Bộ GiáO dục và đào tạo
Bộ Y tế
Trường đại học dược hà nội
Nguyễn Trung hà
Phân tích hoạt động cung ứng thuốc tại bệnh
viện trung ương quân đội 108 năm 2007
Luận văn thạc sĩ dược học
Hà nội 2007
Bộ GiáO dục và đào tạo
Bộ Y tế
Trường đại học dược hà nội
--------- ---------
Nguyễn trung hà
Phân tích hoạt động cung ứng thuốc tại
bệnh viện trung ương quân đội 108 năm 2007
Luận văn thạc sĩ dược học
Chuyên ngành: Tổ chức quản lý Dược
Mã số: 607320
Người hướng dẫn khoa học:
PGS, TS Lê Viết Hùng
Th.S. Đỗ Xuân Thắng
Hà nội 2007
Lời cảm ơn
Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
PSG. TS Lê Viết Hùng
Th.S Đỗ Xuân Thắng
Những người thầy đáng kính đã hết lòng hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn
thành đề tài này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới:
PGS.TS Nguyễn Thị Thái Hằng cùng tập thể bộ môn Tổ chức quản lý
dược trường đại học Dược Hà Nội
Ban Giám hiệu trường Đại học Dược Hà Nội
Ban Giám đốc Bệnh viện TƯQĐ 108
Lãnh đạo, Chỉ huy khoa Dược Bệnh viện TƯQĐ 108
Tập thể cán bộ, nhân viên Khoa Dược Bệnh viện TƯQĐ 108
Đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành đề tài này.
Tôi cũng đặc biệt cảm ơn Gia đình, Bạn bè và đồng nghiệp đã luôn ủng hộ,
động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành đề
tài này.
Hà Nội, ngày 25 tháng 12 năm 2007
Nguyễn Trung Hà
Danh mục các chữ viết tắt
BĐ
Bộ đội
BH
Bảo hiểm
BHYT
Bảo hiểm y tế
BN
Bệnh nhân
BV
Bệnh viện
BYT
Bộ Y tế
CLS
Cận lâm sàng
Cty
Công ty
DM
Danh mục
DMTBV
Danh mục thuốc bệnh viện
DV
Dịch vụ
GTGT
Giá trị gia tăng
HĐT&ĐT
Hội đồng thuốc và điều trị
KCB
Khám chữa bệnh
KHTH
Kế hoạch tổng hợp
KP
Kinh phí
KS
Kháng sinh
LS
Lâm sàng
PTYT
Phát triển Y tế
TƯ
Trung ương
TƯQĐ
Trung ương quân đội
TB
Trung bình
TL
Tỷ lệ
TMDV
Thương mại dịch vụ
TTY
Thuốc thiết yếu
VTYTTH
Vật tư y tế tiêu hao
1
Đặt vấn đề
Thuốc có một vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc sức
khoẻ nhân dân. Bức tranh bệnh tật của nhân dân ta trong nhiều thập kỷ vừa
qua đã có những thay đổi quan trọng theo hướng tích cực do nhiều yếu tố
quyết định trong đó có sự đóng góp xứng đáng của ngành Dược trong việc sản
xuất và cung ứng dược phẩm phục vụ chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
Bảo đảm thuốc được sử dụng hợp lý, an toàn và bảo đảm khả năng nhân dân
có được thuốc tốt khi ốm đau là những điều kiện tiên quyết để công tác chăm
sóc sức khoẻ ban đầu thành công. Lòng tin của nhân dân đối với hệ thống y tế
sẽ tăng nếu ở các cơ sở y tế có đủ thuốc có chất lượng phục vụ cho công tác
điều trị [35].
Cùng với việc thành lập Hội đồng thuốc và điều trị tại các bệnh viện,
tình hình cung cấp thuốc cho các bệnh viện đã được cải thiện, 96% khoa dược
bệnh viện cung cấp đủ thuốc cho nhu cầu điều trị, 99% bệnh viện đảm bảo
đúng thuốc trong danh mục của bệnh viện và ở 94% bệnh viện bảo đảm chất
lượng, số lượng nguồn gốc thuốc. Việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, tiết
kiệm đã có bước tiến bộ. Hệ thống Bệnh viện đang sử dụng 55% thuốc sản
xuất trong nước về chủng loại, phần còn lại là thuốc nhập từ nước ngoài. Tuy
nhiên về giá trị, thuốc trong nước chỉ chiếm 27% do giá cả rẻ hơn, và đa số là
thuốc gốc. Công tác theo dõi tác dụng phụ có hại của thuốc được tăng cường.
Các khoa dược bệnh viện từng bước vươn lên đảm nhiệm chức năng thông tin,
tư vấn sử dụng thuốc. Bước đầu thiết lập mối quan hệ giữa Bác sĩ, Dược sĩ và
Y tá nhằm sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, có hiệu quả cho người bệnh [9].
Bên cạnh những tác động tích cực, việc cung ứng thuốc trong cơ chế thị
trường còn nhiều mặt hạn chế ảnh hưởng đến hoạt động cung ứng và sử dụng
thuốc an toàn, hợp lý. Theo điều tra của Bộ Y tế, việc kê đơn không hợp lý gặp
ở rất nhiều Bệnh viện. Mặt khác, theo báo cáo của Cục Quản lý Dược Việt
2
Nam, việc cung ứng, quản lý, sử dụng thuốc không hợp lý đang diễn ra phổ
biến ở các bệnh viện.
Bệnh viện TƯQĐ 108 là Bệnh viện tuyến cuối của toàn quân, là một
trong những trung tâm y tế chuyên sâu của cả nước. Hàng năm Bệnh viện đã
thực hiện công tác khám, chữa bệnh cho một số lượng lớn bệnh nhân thuộc
nhiều đối tượng khác nhau: Bộ đội, Bảo hiểm y tế, Chính sách, Dịch vụ Y tế
Do vậy nhu cầu thuốc của bệnh viện hàng năm là rất lớn, việc đảm bảo cung
ứng đầy đủ kịp thời thuốc, hoá chất xét nghiệm có chất lượng phục vụ công
tác khám chữa bệnh là rất cần thiết.
