tư nước ngoài
Chi nhánh công ty dược tại các tỉnh
Tổng số khoa dược và các trạm chuyên khoa
Tổng số cơ sở bán lẻ thuốc
Tổng số trạm y tế xã chưa có quầy thuốc

2005

956
8
111
867
29.541
966

2006
1.163
15
127
976
39.319
932

2007
1.330
22
164
977
39.016
941

Qua các mạng lưới cung ứng trên nên việc sử dụng thuốc của người dân có sự
thay đổi thể hiện qua bình quân tiền thuốc/đầu người/năm của nước ta năm 2007 là
12,69 USD/người/năm tăng gấp gần 2,5 lần năm 2000 (năm 2000 tiền thuốc bình quân
đầu người là là 5,4 USD/người/năm).
Bảng 1.5: Tiền thuốc bình quân đầu người qua các năm (2000-2007)[15]
Năm


2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

TTBQĐN

5,4

6,0

6,7

7,6

8,6

9,85


11,23

12,69

Tỷ lệ tăng
trưởng (%)

100,0

111,1

124,1

140,7

159,2

182,4

208,0

235,0

Chỉ số

Bên cạnh đó, nền công nghiệp dược Việt Nam cũng có những bước tiến bộ và
đang dần khẳng định vai trò, vị trí của mình trên thị trường nội địa. Các thuốc sản xuất
trong nước ngày càng đáp ứng được nhu cầu điều trị. Trong 1.500 hoạt chất có trong
các thuốc đã đăng ký, số hoạt chất trong các thuốc sản xuất trong nước năm 1999 là
380 hoạt chất đến năm 2006 là 773 hoạt chất. Cho đến năm 2007 có 8.167 số đăng ký

thuốc sản xuất trong nước, trong đó số đăng ký thuốc tân dược chiếm 6.422 chiếm
78,6%. Trong giai đoạn 2001 - 2007, về trị giá mức độ đáp ứng nhu cầu sử dụng thuốc
trong nước ngày càng tăng, cho dù 90% nguyên liệu hoá dược phải nhập khẩu từ nước
ngoài được thể hiện trong biểu đồ sau[17]:


6

Hình 1.2: Mức độ đáp ứng nhu cầu sử dụng thuốc sản xuất trong nước

Từ năm 2005 đến năm 2008 nhờ phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh
thuốc và làm tốt công tác nhập khẩu nên thị trường thuốc Việt Nam tương đối ổn định.
Trị giá thuốc sản xuất trong nước tăng trưởng hàng năm, năm 2007 trị giá thuốc sản
xuất trong nước gấp 1,5 lần năm 2005 (năm 2007 đạt 600 triệu USD, năm 2006 đạt
gần 500 triệu USD, năm 2005 đạt 400 triệu USD). Số doanh nghiệp kinh doanh buôn
bán thuốc năm 2006 tăng so với năm 2005 nhưng năm 2007 không có sự tăng trưởng,
doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp mới chỉ đạt được 90 doanh nghiệp. Trong năm
2007 ngành dược Việt Nam thực hiện các tiêu chuẩn: GMP, GSP, GDP, GLP, GPP
nên có sự thay đổi về số lượng các loại hình cung ứng thuốc. Tuy nhiên số lượng số
đăng ký năm 2007 gấp gần 1,4 lần so với năm 2005. Sau đây là bảng tóm tắt tình hình
thị

trường

dược

phẩm

giai


đoạn

2005-2007

[30].


7

Bảng 1.6: Tình hình thị trường dược phẩm trong giai đoạn 2005-2007
Năm
2005
2006
2007
Các chỉ tiêu kinh tế dược

Trị giá thuốc sản xuất trong nước (1000USD)

395.157

475.403

600.630

Trị giá thuốc xuất khẩu (1000USD)

17.656

19.744


22.113

Số đăng ký thuốc lưu hành trên thị trường

12.349

14.097

16.626

Số DN kinh doanh bán buôn thuốc

680

800

800

Số DN xuất nhập khẩu trực tiếp thuốc

79

89

90

Tổng số doanh nghiệp sản xuất thuốc

174


178

171

Số doanh nghiệp nước ngoài cung cấp thuốc
270
320
370
Về công tác đảm bảo chất lượng thuốc bao gồm công tác quản lý chất lượng
thuốc và công tác phòng, chống thuốc giả, thuốc nhập lậu, thuốc không rõ nguồn gốc.
Công tác quản lý chất lượng thuốc: năm 2007 với việc ban hành Quyết định số
11/2007/QĐ-BYT và số 12/2007/QĐ-BYT của Bộ trưởng Bộ y tế về việc áp dụng
thực hiện các nguyên tắc, tiêu chuẩn thực hành tốt nhà thuốc (GPP) và thực hành tốt
phân phối thuốc (GDP) trong hệ thống kinh doanh dược phẩm. Bằng việc tăng cường
lấy mẫu thuốc kiểm tra từ kho, trên thị trường, thực hiện công tác giám sát. Năm 2007,
thuốc không đạt chất lượng chiếm tỷ lệ 3,3% so với số lượng mẫu lấy kiểm tra chất
lượng trên toàn quốc, cao hơn năm 2006 (3.2%). Trong đó tỷ lệ thuốc đông dược và
dược liệu vẫn chiếm tỷ lệ khá cao 10,8%, có xu hướng tăng qua các năm như sau[15].
100
50

51

44
16

15

SX trong nư? c


Thu?c Nk
43

54

41 36

34 28

34

18

23

29

2003

2004

2005

2006

2007

0
2001


2002

Hình 1.3: Tỷ lệ thuốc không đạt chất lượng từ năm 2001-2007
(Đơn vị tính: Số lô bị đình chỉ lưu hành và thu hồi toàn quốc)

Trong năm 2007 Cục quản lý dược đình chỉ lưu hành và thu hồi 83 lô thuốc
trong đó 29 lô là thuốc nhập khẩu không đạt chất lượng.


8

Công tác phòng, chống thuốc giả, thuốc nhập lậu, thuốc không rõ nguồn gốc.
Theo báo cáo của Cục quản lý dược, năm 2007 đã phát hiện 43 mẫu thuốc giả kể cả
thuốc đông dược, dược liệu. Thuốc giả được phát hiện ở nhiều địa phương và một loại
thuốc giả được phát hiện trên nhiều địa phương. Thuốc đông dược trộn lẫn với thuốc
tân dược vẫn còn lưu hành trên thị trường. Tỷ lệ thuốc giả được phát hiện thể hiện theo
bảng sau[15]:
Bảng 1.7: Số liệu về tỷ lệ phần trăm thuốc giả được phát hiện qua các năm

Năm
Tỷ lệ %

2001
0,03

2002
0,03

2003
0,06


2004
0,06

2005
0,09

2006
0,13

2007
0,17

Tỷ lệ thuốc giả được phát hiện năm 2007 tăng gấp hơn 5 lần so với năm 2001;
tăng gấp gần 2 lần so với năm 2005. Việc phát hiện các thuốc giả để xử lý là rất quan
trọng. Chất lượng thuốc ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ thuốc.
Những yếu tố ảnh hưởng đến việc dùng thuốc cũng làm thay đổi tình hình tiêu
thụ thuốc của một địa phương cũng như của một quốc gia nào đó.
Nhu cầu thuốc được quyết định bởi nhiều yếu tố sau:

Hình 1.4: Các yếu tố ảnh hưởng đến việc dùng thuốc[29]

Nhu cầu về thuốc của một người bệnh phụ thuộc vào bệnh tật, sức khỏe của họ.
Mô hình bệnh tật của một cộng đồng sẽ quyết định nhu cầu thuốc của cộng đồng đó.
Khi nền kinh tế phát triển thì mức sống người dân thay đổi, mức thu nhập bình
quân đầu người năm 2006 là 722USD/người/năm, năm 2007 là 835 USD/người/năm
nên nhu cầu về thuốc và mô hình bệnh tật thay đổi so với các năm trước. Từ năm 1960
đến nay, mô hình bệnh tật có nhiều thay đổi. Ví dụ như các bệnh không nhiễm trùng



9

như bệnh tim mạch, huyết áp… đang có xu hướng gia tăng. Sự thay đổi này cũng
giống sự thay đổi tại các quốc gia đang phát triển khác [31].
Từ năm 1976 đến năm 2003, trong số 10 bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất thì chủ yếu
là bệnh nhiễm trùng và ký sinh trùng trong đó có tới 3 bệnh trên hệ hô hấp là viêm phế
quản, viêm phổi và lao phổi. Các bệnh không nhiễm khuẩn với tỷ lệ mắc ngày càng
cao như bệnh về tim mạch, bệnh đái đường, bệnh ung thư, bệnh tâm thần, bệnh tăng
huyết áp… [2]. Theo thống kê của hội tim mạch Việt Nam tính đến năm 2004, có
khoảng 8% đến 10% dân số mắc bệnh tăng huyết áp []. Khi mức sống của người dân
thay đổi thì nhu cầu về thuốc cũng thay đổi theo, mặt khác môi trường sống ảnh hưởng
trực tiếp đến sức khoẻ và việc dùng thuốc của người dân. Xã hội hiện đại con người
cũng có nhiều sức ép trong công việc, cường độ làm việc nhiều hơn nên đã tác động
mạnh đến sức khoẻ người dân. Do biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường nên môi
trường sống của người dân cũng thay đổi. Tại Hà Nội và các thành phố do phát triển
công nghiệp, đô thị hoá nên các bệnh nghề nghiệp, bệnh do môi trường sống bị ô
nhiễm đòi hỏi phải có thuốc để điều trị các bệnh trên[2].
Người cán bộ y tế cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề lựa chọn thuốc và sử
dụng thuốc. Kiến thức về y tế của cán bộ y tế quyết định cách sử dụng thuốc hợp lý, an toàn,
hiệu quả trong điều trị bệnh. Nhân viên y tế bao gồm người kê đơn và người bán thuốc có ảnh
hưởng trực tiếp đến nhu cầu dùng thuốc. Trước khi điều trị cho một bệnh nhân, thầy
thuốc cần khám bệnh để đưa ra chẩn đoán. Căn cứ vào bệnh được chẩn đoán để quyết
định việc chỉ định thuốc cho bệnh nhân. Như vậy, việc xác định nhu cầu thuốc có đúng
hay không còn phụ thuộc vào chất lượng chẩn đoán bệnh và ngược lại chẩn đoán sai
bệnh sẽ dẫn đến việc xác định sai nhu cầu thuốc. Người kê đơn nếu đặt lợi ích bệnh nhân
lên hàng đầu thì người bệnh được kê đơn thuốc hợp lý và sử dụng thuốc an toàn, hiệu quả.
Nhưng trên thực tế có một bộ phận bác sĩ đã không thực hiện quy chế kê đơn và bán thuốc
theo đơn, bị các công ty dược dùng vật chất, hoa hồng để khuyến khích kê đơn thuốc. Có
trường hợp cá biệt người kê đơn không biết thuốc đó hoạt chất là gì mà chỉ biết tên biệt dược.
Người bán thuốc tại các cơ sở bán lẻ nếu được đào tạo kiến thức chuyên môn sẽ góp phần vào

việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý. Trên thực tế, người bán thuốc chủ yếu là dược tá với mục


10

tiêu kinh doanh để thu lợi nhuận nên khi cung ứng thuốc đã làm thay đổi nhu cầu thuốc. Giới
thiệu cho người tiêu dùng các thuốc có lợi nhuận cao khi được tiêu thụ.
Yếu tố người bệnh cũng làm thay đổi nhu cầu sử dụng thuốc. Những người có thu
nhập cao đang có những đòi hỏi được chăm sóc sức khoẻ bằng những dịch vụ tốt nhất có thể,
tiết kiệm về thời gian điều trị, thuốc ngoại nhập. Ngược lại người có thu nhập thấp đòi hỏi có
các sản phẩm dược có hiệu quả điều trị chữa bệnh nhưng giá thấp. Đôi khi ý thức về thuốc
của người dân cũng làm thay đổi nhu cầu sử dụng thuốc, có vùng địa lý phần lớn thuốc được
sử dụng là thuốc ngoại nhập có nguồn gốc từ Pháp, có địa phương người dân có thói quen sử
dụng thuốc ngoại nhập. Có thể nói kến thức của người dân ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu
sử dụng thuốc trong cộng đồng.
Thuốc ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của người bệnh nên chất lượng,
hiệu quả điều trị là yêu cầu hàng đầu trong việc lựa chọn sử dụng thuốc. Thuốc có công nghệ
bào chế hiện đại, tiện ích khi sử dụng cũng làm thay đổi nhu cầu thuốc. Sản phẩm thuốc đạt
các tiêu chuẩn thực hành tốt như GMP, GLP, GSP, GDP thì giá cũng là một yếu tố ảnh
hưởng đến việc sử dụng thuốc trong cộng đồng. Do đó các thuốc có chất lượng, hiệu quả điều
trị thấp hơn sẽ bị đào thải và thay thế vào đó là các loại thuốc mới tốt hơn. Vì vậy nhu cầu
thuốc có xu hướng biến đổi theo trình độ khoa học kỹ thuật và xu hướng điều trị [3].
Tóm lại tình tiêu thụ thuốc tại Việt Nam trong giai đoạn 2001-2007 có sự thay
đổi về nhiều mặt. Trong năm 2007 tổng trị giá tiền thuốc sử dụng đạt trên 1,1 tỷ USD;
tiền thuốc bình quân là 12,69 USD/người/năm. Tuy nhiên trị giá thuốc nhập khẩu vẫn
chiếm số lượng lớn qua các năm, năm 2007 trị giá thuốc nhập khẩu là 810 triệu USD;
mặt khác ngành công nghiệp dược phẩm Việt Nam ngày càng đáp ứng được số lượng
thuốc tiêu thụ (về giá trị). Nhu cầu sử dụng thuốc bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như: mô
hình bệnh tật, người bệnh, cán bộ y tế và thuốc. Giá thuốc cũng là một yếu tố quan
trọng ảnh hưởng tới cung ứng thuốc và sử dụng thuốc trong cộng đồng.

1.2

Giá thuốc
Giá thuốc được cấu thành bởi các yếu tố sau:


11

Hình 1.5: Các chi phí cấu thành nên giá thuốc[34]