Đã có đánh giá về thực trạng công tác cung ứng thuốc tại Bệnh viện
TƯQĐ 108, tuy nhiên chưa có đánh giá sâu về qui trình cung ứng, chưa có
đánh giá so sánh các phương thức cung ứng khác nhau trong Bệnh viện đặc
biệt chưa chỉ rõ vai trò của HĐT&ĐT trong chu trình cung ứng.
Xuất phát từ thực tế, với mong muốn nâng cao chất lượng hoạt động
cung ứng thuốc tại Bệnh viện TƯQĐ 108 chúng tôi tiến hành đề tài:
Phân tích hoạt động cung ứng thuốc tại Bệnh viện TƯQĐ 108 năm
2007 với mục tiêu:
- Khảo sát hoạt động lựa chọn thuốc tại khoa Dược Bệnh viện TƯQĐ
108 năm 2007.
- Phân tích hoạt động mua và cấp phát thuốc tại Bệnh viện TƯQĐ 108
năm 2007.
- Khảo sát hoạt động giám sát sử dụng thuốc tại Bệnh viện TƯQĐ 108
năm 2007.
Từ đó đưa ra một số kiến nghị và đề xuất nhằm nâng cao chất lượng trong
cung ứng thuốc tại Bệnh viện TƯQĐ 108.
3
Chương 1: Tổng Quan
1.1. Hoạt động cung ứng thuốc
1.1.1. Tình hình cung ứng thuốc trên Thế giới
Đã hàng ngàn năm nay, thuốc phòng, chữa bệnh đã trở thành một nhu
cầu tất yếu của cuộc sống con người. Thuốc đóng vai trò quan trọng trong
công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân (CS&BVSKND) và nói rộng
hơn là một trong những yếu tố chủ yếu nhằm bảo đảm mục tiêu cung ứng
thuốc cho nhân dân được cải thiện, nhiều bệnh dịch lớn trên thế giới và ở nuớc
ta từng bước đã được hạn chế và thanh toán. Nhiều bệnh hiểm nghèo đã được
chữa khỏi. Những thành tựu của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã
được nhanh chóng áp dụng vào việc nghiên cứu, phát minh, sản xuất, cung
ứng các loại dược phẩm nhằm đấu tranh với bệnh tật, bảo vệ sức khoẻ kéo dài
tuổi thọ con người [34].
Trong vài thập niên trở lại đây cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa
học kỹ thuật đã tác động nhiều đến ngành Dược, giá trị tiền thuốc sử dụng trên
thế giới đang tăng với tốc độ 9-10% mỗi năm và cứ sau mỗi thập kỷ, giá trị
sản lượng thuốc lại tăng gấp 2 đến 2,5 lần (1976: 4,3 tỷ USD; 1985: 94 tỷ
USD, 1994: 256 tỷ USD). Bình quân tiền thuốc sử dụng trên đầu người cũng
tăng (1976: 10,3 USD; 1995: 40 USD; năm 1999: 63 USD) [35]. Mặc dù sản
lượng thuốc trên thế giới ngày càng tăng nhưng có một thực tế đáng quan tâm
là sự phân bố tiêu dùng thuốc rất chênh lệch giữa các nước phát triển và các
nước đang phát triển. Tổ chức y tế thế giới đánh giá rằng, các nước đang phát
triển chiếm 75% dân số toàn cầu, chỉ được hưởng thụ khoảng 21% dược phẩm
được sản xuất ra mỗi năm trên thế giới. Tiền thuốc hưởng thụ bình quân đầu
người cũng rất chênh lệch ở các nước, mức hưởng thụ thuốc hàng năm trên
đầu người ở một số nước Châu âu và Bắc mỹ khoảng 300 USD trong khi bình
4
quân ở các nước đang phát triển là 10 USD và ở các vùng xa xôi, hẻo lánh chỉ
là 1 USD [34], [35].
1.1.2. Tình hình cung ứng thuốc ở Việt Nam
ở Việt Nam, trong những năm gần đây, thực hiện cơ chế kinh tế mới,
toàn ngành Dược đã phấn đấu đảm bảo tốt nhu cầu về thuốc chữa bệnh cho
nhân dân, cơ bản khắc phục được tình trạng thiếu thuốc triền miên trong
những năm trước 1990[34]. Mức hưởng thụ thuốc bình quân trên đầu người đã
tăng 22,4 lần từ 0,5 USD trong thập niên 80 lên đến 11,2 USD trong năm
2006, nếu chỉ tính riêng trong 10 năm trở lại đầy (1997-2006) tiền thuốc bình
quân đầu người tăng 2,15 lần (năm 1997 là 5,2 USD) (Hình 1.1) [4], [34].
11.2
12
10
USD
8
6
5.2
5.5
97
98
5
5.4
99
2000
6.7
6
7.6
8.6
9.85
4
2
0
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Năm
Hình 1.1. Bình quân tiền thuốc đầu người/năm
Nhà nước vẫn tiếp tục hỗ trợ hoặc cấp không thu tiền thuốc phòng
chống dịch, thuốc chữa các bệnh xã hội, các loại vacxin phục vụ tiêm chủng
mở rộng... Thông qua các chương trình y tế quốc gia-Chính phủ hỗ trợ phí vận
chuyển thuốc từ Trung ương đến tỉnh miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa
5
và có chính sách cấp thuốc miễn phí với định mức 10.000đ/người/năm cho
đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa [34].
Theo báo cáo của cục Quản lý dược, thuốc sản xuất trong nước ngày
càng đáp ứng được nhiều hơn nhu cầu sử dụng thuốc của nhân nhân, tính đến
cuối năm 2005, nước ta đã đảm bảo được khoảng 625 hoạt chất trên tổng số
1.563 hoạt chất [4]. Xét về giá trị tiền thuốc, tỷ lệ giá trị thuốc nội so với tổng
giá trị thuốc hàng năm đều tăng, năm 2006 thuốc sản xuất trong nước chiếm
49,71% trên tổng trị giá tiền thuốc sử dụng, tăng 120,3% so với năm 2005
(Bảng 1.1)[4].
Bảng 1.1. So sánh mức độ tăng trưởng sản xuất thuốc trong nước từ năm
2001-2006
Năm
Tổng trị giá tiền
Tăng
thuốc sử dụng
trưởng
(1.000USD)
(%)
Thuốc sản xuất trong nước
Trị giá
Tỷ lệ trên tổng
Tăng
trị giá (%)
trưởng (%)
2001
472.356
100,00 170.390
36,10
100,00
2002
525.807
111,35 200.290
38,10
117,55
2003
608.699
115,76 241.870
39,74
120,76
2004
707.535
116,23 305.950
43,24
126,48
2005
817.396
115,52 395.157
48,34
129,16
2006
956.353
116,99 475.403
49,71
U
120,30
U
[Nguồn: Cục Quản lý dược Việt Nam]
Mạng lưới cung ứng thuốc cũng phát triển rộng khắp đã vươn ra hầu hết
các địa bàn trên toàn quốc, đảm bảo cung ứng đủ và kịp thời thuốc phục vụ
công tác phòng và điều trị bệnh của các cơ sở điều trị cũng như của nhân dân.
Tính đến hết 30/08/2007 cả nước có 89 doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp
thuốc, 943 doanh nghiệp kinh doanh thuốc, số doanh nghiệp nước ngoài đăng
6
ký cung cấp thuốc vào Việt Nam là 373 doanh nghiệp, 41.520 cơ sở bán lẻ
trên toàn quốc[4]. Thuốc sản xuất trong nước ngày càng đa dạng về chủng
loại, mẫu mã và chất lượng ngày một nâng cao. Thực hiện lộ trình triển khai
áp dụng các tiêu chuẩn về thực hành tốt của Bộ Y tế, đến hết 30/08/2007, cả
nước có 178 doanh nghiệp sản xuất dược phẩm đã có 74 doanh nghiệp đạt tiêu
chuẩn GMP (46 cơ sở đạt GMP-WHO, 28 cơ sở đạt GMP-ASEAN), Các cơ sở
đạt GMP đã sản xuất được khoảng 90% doanh thu thuốc sản xuất trong nước
[4].
Công tác kiểm tra chất lượng thuốc lưu hành trên thị trường Việt Nam
được nâng cao, trong năm 2006 hệ thống kiểm nghiệm trên toàn quốc đã kiểm
nghiệm được 41.998 mẫu thuốc; trong đó 71% là lấy mẫu trên thị trường, phát
hiện 38 mẫu thuốc giả, tính đến 30/8/2007, số lô thuốc kém chất lượng phải
thu hồi là 47 lô (33 lô sản xuất trong nước, 14 lô thuốc nhập khẩu)[32].
Tuy nhiên, thực tế hiện nay, thuốc sản xuất trong nước vẫn chỉ là thuốc
thông thường, công nghệ bào chế đơn giản, nhiều đơn vị sản xuất trùng lặp
một mặt hàng, chưa chú ý tới đầu tư sản xuất các loại thuốc chuyên khoa đặc
trị, các dạng bào chế đặc biệt. Theo Báo cáo của Cục Quản lý dược Việt Nam
đến tháng 6/2006 trong số các dây chuyền GMP có tới 51% đầu tư cho sản
xuất thuốc viên thông thường; 15% cho sản xuất thuốc kem, mỡ, dùng ngoài;
10% cho sản xuất nang mềm; 8% cho sản xuất thuốc nước; 7% cho sản xuất
thuốc tiêm; 5% cho sản xuất thuốc nhỏ mắt; 4% cho sản xuất dịch truyền.
Nhóm dược lý đăng ký sản xuất trong nước có sự mất cân đối tập trung vào
một số nhóm: Kháng sinh chiếm 19,4%; Vitamin-Thuốc bổ chiếm 11,8%; Hạ
nhiệt giảm đau chiếm 10,4%. Với 7 loại hoạt chất được sản xuất nhiều nhất có
số đăng ký chiếm tới 13,1% tổng số đăng ký thuốc trong nước (Bảng 1.2)[32].
7
Bảng 1.2. Những hoạt chất sản xuất trong nước nhiều số đăng ký
STT
1
2
3
4
5
6
7
Số đăng ký
Hoạt chất
Tỷ lệ
tân dược
266
172
116
79
72
109
79
893
Paracetamol
Vitamin C
Vitamin B1
Vitamin B6
Sulfamethoxazole
Cephalexin
Erythromycin
Tổng
3,8%
2,5%
1,7%
1,2%
1,1%
1,6%
1,2%
13,1%
Theo Báo cáo tổng hợp của Chuyên gia chương trình SIDA, nếu xếp nền
công nghiệp dược Việt Nam theo 4 cấp độ phát triển công nghiệp dược được
tổ chức UNIDO, UNCTAD, WHO đưa ra (Hình 1.2) thì hiện tại công nghiệp
dược Việt nam đang ở mức độ phát triển từ 2,5 đến 3 [32].
Sản xuất được nguyên liệu và phát
minh thuốc mới
Có công nghiệp dược nội địa sản xuất
generic, xuất khẩu được một số dược phẩm
Sản xuất được một số generic, đa số
phải nhập khẩu
Hoàn toàn nhập khẩu
Hình 1.2. Phân loại công nghiệp dược các nước theo 4 cấp độ
Như vậy, mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, nghành Dược vẫn đang
còn một số vấn đề cần phải hết sức quan tâm:
8
- Về mặt lượng: nhân dân ta đang có mức hưởng thụ thuốc thấp nhất thế
giới và kể cả so với các nước trong khu vực. Mặt khác, cũng như tình hình
chung trên thế giới, mức độ hưởng thụ rất chênh lệch giữa các vùng địa lý
kinh tế và giữa các tầng lớp dân cư.
- Về mặt chất: Việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý đang còn là một
thách thức cho toàn ngành y tế.
Nói một cách khác cả về mặt lượng lẫn mặt chất, việc cung ứng thuốc
cho nhân đân chưa đáp ứng một cách tốt nhất cho mục tiêu cao cả của nền y tế
xã hội chủ nghĩa là phải đảm bảo công bằng trong cung ứng thuốc. Với quan
điểm của Đảng và Nhà Nước ta tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với công
bằng xã hội, vấn đề đảm bảo công bằng trong tiếp cận với thuốc đối với đối
tượng chính sách, người nghèo và vùng nghèo thể hiện bản chất xã hội chủ
nghĩa của hoạt động sản xuất kinh doanh và cung ứng dược phẩm ở nước ta.
Vấn đề bảo đảm công bằng trong cung ứng thuốc cho nhân dân không chỉ đơn
thuần là một vấn đề kinh tế mà là một vấn đề có tầm quốc gia, đòi hỏi phải
thống nhất quan điểm và biện pháp hành động [34].