Thứ nhất là chi phí sản xuất bao gồm chi phí nghiên cứu và chi phí cho người
lao động, nguyên liệu; nguồn nguyên liệu sản xuất thuốc trong nước phải nhập khẩu
tới 95%. Nguyên liệu làm thuốc phần lớn từ dầu mỏ nên khi giá dầu mỏ biến động thì
nguồn nguyên liệu tăng từ đó giá thuốc biến động theo. Bên cạnh đó khi nhập khẩu
nguyên liệu các doanh nghiệp phải thanh toán bằng ngoại tệ (USD,EURO) khi thị
trường ngoại tệ biến động hoặc nền kinh tế thế giới suy thoái làm cho giá thuốc biến
động. Trung bình để nghiên cứu ra một thuốc mới mất gần 20 năm. Chi phí cho người
lao động để sản xuất thuốc và kiểm soát sau khi sản xuất bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế
vĩ mô toàn cầu và đất nước.
Thứ hai là chi phí lưu thông bao gồm chi phí thông tin quảng cáo và chi phí để
thực hiện các chiến lược kinh doanh.
Chi phí cho thông tin quảng cáo bao gồm chi phí quảng cáo trên các phương
tiện thông tin đại chúng và quảng cáo dành cho cán bộ y tế. Các công ty bỏ ra một
phần chi phí quảng cáo cho cán bộ y tế bằng việc in các tài liệu dành cho cán bộ y tế
hoặc có những người giới thiệu thuốc. Theo qui định người giới thiệu thuốc chỉ được
phép cung cấp thông tin cho cán bộ y tế và phải có trình độ chuyên môn về y dược
nhưng trên thực tế các công ty dược đã tuyển những người không có kiến thức chuyên
môn đi giới thiệu thuốc. Những người này chỉ làm nhiệm vụ thực hiện công việc tiếp
thị, xúc tiến bán hàng đơn thuần, có những công ty dùng cả hoa hồng cho bác sĩ khi kê
đơn. Các thuốc có chế độ hỗ trợ bán hàng mạnh, chính sách với bác sĩ kê đơn, người

bán thuốc thì được bán rất mạnh. Ngược lại, thuốc có giá thấp đạt chất lượng nhưng
chính sách xúc tiến bán hàng thấp thì rất khó đến được tay người bệnh.
Đối với các thuốc nhập khẩu cơ cấu giá thuốc như sau:
Lợi nhuận
Các loại chi phí
Thuế nhập khẩu
Giá thuốc nhập
khẩu


12

Hình 1.6: Cơ cấu giá thuốc nhập khẩu [27].

Chính việc bổ sung thêm các chi phí: giao hàng, vận chuyển, bốc dỡ, quản lý,
bán hàng, marketing, lãi ngân hàng đã góp phần làm tăng giá thuốc nhập khẩu. Hàng
năm nước ta phải nhập khẩu một số lượng lớn thuốc thành phẩm, chiếm tới 62% thị
phần. Năm 2007, giá trị nhập khẩu thành phẩm tân dược đạt tới gần 578 triệu USD,
gấp 20 lần giá trị xuất khẩu [27].
Thuốc nhập khẩu về qua các công ty xuất nhập khẩu dược phẩm đến khâu bán
buôn chênh lệch giá thường 5-10% so với nhập khẩu. Đối với các công ty TNHH
không có chức năng nhập khẩu phải ký hợp đồng nhập khẩu uỷ thác và chịu phí uỷ
thác bình quân từ 0,8-1,2% tính theo giá CIF. Qua các công đoạn của quá trình phân
phối khi đến tay bệnh nhân, giá thuốc tăng từ 30-35% so với giá nhập khẩu. Tuy nhiên
thực tế các công ty đã tìm mọi cách để kéo dài đường đi của thuốc, lợi dụng mọi kẽ
hởi của luật pháp để trục lợi làm giá thuốc tăng cao[18].
Khác với các loại hàng hoá khác, marketing dược là các bác sĩ và dược sĩ,
những người tư vấn sức khoẻ nhân dân, còn bệnh nhân là người tiêu dùng cuối cùng.
Muốn cho thuốc bán được trên thị trường các nhà phân phối phải tổ chức các cuộc hội
thảo khoa học lớn tại khách sạn hoặc ở các bệnh viện, khoa phòng. Bên cạnh đó các

công ty phân phối sử dụng hệ thống trình dược viên bao vây các nhà thuốc, khoa dược,
phòng khám, bác sĩ nhằm xúc tiến đẩy mạnh việc kê đơn; có những công ty dùng vật
chất, hoa hồng khuyến khích khi bác sĩ kê đơn. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến tăng giá thuốc [27].
Thuốc tại thị trường Việt Nam thì 65% thuốc nhập khẩu, 35% thuốc sản xuất
trong nước. Tuy nhiên sản xuất trong nước lại phụ thuộc yếu tố bên ngoài trên 70%
nên cũng phụ thuộc vào ngoại tệ. Năm 2007 thị trường dược phẩm Việt Nam bị ảnh
hưởng bởi thị trường thế giới qua sự tác động của giá ngoại tệ, chi phí đầu vào tăng.
Bên cạnh đó thời tiết diễn biến phức tạp nên nhu cầu thuốc phục vụ cho công tác điều


13

tr, phũng chng dch bnh tng mnh. Giỏ thuc cú s iu chnh nh nhng vn thp
hn so vi ch s giỏ tiờu dựng, khụng cú hin tng tng giỏ ng lot v bt hp lý.
Theo s liu ca Tng cc Thng kờ, ch s giỏ tiờu dựng nm 2007 ca nhúm
hng y t, dc phm l 7,05% ng th 5/10 nhúm hng ch yu.
Bang 1.8: So sỏnh ch s giỏ nhúm hng dc phm v giỏ tiờu dựng
Ch s giỏ
Dc phm, y t (%) Giỏ tiờu dựng (%)
Thỏng 12 nm 2007
0,61
2,91
12 thỏng nm 2007
7,05
12,63
Bỡnh quõn nm 2007 so vi nm 2006
5,12
8,30
T l tng nm 2007 so vi nm 2006