1.2. Cung ứng thuốc trong bệnh viện
Theo báo cáo của Cục quản lý Dược Việt Nam trong năm 2006, ngành
dược về cơ bản đã cung ứng đủ thuốc và kịp thời cho các cơ sở điều trị trên
toàn quốc. Tổng hợp báo cáo của 698 bệnh viện trong cả nước, 99% các bệnh
viện cung ứng đủ thuốc chữa bệnh chủ yếu đảm bảo chất lượng theo danh mục
thuốc của bệnh viện xây dung [32].
Kinh phí sử dụng thuốc tại các cơ sở điều trị năm 2006 tăng 44,1% so
với năm 2005, đạt 3.973 tỉ đồng, trong đó tiền mua thuốc trong nước là 1.308
tỉ, chiếm 33%. Tiền thuốc Bảo hiểm chi trả là 2.271,8 tỷ, tăng 64,5% so với
năm 2005, chiếm khoản 50% tổng số tiền Bảo hiểm y tế đã thanh toán viện
phí cho các bệnh nhân toàn quốc (khoảng 4.400 tỷ) [32].
9
Cung ứng thuốc trong Bệnh viện cần đảm bảo chất lượng, đáp ứng nhu
cầu điều trị hợp lý, là một trong những nhiệm vụ quan trọng của khoa Dược
bệnh viện, Theo WHO chu trình cung ứng thuốc được biểu diễn ở hình
sau[21]:
LựA CHọN
Sử DụNG
Các lĩnh vực
quản lý khác
MUA THUốC
CấP PHáT
Dòng lưu chuyển các hoạt động cung ứng
đường phối hợp
Hình 1.3. Chu trình cung ứng thuốc
Chu trình cung ứng thuốc theo 4 bước lựa chọn, mua thuốc, cấp phát, sử
dụng là chu trình khép kín, đó là quá trình đưa thuốc từ nơi sản xuất đến người
sử dụng là bệnh nhân và chính kết quả sử dụng trên bệnh nhân sẽ là cơ sở
vững chắc cho quá trình cung ứng tiếp theo. Như vậy, để chu trình hoạt động
trơn tru, hiệu quả cần một tổ chức có khả năng điều phối, gắn kết các bước
của chu trình cung ứng, đồng thời đó phải là tổ chức có chức năng quản lý có
thể hướng dẫn, điều chỉnh chu trình thông qua các chính sách của mình, có
chức năng chuyên môn, kỹ thuật để đánh giá hoạt động cung ứng. Trong chu
trình quản lý thuốc ở bệnh viện HĐT&ĐT là tổ chức đứng ra điều phối toàn
bộ quá trình cung ứng thuốc tại Bệnh viện. Tuy nhiên, cần phải cố gắng, nỗ
lực để tránh biến HĐT&ĐT thành một diễn đàn chỉ phục vụ cho các quyết
định có liên quan đến mua sắm hoặc giải quyết khiếu nại của Dược sỹ về vấn
10
đề hết thuốc trong kho. Các chức năng lựa chọn, mua sắm, thanh toán và lưu
kho cần phân tách, tránh kiêm nhiệm, chồng chéo [39].
1.2.1. Lựa chọn Thuốc
Việc chọn thuốc phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mô hình bệnh tật tại
chỗ, trang thiết bị điều trị, kinh nghiệm và trình độ của đội ngũ cán bộ, các
nguồn lực tài chính, các yếu tố môi trường, địa lý và di truyền. Tổ chức Y tế
thế giới năm 1999 đã xây dựng một số tiêu chí lựa chọn như sau [22]:
1.2.1.1. Tiêu chí lựa chọn thuốc
- Chỉ chọn những thuốc có đủ bằng chứng tin cậy về hiệu quả điều trị,
độ an toàn thông qua các thử nghiệm lâm sàng và trên thực tế sử dụng rộng rãi
tại các cơ sở khám chữa bệnh.
- Thuốc được chọn phải sẵn có ở dạng bào chế đảm bảo sinh khả dụng,
cũng như sự ổn định về chất lượng trong những điều kiện bảo quản và sử dụng
nhất định.
- Khi có 2 hoặc nhiều hơn hai thuốc tương đương nhau về hai tiêu chí
trên thì cần phải lựa chọn trên cơ sở đánh giá kỹ lưỡng các yếu tố như hiệu
quả điều trị, độ an toàn, giá cả và khả năng cung ứng.
- Khi so sánh chi phí giữa các thuốc cần phải so sánh tổng chi phí cho
toàn bộ quá trình điều trị chứ không phải chi phí tính theo đơn vị của từng
thuốc. Khi mà các thuốc không hoàn toàn giống nhau thì khi lựa chọn cần
phải tiến hành phân tích hiệu quả - chi phí.
- Trong một số trường hợp sự lựa chọn còn phụ thuộc vào một số các
yếu tố khác như các đặc tính dược động học hoặc cân nhắc những đặc điểm tại
địa phương như trang thiết bị bảo quản, hệ thống kho chứa hoặc nhà sản xuất,
cung ứng.
- Thuốc thiết yếu nên được bào chế ở dạng đơn chất, những thuốc ở
dạng đa chất phải có đủ cơ sở chứng minh liều lượng của từng hoạt chất đáp
11
ứng yêu cầu điều trị của một nhóm đối tượng cụ thể và có lợi thế vượt trội về
hiệu quả, độ an toàn hoặc tiện dụng so với thuốc ở dạng đơn chất.
- Thuốc ghi tên gốc hoặc tên chung quốc tế (INN), tránh đề cập đến tên
biệt dược hoặc nhà sản xuất cụ thể.
Hội đồng thuốc và điều trị cần phải thống nhất một cách rõ ràng tất cả các
tiêu chí dựa trên những tiêu chí có sẵn của WHO để chọn thuốc làm sao đảm
bảo được qui trình lựa chọn khách quan và có cơ sở. Nếu thiếu cơ sở bằng
chứng thì các quyết định đưa ra rất có thể mang tính cá nhân hoặc thiếu khách
quan và điều này cũng sẽ gây khó khăn khi thuyết phục các thầy thuốc kê đơn
thực hiện danh mục thuốc. Các tiêu chí chọn thuốc cũng như toàn bộ thủ tục
đề xuất đưa thuốc vào danh mục thuốc phải được công khai. Không phải tất cả
các bằng chứng đều có sức thuyết phục như nhau. Mức độ tin cậy của bằng
chứng cần phải được xác nhận khi công khai các tiêu chí lựa chọn và đưa ra
quyết định [22].
1.2.1.2. Xây dựng và thực hiện danh mục thuốc Bệnh viện
Danh mục thuốc của bệnh viện phải thống nhất với danh mục thuốc
thiết yếu (TTY). Việc thống nhất một cách rõ ràng các tiêu chí chọn lựa khi
xây dựng danh mục thuốc là rất quan trọng và cần phải được thực hiện một
cách bài bản nhằm tạo dựng giá trị của danh mục thuốc cũng như sự tin tưởng
của thầy thuốc kê đơn khi sử dụng danh mục thuốc đó.
Bước 1: Lập một danh mục các vấn đề sức khoẻ /bệnh tật theo thứ
tự ưu tiên điều trị trong bệnh viện và xác định phương án điều trị đầu tay
cho từng trường hợp cụ thể.
Việc phân loại, xếp hạng bệnh tật là nhằm phân định ra đâu là những
bệnh thường gặp nhất trong quá trình điều trị tại bệnh viện được thực hiện
thông qua hình thức lấy ý kiến đóng góp của tất cả các khoa phòng và xem
xét, rà soát lại tất cả những ghi chép về tỉ lệ mắc bệnh, tử vong tại bệnh viện
thời điểm trước đó. Đối với từng bệnh cụ thể cần xác định phương án điều trị
12
ban đầu phù hợp dựa trên cơ sở các hướng dẫn điều trị được xây dựng trong
nước hoặc trong bệnh viện.
Bước 2: Dự thảo, đưa ra lấy ý kiến góp ý và hoàn thiện danh mục
thuốc.
Khi soạn thảo danh mục thuốc cần xác định rõ:
- Những thuốc quan trọng nhất (thực sự thiết yếu) và những thuốc ít
quan trọng hơn (mức độ thiết yếu giảm dần)
- Những thuốc có giá thành cao nhất.
- Xem liệu các thuốc có được kê với số lượng lớn hoặc có giá thành cao
hoặc có thực sự là thiết yếu hay không.
Bước 3: Xây dựng các chính sách và hướng dẫn thực hiện
Danh mục thuốc sẽ không thực sự hữu ích nếu thiếu những chính sách và
hướng dẫn sử dụng cụ thể, chính thức. Những nội dung này bao gồm:
- Đối tượng sử dụng danh mục thuốc (thầy thuốc kê đơn và bộ phận phụ
trách mua thuốc)
- Cách thức cập nhật và rà soát danh mục thuốc.
- Những qui định để bổ sung hoặc loại thuốc ra khỏi danh mục thuốc.
- Thủ tục cho việc đưa ra yêu cầu sử dụng thuốc không nằm trong danh
mục tlhuốc trong trường hợp bất thường hoặc trường hợp khẩn cấp (ví dụ
thuốc không nằm trong danh mục thuốc do thày thuốc được uỷ quyền kê trong
trường hợp bệnh nhân cụ thể).
Bước 4: Hướng dẫn sử dụng danh mục thuốc và giám sát thực hiện.
Tất cả các nhân viên trong bệnh viện phải được hướng dẫn, tập huấn về
danh mục thuốc. Một vấn đề thường gặp đó là thày thuốc kê đơn liên tục có
những yêu cầu sử dụng thuốc không nằm trong danh mục. Điều này dẫn đến
thực trạng là người bệnh phải mua thuốc ở nhà thuốc bên ngoài bệnh viện
hoặc bộ phận mua sắm tiến hành mua những thuốc đó mà không có sự chấp
thuận của HĐT & ĐT. Do vậy cần phải thiết lập một hệ thống thực hiện, phân
13
công trách nhiệm và các qui định để thực thi bao gồm cả các hình thức kỷ
luật, khiển trách. Cả người sử dụng cũng như lãnh đạo bệnh viện có thể tham
gia vào quá trình đánh giá và thúc đẩy thực hiện [22].
Mô hình bệnh tật (MHBT):
Là một quốc gia đang phát triển và là một nước nhiệt đới, mô hình
bệnh tật ở Việt Nam trong những thập kỷ tới là mô hình bệnh tật phức tạp. Các
bệnh nhiễm khuẩn vẫn là những bệnh khá phổ biến. Số người nhiễm
HIV/AIDS, bệnh nhiễm virus ngày càng tăng. Sự biến đổi này cũng giống như
sự thay đổi tại các quốc gia đang phát triển khác.
Mô hình bệnh tật của bệnh viện là các số liệu thống kê về bệnh tật trong
khoảng thời gian nhất định, số bệnh nhân vào điều trị, số ngày nằm điều trị
trung bình và số các loại thuốc đã được sử dụng cho khối lượng bệnh nhân
này. Tuỳ theo hạng và tuyến bệnh viện mà MHBT bệnh viện có thể thay đổi
(do hạng bệnh viện liên quan tới kinh phí, kĩ thuật điều trị, biên chế) Để
nghiên cứu MHBT các bệnh viện sử dụng phân loại quốc tế bệnh tật ICD 10
(bao gồm 21 chương bệnh). MHBT của bệnh viện là căn cứ quan trọng giúp
bệnh viện không chỉ xây dựng DMT phù hợp mà còn làm cơ sở để bệnh viện
hoạch định phát triển toàn diện trong tương lai.
Phác đồ điều trị (Hướng dẫn thực hành điều trị):
Phương pháp điều trị là tài liệu hướng dẫn cho thầy thuốc thực hành
những công việc cụ thể và không thể thiếu trong quá trình điều trị (gọi là
hướng dẫn thực hành điều trị). Theo tổ chức Y tế Thế Giới, một hướng dẫn
thực hành điều trị về thuốc bao gồm đủ 4 thông số: Hợp lí, An toàn, Hiệu quả,
Kinh tế.
Phác đồ điều trị là biểu hiện của sự tập trung trí tuệ của tập thể cán bộ
chuyên môn của bệnh viện cho những phương án điều trị cụ thể của từng loại
bệnh. Vì vậy DMT của bệnh viện cần dựa vào các phác đồ điều trị (có thể là
14
phác đồ điều trị trong và ngoài nước). Không có phác đồ điều trị thì không thể
xây dựng DMT một cách khoa học [22].