63,95
91,36

Trong quớ 1 nm 2008, tỡnh hỡnh giỏ nhiu mt hng th gii vn ng mc
cao c bit giỏ du thụ liờn tc vt ngng, giỏ vng tng cao, ng USD khụng n
nh tuy nhiờn B Y t ó ch o thc hin qun lý giỏ thuc nờn khụng cú hin tng
thuc tng ng lot.
Biến thiên Chỉ số giá của một số nhóm hàng
so với chỉ số giá tiêu dùng năm 2007
125

Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá nhóm hàng Dược phẩm, Y tế
Chỉ số giá nhóm hàng Lương thực

120

Chỉ số giá nhóm hàng Thực phẩm

115

(%)
110

105

12 tháng đầu năm 2007
100
T.01


T.02

T.03

T.04

T.05

T.06

T.07

T.08

T.9

T.10

T.11

T.12

Hinh 1.7: Ch s giỏ ca mt s nhúm hng so vi ch s giỏ tiờu dựng 2007

Mt s thuc ti cn trong nhng trng hp cn thit, nhng bnh nhõn cú
kh nng chi tr, thỡ yu t giỏ thuc ch nh hng ớt nhiu n nhu cu. Song vi
nhng loi thuc khụng phi l thuc ti cn, vi nhng bnh nhõn m kh nng kinh
t hn hp, thỡ giỏ thuc l mt trong nhng yu t cõn nhc trc khi quyt nh mua
hng hoc la chn nhúm thuc ny thay cho nhúm thuc khỏc, la chn thuc ny
thay cho thuc khỏc trong cựng mt nhúm hot cht hoc cú th khụng mua na [3].

Mt khỏc h thng phõn phi thuc ca chỳng ta hin nay cú nhiu cp trung
gian trong khi thuc cú th chuyn t cụng ty dc phm cp 1, c s nhp khu, c


14

sở sản xuất vào thẳng bệnh viện, các nhà thuốc tư nhân thì lại được chuyển về công ty
cấp 2, công ty TNHH trung gian.
Để thâm nhập chiếm lĩnh được thị trường các công ty dược tiến hành quảng cáo
trên các phương tiện thông tin đại chúng, tài liệu dành cho cán bộ y tế và người giới
thiệu thuốc. Những công ty có người giới thiệu thuốc thì doanh số bán hàng tăng làm
cho nhu cầu sử dụng thuốc sai thực tế. Có nhiều người thầy thuốc kê đơn thuốc do sự
tác động của người giới thiệu thuốc. Các nhà thuốc giới thiệu bán các loại thuốc có các
chính sách bán hàng.
Việc khuyến mại để bệnh nhân mua thuốc là không được phép. Người ta chỉ
cho phép giới thiệu mặt hàng và cung cấp các thông tin cần thiết về sử dụng thuốc cho
bệnh nhân trên những phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên do động cơ muốn
chiếm lĩnh thị trường, muốn đạt doanh thu, lợi nhuận cao nhà sản xuất hoặc nhà kinh
doanh thuốc luôn thực hiện việc khuyến mại và thông tin quảng cáo vượt quá giới hạn
cho phép [3].
Người thầy thuốc quyết định cho bệnh nhân sử dụng loại thuốc, số lượng, liều
lượng sử dụng. Nhu cầu thuốc phụ thuộc vào trình độ, khả năng chuyên môn của
người cung cấp dịch vụ y tế, trong đó đặc biệt là bác sỹ khám bệnh cho bệnh nhân.
Đây cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến giá thuốc. Ngày nay khi nền y dược học hiện
đại phát triển, kỹ thuật chẩn đoán trở thành giúp phát hiện ra nhiều bệnh tật. Do đó nhu
cầu sử dụng thuốc dự phòng bệnh tăng lên[31].
Mặt trái của kinh tế thị trường, vấn đề lợi nhuận đã tác động mạnh mẽ đến hành
vi của thầy thuốc, người bán thuốc, có xu hướng kê đơn nhiều thuốc và tư vấn mua
nhiều thuốc, với nhiều loại thuốc đắt tiền, các hiện tượng này đã ảnh hưởng sâu sắc
đến xu hướng sử dụng thuốc ở cộng đồng, là nguyên nhân cơ bản của việc sử dụng

thuốc không hợp lý, không an toàn, không hiệu quả kinh tế trong việc điều trị bệnh của
nhân dân [28].
Cá biệt một số thầy thuốc liên kết với các cơ sở bán thuốc để được trích hoa
hồng khi kê đơn thuốc nên giá sản phẩm đã được đẩy lên cao. Bên cạnh đó có những


15

người bán thuốc với mục đích lợi nhuận nên tự hướng dẫn người bệnh sử dụng các loại
thuốc phải kê đơn.
Quảng cáo thuốc cũng tác động mạnh tới người bán thuốc và thầy thuốc. Dưới
sự ảnh hưởng của quảng cáo cả người thầy thuốc và người bệnh cũng muốn dùng
những thuốc được quảng cáo đó. Trong nền kinh tế thị trường có doanh nghiệp đưa ra
những lời quảng cáo không đúng, không đủ với những sản phẩm của mình[15]. Theo
báo cáo của Cục quản lý dược trong năm 2007 cả nước có 1.196 hồ sơ đăng ký quảng
cáo có 32 công ty vi phạm.
Bảng 1.9: Số liệu về tình hình vi phạm quy chế thông tin quảng cáo[15]
Năm

Công ty trong nước vi phạm Công ty nước ngoài vi phạm

Tổng số

2005

4

12

16


2006

16

13

29

2007

24

8

32

Các vi phạm chủ yếu là quảng cáo khi chưa có hồ sơ quảng cáo tại Cục quản
lý dược; quảng cáo không đúng với hồ sơ đã đăng ký tại Cục quản lý; sử dụng lợi ích
vật chất để thúc đẩy sử dụng thuốc. Các hình thức vi phạm chủ yếu là quảng cáo trên
đài truyền hình địa phương khi chưa đăng ký, dưới các hình thức đố vui, giải trí trên
truyền hình; tờ rơi cho bác sĩ tại bệnh viện. Giá thuốc cũng phải gánh thêm các chi phí
quảng cáo này.
1.3

Hệ thống nhà thuốc ở Việt Nam

1.3.1 Vai trò
Cung ứng thuốc là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành dược nhằm
thực hiện mục tiếp cung ứng đủ thuốc có chất lượng. Thuốc cũng là một loại hàng hoá

nên nó cũng tuân theo các quy luật của hàng hoá. Phải nhờ mạng lưới cung ứng thuốc
mới đến được người sử dụng và khách hàng. Mạng lưới cung ứng thuốc tác động trực
tiếp tới nhu cầu sử dụng thuốc của một địa phương cũng như của một quốc gia nào đó.
Tổ chức mạng lưới cung ứng thuốc Việt Nam được mô tả theo sơ đồ sau:


16

Nhà sản xuất

Nhà nhập khẩu
Hệ thống phân phối

Hệ thống bán lẻ

Khách hàng

Bệnh viện

Người bệnh

Hình 1.8: Mạng lưới cung ứng thuốc tại Việt Nam[2].

Nhà thuốc là một thành phần trong hệ thống bán lẻ thuốc nên cũng đóng một vai
trò quan trọng trong mạng lưới cung ứng thuốc cho người bệnh.
Bên cạnh chức năng kinh doanh thì nhà thuốc cũng có chức năng cung cấp
thuốc đảm bảo chất lượng và thông tin thuốc, tư vấn cho người bệnh dùng thuốc an
toàn, hợp lý. Tham gia hoạt động tự điều trị bao gồm cung cấp thuốc, tư vấn dùng
thuốc điều trị các bệnh thông thường. Góp phần đẩy mạnh việc kê đơn phù hợp, kinh
tế, sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và hiệu quả [6].

Cùng với sự phát triển mạnh và rộng khắp của hệ thống cung ứng thuốc, tính
đến hết năm 2007 tổng số cơ sở bán lẻ trên toàn quốc gần 40.000 cơ sở [15]. Mạng
lưới cung ứng thuốc hiện tại đó vươn tới hầu hết các địa bàn trên toàn quốc, đảm bảo
công tác phòng, điều trị bệnh của của các cơ sở điều trị và nhu cầu thuốc của nhân dân.
Theo báo cáo tổng kết của Cục quản lý dược, số lượng nhà thuốc tư nhân trên
cả nước từ năm 2000-2007 như sau:


17

Hình 1.9: Số lượng nhà thuốc tư nhân ở Việt Nam 2000-2007[15]

Số lượng nhà thuốc sẽ tiếp tục biến động trong vài năm tới khi mà lộ trình thực
hành nhà thuốc tốt được chính thức triển khai. Theo quy định của Bộ Y Tế, kể từ ngày
01/7/2007, các nhà thuốc bổ sung chức năng kinh doanh thuốc hoặc mới thành lập tại
quận, phường nội thành Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ phải
đạt tiêu chuẩn "Thực hành tốt nhà thuốc" [6]. Quy định mới kể từ ngày 01/01/2010,
các nhà thuốc trong cả nước phải đạt tiêu chuẩn thực hành tốt nhà thuốc mới được gia
hạn giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc [6]. Qua bảng trên cho chúng ta
thấy năm 2008 số lượng nhà thuốc giảm so với năm 2007 do có những nhà thuốc khi
hết thời hạn giấy phép hành nghề y dược tư nhân nếu muốn đăng ký kinh doanh tiếp
phải thực hiện GPP nhà thuốc.
Với số lượng nhà thuốc tư nhân tương đối lớn nhưng mạng lưới phân bố lại
không đồng đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn: Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh. Theo thống kê vào năm 2004, số lượng nhà thuốc tư nhân ở Hà Nội và TPHCM
chiếm hơn 50% tổng số nhà thuốc trên toàn quốc [17].