Danh mục thuốc thiết yếu:
Danh mục thuốc thiết yếu có đủ các chủng loại đáp ứng yêu cầu điều trị
các bệnh thông thường. Tên thuốc trong danh mục đơn giản là tên gốc, dễ
nhớ, dễ biết, dễ lựa chọn, dễ sử dụng, dễ bảo quản, giá cả dễ chấp nhận, thuận
tiện cho việc thông tin, việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ và dễ quản lý.
Cũng theo tổ chức thế giới chỉ cần 1USD thuốc thiết yếu có thể đảm
bảo chữa khỏi 80% chứng bệnh thông thường của mỗi người dân tại cộng
đồng để thực hiện chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Như vậy, việc cung ứng thuốc
thiết yếu với giá cả hợp lý, chất lượng đảm bảo là một yêu cầu cấp thiết và là
một trong những nội dung của chính sách quốc gia về thuốc. Hiện nay trên thế
giới có hơn 150 nước đã áp dụng và có DMTTY (chủ yếu các nước đang phát
triển). Số lượng tên thuốc trong DMT của mỗi nước trung bình khoảng 300
thuốc.
Lập DMTBV phải trải qua qúa trình nghiên cứu, phân tích, dự đoán nhu
cầu, điều kiện cung ứng thuận lợi, có hiệu quả điều trị cao nhất, ít tác hại nhất,
ưu tiên thuốc nội cùng loại, hoặc thuốc của những hãng đã được chứng minh
trên hiệu quả lâm sàng. Mặt khác DMTBV phải phù hợp với khả năng tài
chính của bệnh viện, phù hợp với điều kiện, trình độ kê đơn và sau cùng là giá
thành điều trị thấp hoặc chấp nhận được. Thông tư 08/BYT-TT ngày 4/7/1997
đã chỉ rõ thuốc được chọn lập thành danh mục sắp xếp theo vần chữ cái và sắp
xếp theo nhóm tác dụng dược lý để thầy thuốc kê đơn lựa chọn thuốc thuận
tiện, dễ dàng. DMTBV là danh mục đặc thù cho mỗi bệnh viện. Danh mục này
được xem xét, cập nhật điều chỉnh từng thời kỳ theo yêu cầu điều trị. Việc bổ
xung hoặc loại bỏ thuốc ra khỏi danh mục cần phải được cân nhắc thận trọng.
Các thành viên trong hội đồng thuốc và điều trị cần thảo luận, lựa chọn với
thái độ khoa học, thận trọng sau khi đã được cung cấp đầy đủ thông tin về
15
thuốc. Danh mục thuốc phản ánh sự thay đổi trong thực hành sử dụng thuốc
để điều trị nhằm đạt tính hiệu qủa, an toàn, kinh tế. Muốn vậy trước hết cần
nhận thức đúng và sau đó đánh giá sâu sắc vấn đề chưa hợp lý, chưa an toàn
và không kinh tế đang ngự trị trong sử dụng thuốc điều trị hiện tại nói riêng và
cung ứng thuỗc nói chung.
Lựa chọn thuốc không chỉ có tên thuốc, hàm lượng theo tên gốc mà còn
phải sơ bộ nghiên cứu số lượng từng mặt hàng, chủng loại, nguồn gốc, và tổng
hợp giá trị tiền thuốc cho cả năm dựa trên số lượng bệnh nhân và bệnh tật phải
thu dung hàng năm phải phù hợp với kinh phí.
2.2.2. Mua thuốc
2.2.2.1. Tiến hành mua thuốc
Ngay từ năm 1997, chỉ thị số 03/BYT-CT ngày 25/02/1997 của Bộ Y
tế về việc chấn chỉnh công tác cung ứng, quản lý và dùng thuốc tại bệnh viện
đã ghi rõ việc mua bán thuốc phải thực hiện qua thể thức đấu thầu, chọn thầu,
chỉ định thầu công khai theo qui định của nhà nước [20]
Nhằm tăng cường quản lí, sử dụng kinh phí của các cơ sở y tế công
lập trong việc mua thuốc, hoá chất, dịch truyền, sinh phẩm, vật tư tiêu hao,
phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh và phòng bệnh có hiệu quả. Ngày 27/7/2005
Bộ Y Tế và Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 20/2005 TTLTBYT-BTC Hướng dẫn thực hiện đấu thầu cung ứng thuốc trong các cơ sở
y tế công lập tuy nhiên sau một thời gian triển khai thực hiện tại các cơ sở y
tế phát sinh một số vướng mắc do đó Bộ Y tế, Bộ Tài chính ngày 10 tháng 08
năm 2007 đã ban hành thông tư liên tịch số: 10/2007/TTLT-BYT-BTC
Hướng dẫn đấu thầu mua thuốc trong các cơ sở y tế công lập thay thế thông
tư 20/2005 TTLT-BYT-BTC. Một số điểm sửa đổi của thông tư liên tịch số
10/2007/TTLT-BYT-BTC so với số 20/2005 TTLT-BYT-BTC được trình bày
tại bảng 1.3.
16
Bảng 1.3. Một số điểm sửa đổi thông tư số 10/2007/TTLT-BYT-BTC so với
thông tư số 20/2005 TTLT-BYT-BTC
Nội dung
Đối tượng
áp dụng
Đối tượng
không áp
dụng
Thời gian
phê duyệt kế
hoạch đấu
thầu
Phê duyệt
Hồ sơ mời
thầu
Đánh giá hồ
sơ dự thầu
Phê duyệt
kết quả đấu
thầu
Thông tư liên tịch
số 20/2005/TTLTsố 10/2007 TTLT-BYT-BTC
BYT-BTC
Các cơ sở y tế công Các cơ sở y tế công lập có sử dụng
lập có sử dụng nguồn nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước
kinh phí từ ngân sách và các nguồn hợp pháp khác theo qui
nhà nước và các nguồn định để mua thuốc, hoá chất, dịch
thu hợp pháp khác (gọi truyền, vật tư tiêu hao (gọi chung là
tắt là nguồn ngân thuốc) phục vụ nhu cầu khám chữa
sách) để mua thuốc.