18


Hình 1.10: Số lượng nhà thuốc tư nhân tại Hà Nội từ năm 2000 đến 2007

Nhà thuốc bao gồm nhà thuốc tư nhân và nhà thuốc bệnh viện. Đây là hai khối
nhà thuốc có sự khác biệt nhau. Nhà thuốc bệnh viện có tính chất và đặc thù riêng
phần lớn là bán theo đơn bác sĩ. Khi bệnh nhân đến khám bệnh bác sĩ sẽ chẩn đoán
sau đó kê đơn thuốc. Nhà thuốc bệnh bệnh viện với chức năng chỉ cung ứng thuốc theo
đơn của bác sĩ là chủ yếu và khi bán thuốc được quy định rõ thặng số bán lẻ. Theo
quyết định số 3016/1999/QĐ-BYT ngày 06/10/1999 về việc quy định tổ chức và hoạt
động của nhà thuốc bệnh viện trong đó quy định đối với các thuốc thông thường, thuốc
có giá trị thấp giá bán lẻ không được cao hơn 20% so với giá gốc; đối với thuốc biệt
dược, thuốc có giá trị cao giá bán lẻ không vượt quá 5% so với giá gốc, nghiêm cấm
việc nâng giá thuốc bán tại bệnh viện cao hơn giá thị trường[8]. Để thống nhất quản lý
hoạt động bán lẻ thuốc trong bệnh viện ngày 11/7/2008 Bộ Y tế ra quyết định số
24/2008 BYT-QĐ về việc ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của nhà thuốc
bệnh viện trong đó quy định thặng số bán lẻ tối đa tại nhà thuốc bệnh viện như sau[5]:
STT
1
2
3
4
5

Bảng 1.10: Thặng số bán lẻ tối đa thuốc tại nhà thuốc bệnh viện
Trị giá thuốc tính trên giá gốc
Thặng số
của đơn vị đóng gói nhỏ nhất
bán lẻ tối đa
Nhỏ hơn hoặc bằng 1.000đ
20%
Trên 1.000đ đến 5.000đ

15%
Trên 5.000đ đến 100.000đ
10%
Trên 100.000đ đến 1.000.000đ
7%
Trên 1.000.000đ
5%

Có những mặt hàng khi áp dụng theo quy định mới giá bán lẻ tại nhà thuốc
bệnh viện cao hơn giá thị trường bên ngoài. Các nhà thuốc bệnh viện khi nhập hàng
phải yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp đủ các hoá đơn tài chính. Tuy nhiên số lượng
nhà thuốc bệnh viện chỉ chiếm một số lượng nhỏ trong tổng số các nhà thuốc hiện tại.
Nhà thuốc tư nhân đóng góp vai trò trong việc cung ứng thuốc tới người dân, số
lượng nhà thuốc tư nhân chiếm tỷ lệ cao trong cộng đồng. Bên cạnh mặt tích cực đã
đạt được thì nhà thuốc tư nhân vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế. Phần lớn các nhà
thuốc tư nhân chỉ thuê bằng dược sĩ đứng tên, người bán hàng chủ yếu là dược tá.
Người dân vẫn có thói quen đến tự mua thuốc và nghe người bán thuốc tư vấn để tự
điều trị. Bên cạnh đó khi nhập hàng tại các nhà thuốc các công ty thường không xuất
hoá đơn đỏ nên giá nhập thấp hơn so với khi viết hoá đơn.


19

Hiện nay thuốc sản xuất trong nước mới đảm bảo được 773 hoạt chất trong tổng
số 1.500 hoạt chất đăng ký lưu hành ở Việt Nam [15]. Phần lớn nhu cầu sử dụng thuốc
chuyên khoa, đặc trị chủ yếu được cung cấp từ nguồn thuốc nhập khẩu.
Sau khi Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), áp dụng mức thuế
nhập khẩu dược phẩm từ 0% - 5% so với mức trước kia là từ 0% - 10%. Đồng thời các
doanh nghiệp nước ngoài sẽ được phép nhập khẩu trực tiếp, không mất phí ủy thác (0,75%1,5%) như trước thì giá thuốc ngoại có khả năng rẻ hơn [27]. Nếu sử dụng thuốc generic sẽ
tiết kiệm được chi phí hàng năm khoảng 60% so với giá của thuốc gốc [27].

Báo cáo tổng kết của Cục quản lý dược Việt Nam năm 2005, số lượng thuốc
generic chiếm khoảng 40% trong khối bệnh viện, cũng trong khối nhà thuốc, tỷ lệ này
là 34%. Về giá trị dùng thuốc generic chi phí chỉ khoảng 10% so với các loại thuốc
khác. Lượng thuốc biệt dược được sử dụng ở khối nhà thuốc rất cao chiếm 66% có trị
giá lên tới 90% tổng giá trị thuốc được tiêu thụ.
1.3.2 Một số vấn đề tồn tại
Về mặt tổng thế các cơ sở bán lẻ thuốc nhìn chung hoạt động thiếu chuyên
nghiệp, dịch vụ chưa tốt. Nhiều chủ nhà thuốc chỉ nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời
mà chưa quan tâm đến chất lượng, an toàn cho người sử dụng thuốc. Một số nhà thuốc
còn kinh doanh thuốc ngoài danh mục cho phép, hoạt động quá phạm vi cho phép, gây
ảnh hưởng không nhỏ đến công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân. Cá biệt một số
nhà thuốc bán thuốc hết hạn, không có số đăng ký, thuốc bị đình chỉ tạm thời, thuốc
giả gây nguy hiểm cho người bệnh [32].
Theo quy định, nhà thuốc tư nhân chỉ được bán lẻ các thuốc thành phẩm được
ban hành và một số dụng cụ y tế thông thường. Người bán thuốc chỉ được bán thuốc
kê đơn khi có đơn của bác sĩ. Nhưng trên thực tế, vi phạm quy chế kê đơn và bán thuốc
theo đơn còn khá phổ biến tại các nhà thuốc bán lẻ [32].
Ngoài kháng sinh, nhiều loại thuốc khác cũng không được bán theo đúng quy
định, cần lưu ý là nhóm thuốc steroid có nhiều tác dụng phụ được bán mà không cần
đơn cũng khá phổ biến tại các nhà thuốc. Tại một cuộc điều tra việc bán thuốc steroid