bệnh và phòng bệnh với tổng kinh phí
trong năm từ 200 triệu đồng trở lên
với các cơ sở y tế công lập trung ương;
từ 50 triệu với các cơ sở tuyến quận,
huyện, thị xã đều phải tổ chức đấu
thầu (rộng rãi, hạn chế hoặc chào hàng
cạnh tranh)
Đối với các cơ sở y tế công lập có
tổng nguồn ngân sách mua thuốc
trong năm dưới mức qui định trên, thủ
trưởng đơn vị quyết định hình thức
mua sắm cho phù hợp, có hiệu quả
Thuốc do nhà nước đặt Thuốc, hoá chất, vắc xin, sinh phẩm
hàng, máu và các chế do nhà nước đặt hàng, máu, các chế
phẩm từ máu
phẩm thay thế máu
Thuốc đông, nam dược (trừ thành
phẩm)
Tối đa 7 ngày làm việc Không quá 10 ngày
Thực hiện theo qui chế Thủ trưởng các cơ sở y tế công lập
đấu thầu của chính
phủ
Đánh giá hồ sơ dự thầu theo từng mặt
hàng trong một gói thầu.
Bộ trưởng, thủ trưởng Thủ trưởng các cơ sở y tế công lập
CQ ngang bộ, cơ quan
thuộc
chính
phủ,
UBND tỉnh, thành phố
17
Kế hoạch
6 tháng hoặc
đấu thầu
năm/lần
Phát sinh
Dưới 10 triệu
thủ trưởng
đơn vị được
quyền quyết
định mua
1 Tối thiểu 1 năm/lần
Dưới 100 triệu
Một số nội dung thông tư số 10/2007/TTLT-BYT-BTC không thay đổi
nhiều so với thông tư số 20/2005 TTLT-BYT-BTC trong đó có các yêu cầu về
chất lượng thuốc, cam kết của nhà thầu về đảm bảo cung ứng đầy đủ, về giá
cả.
2.2.2.2. Nhận thuốc và kiểm nhận
Sau khi có kết qủa đấu thầu, bệnh viện sẽ ký kết các hợp đồng nguyên
tắc và thực hiện mua thuốc dựa trên hợp đồng đã ký, trong đó qui định rõ các
điều khoản về nội dung công việc, chất lượng hàng hoá, điều kiện bảo quản,
quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên. Hiện nay, các công ty cung ứng thuốc
thường giao hàng đến tận kho thuốc của khoa dược bệnh viện. Khi tiến hành
nhận thuốc phải đối chiếu hoá đơn, phiếu báo lô với thực tế về tên thuốc, số
lượng, hàm lượng, qui cách đóng gói, nơi sản xuất, số kiểm soát, hạn dùng.
Thuốc phải được bảo quản ở điều kiện theo đúng yêu cần kỹ thuật cả trong lúc
vận chuyển. Phải có biên bản, sổ sách kiểm nhập theo đúng qui chế.
2.2.2.3. Thanh toán
Thanh toán tiền mua thuốc theo đúng số lượng đã mua và đúng giá đã
trúng thầu. Phương thức thanh toán bằng tiền mặt, séc, chuyển khoản. Hiện
nay do kinh phí hạn hẹp có nhiều bệnh viện phải nợ tiền thuốc của các công ty
từ 3 đến 6 tháng.
2.2.2.4. Tồn trữ, bảo quản thuốc
Tồn trữ bảo quản: Tồn trữ bao gồm cả quá trình xuất, nhập kho hợp lý,
quá trình kiểm kê, dự trữ và các biện pháp kỹ thuật và bảo quản hàng hoá.
Công tác tồn trữ thuốc là một trong những khâu quan trọng của việc bảo đảm
18
cung cấp thuốc đến tận tay người bệnh với chất lượng tốt. Các thuốc khi được
nhập vào kho cần phải tuân theo điều kiện bảo quản của nhà sản xuất, nếu
không có yêu cầu đặc biệt thì áp dụng điều kiện bảo quản thông thường (15200C), các thuốc độc nghiện, hướng tâm thần bảo quản theo qui định [22].
P
P
Kho thuốc cần xây dựng các quy trình quản lý và kiểm soát việc kiểm
kê thuốc và các mức độ lưu trữ thuốc an toàn tối thiểu và tối đa. Bảo quản
thuốc tốt không những là việc cất giữ an toàn các thuốc mà bao gồm cả việc
đưa vào duy trì đầy đủ các hệ thống hồ sơ tài liệu phù hợp, kể cả giấy biên
nhận và phiếu xuất, hệ thống sổ sách, quy trình thao tác đặc biệt cho công tác
bảo quản và kiểm soát theo dõi xuất, nhập và chất lượng thuốc.
Đảm bảo chất lượng thuốc: Bao gồm cả hai hoạt động kỹ thuật và quản lý.
Hoạt động kỹ thuật là việc đánh giá các tài liệu về sản phẩm thuốc, kiểm tra
chất lượng trong phòng kiểm nghiệm, giám sát chất lượng thuốc trong quá
trình cung ứng.
Cấp phát thuốc từ khoa dược đến khoa lâm sàng được xây dựng căn cứ vào
tình hình cụ thể về nhân lực của từng bệnh viện nhưng đảm bảo nguyên tắc
phục vụ thuốc kịp thời, thuận tiện nhất cho điều trị. Bệnh viện nên tổ chức cấp
phát thuốc nội trú và ngoại trú riêng.
Trong quá trình cấp phát thuốc phát thực hiện các công việc sau:
Cung cấp các thông tin về thuốc cho bác sĩ và y tá.
Theo quy định mới của Bộ Y Tế dược sĩ cấp phát phải đưa thuốc đến
tận khoa phòng điều trị.
Khi xuất thuốc khỏi kho và giao nhận thuốc cho khoa phòng đều phải
thực hiện kiểm tra, đối chiếu.
2.2.3. Cấp phát thuốc
Trong bệnh viện việc cấp phát thuốc do khoa dược và điều dưỡng của các
khoa lâm sàng đảm nhiệm. Để tránh sảy ra sai sót trong khâu cấp phát trước
19
khi cấp phát thuốc người cấp phát thuốc phải thực hiện : Ba kiểm tra, ba đối
chiếu [13].
Ba kiểm tra đó là:
- Thể thức phiếu xuất kho, đơn thuốc, liều dùng, cách dùng
- Bao bì, nhãn thuốc
- Chất lượng thuốc
Ba đối chiếu đó là;
- Tên thuốc ở đơn
- Nồng độ, hàm lượng thuốc ở đơn, phiếu với số thuốc sẽ giao.
- Số lượng, số khoản thuốc sẽ giao
Thực hiện sử dụng thuốc theo y lệnh
Theo mô hình tổ chức của ngành y tế nước ta hiện nay việc thực hiện sử
dụng thuốc theo y lệnh là nhiệm vụ của các điều dưỡng viên, bệnh nhân và
người nhà bệnh nhân. Trong đó, các điều dưỡng viên giữ vai trò quan
trọngĐiều dưỡng viên trước khi cho người bệnh dùng thuốc phải thực hiện:
Ba kiểm tra, năm đối chiếu [13].
Ba kiểm tra:
- Họ tên người bệnh, giường bệnh
- Tên thuốc
- Liều lượng dùng
Năm đối chiếu:
- Người bệnh, số giường
- Nhãn thuốc
- Đường dùng thuốc
- Chất lượng thuốc
- Thời gian, thời điểm dùng thuốc
Đối với người bệnh và người nhà bệnh nhân cũng cần phổ biến cho họ tầm
quan trọng và lợi ích của việc thực hiện 3 kiểm tra, 5 đối chiếu.
20
2.2.4. Giám sát sử dụng thuốc
Giám sát thực hiện danh mục thuốc:
Giám sát thực hiện DMT là giám sát việc tuân thủ theo DMTBV. Chỉ
thị 05/2004/CT-BYT về việc chấn chỉnh công tác cung ứng, sử dụng thuốc
trong bệnh viện đã yêu cầu: Đảm bảo đủ thuốc chữa bệnh theo Danh mục
thuốc chủ yếu sử dụng tại các cơ sở khám chữa bệnh, không để người bệnh
nội trú phải tự mua thuốc trong Danh mục thuốc chủ yếu [37].
Để đảm bảo đủ thuốc chữa bệnh theo DMTBV, HĐT&ĐT bệnh viện
phải duy trì DMTBV bằng cách thường xuyên rà soát DMTBV vì ngày càng
có nhiều thuốc mới và phác đồ điều trị mới. Nếu không rà soát kỹ thì danh
mục sẽ trở thành bộ sưu tập thuốc cũ và kém hiệu quả [22].
Chẩn đoán đúng
Chẩn đoán đúng là tất yếu khách quan của việc kê đơn đúng, ngày nay
khoa học và công nghệ y học tạo điều kiện tốt cho chuẩn đoántuy nhiên
cũng cần chú ý tránh lạm dụng công nghệ cao trong chẩn đoán lâm sàng và
cận lâm sàng
Kê đơn, chỉ định dùng thuốc
Kê đơn và chỉ định dùng thuốc do bác sĩ thực hiện, các nguyên nhân sai sót
ở khâu kê đơn, chỉ định dùng thuốc rất đa dạng, phức tạp có thể do trình độ
chẩn đoán bệnh, hiểu biết về thuốc, do ý thức trách nhiệm - y đức do bản chất
thị trường chi phối, do sức ép xã hội nên muốn quản lý việc kê đơn, chỉ định
dùng thuốc an toàn, hợp lí, hiệu quả, tiết kiệm cần yêu cầu bác sĩ thực hiện
đúng các qui định của bệnh viện và của nhà nước:
- Kê đơn trong danh mục đã được bệnh viện xây dựng
- Qui chế kê đơn
- Qui trình kê đơn và sử dụng thuốc của bệnh viện
- Thực hiện phác đồ điều trị
21
- Luôn luôn đúc rút kinh nghiệm với nhiều biện pháp như: việc bình đơn
thuốc sinh hoạt về thông tin thuốc, các tiến bộ về thuốc định kỳ trong bệnh
viện là không thể thiếu được. Nhằm đảm bảo kê đơn chỉ định dùng thuốc:
- Đúng thuốc, Đúng người bệnh, Đúng bệnh, Đúng liều, Đúng lúc Đúng
cách, Đúng dạng
1.3. Thực trạng cung ứng thuốc của các bệnh viện Việt
Nam hiện nay.
Việc cung ứng thuốc cho các bệnh viện của các doanh nghiệp tỉnh, thành
phố được thực hiện tốt, thuốc thực hiện nhu cầu điều trị. Mạng lưới tham gia
cung ứng thuốc đa dạng về thành phần: doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ
phần, doanh nghiệp tư nhân, đại lý bán lẻ, nhà thuốc tư nhân. Nguồn cung ứng
thuốc phong phú bao gồm nhiều chủng loại và dạng bào chế đã đáp ứng được
nhu cầu điều trị và tiền thuốc sử dụng bình quân đầu người đạt 11,2 USD năm
2006[4]. Việc cung ứng được đảm bảo đầy đủ về chủng loại và số lượng thông
qua đấu thầu. HĐT&ĐT đã phát huy vai trò trong cung ứng và đảm bảo chất
lượng thuốc, hướng dẫn sử dụng thuốc hợp lý, an toàn. 89% bệnh viện đã tổ
chức HĐT&ĐT, 96% bệnh viện theo dõi phản ứng có hại của thuốc (ADR),
85% các bệnh viện tiến hành hoạt động thông tin thuốc [4]. Nhiều bệnh viện
thực hiện đấu thầu mua thuốc đã hạ được giá thành góp phần tiết kiệm kinh
phí cho bệnh viện. Song việc đấu thầu chưa thống nhất, một số bệnh viện chỉ
thực hiện đấu thầu từ 1- 3 tháng do thiếu kinh phí. Các bệnh viện có xu hướng
dùng thuốc ngoại, đắt tiền trong khi các thuốc hiện đang sử dụng vẫn còn giá
trị chữa bệnh. Theo một đề tài khảo sát tại bệnh việnh phụ sản trung ương,
thuốc ngoại chiếm tới 70%, thuốc sản xuất trong nước chiếm 44% về giá trị
tiêu dùng thuốc năm 2004. Tỉ lệ này chung cho thuốc tân dược và đông dược,
nếu tính riêng thuốc tân dược thì thị phần này còn thấp hơn nhiều. Thuốc sản
xuất trong nước chủ yếu mới chỉ đáp ứng được điều trị bệnh thông thường với
dạng bào chế đơn giản (trên 90%). Sử dụng kháng sinh tràn lan, lạm dụng