20

ở các nhà thuốc trong nội thành Hà Nội, thu được kết quả trong tổng số 283 lần đóng
vai khách hàng từ 60 nhà thuốc thì có đến 98% số nhà thuốc đó có ít nhất một lần bán
corticosteroid và 80% số lần được đáp ứng, chỉ có duy nhất một lần nhân viên bán
thuốc yêu cầu phải có đơn của thầy thuốc mới bán [32].
Trong thời gian tới khi mà lộ trình thực hành nhà thuốc tốt (GPP) được áp dụng, chỉ
các nhà thuốc đạt tiêu chuẩn mới được phép bán thuốc chuyên khoa, đặc trị, sẽ góp phần

vào việc thực hiện sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và hiệu quả.
Theo quy chế hành nghề dược tư nhân, tiêu chuẩn của người phụ trách chuyên môn
phải là dược sĩ đại học. Người phụ trách phải có mặt khi cơ sở hoạt động, hướng dẫn sử
dụng các loại thuốc bán theo đơn. Nhưng trên thực tế thì tình trạng dược sĩ đại học vắng mặt
xảy ra khá phổ biến ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng phục vụ người dân. Dược sĩ trung học
và dược tá là hai đối tượng tham gia trực tiếp bán và tư vấn sử dụng nhiều nhất [33]. Điều
đó dẫn tới tình trạng các kiến thức về chống chỉ định, phản ứng bất lợi, tương tác thuốc
chưa được đề cập. Nguyên nhân một phần do thiếu kiến thức nhưng điều quan trọng là
người bán thuốc vẫn chưa ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác
chăm sóc sức khỏe cho người dân [32].
Năm 2004 khi thanh tra công tác dược tại các nhà thuốc cho biết, khi kiểm tra
việc thực hiện quy chế chuyên môn trong hành nghề dược tư nhân thì nội dung vi
phạm chủ yếu là bán thuốc độc B không có đơn, dược sĩ chủ nhà thuốc vắng mặt,
người giúp việc bán thuốc không đủ tiêu chuẩn theo quy định, ghi chép sổ mua bán và
theo dõi chất lượng, hạn dùng của thuốc không đầy đủ, không kê khai, niêm yết giá hoặc
niêm

yết

giá

không

đầy

đủ

[33].



21

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Các thuốc bán lẻ tại 10 nhà thuốc trên địa bàn Hà Nội. Các thuốc có nguồn gốc
đông dược.
Loại trừ các thuốc có hoạt chất nằm trong nhóm thuốc ít được tiêu thụ tại các nhà
thuốc khảo sát. Lựa chọn những thuốc có số liệu liên tục qua tất cả các tháng. Thu thập
số liệu các nhà thuốc bán lẻ không gần bệnh viện và khu vực bán buôn dược phẩm.
Giữ bí mật thông tin kinh doanh của các nhà thuốc nghiên cứu.
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả đầy đủ, tập trung phân tích mức tiêu
thụ thuốc, mức tiêu thụ các nhóm thuốc và theo dõi giá thuốc bán lẻ tại nhà thuốc.
Thu thập số liệu bán hàng tại các nhà thuốc bằng sổ ghi chép hoặc file dữ liệu với
các nhà thuốc có ứng dụng công nghệ thông tin.
2.2.2 Phương pháp xử lý số liệu
Thu thập thông tin chi tiết (tên thuốc, hoạt chất, hàm lượng, dạng bào chế, đơn vị,
đóng gói, xuất xứ, nguồn gốc, giá tham khảo) của toàn bộ các thuốc được bày bán tại các
nhà thuốc khảo sát.
Tiến hành nhập đầy đủ dữ liệu thông tin thuốc vào bảng cấu trúc của chương trình
Microsoft.
2.2.3 Phương pháp xử lý kết quả
Sử dụng phần mềm được lập trình và thiết kế riêng trên cơ sở ngôn ngữ lập
trình Microsoft.
a. Số liệu liên quan đến mức tiêu thụ thuốc, mức tiêu thụ các nhóm thuốc được phân
tích theo các chỉ số sau:

+ Giá trị tiêu thụ (GTTT): Là giá trị tiền thuốc được tiêu thụ tính cho từng nhóm.
Đơn vị tính: triệu đồng.



×