LỤC THƯ VÀ BỘ THỦ CHỮ HÁN
•
Tổng quan về Lục thư
- Lục thư là sáu phương pháp cấu tạo chữ Hán. Đây là một hệ thống lý
luận và phương pháp phân tích sự hình thành, phương thức cấu tạo và
cách sử dụng văn tự Hán. Lục thư không phải là những nguyên tắc do
người đời xưa đặt ra trước khi tạo chữ, mà do người đời sau căn cứ vào
kết cấu của chữ rồi quy nạp thành lý luận. Nó xuất hiện khi chữ Hán đã
-
phát triển đến một mức độ nào đó.
Thời cổ “lục thư” là một trong sáu môn học bắt buộc của quý tộc (lục
nghệ). Vào thời Chiến quốc, từ “lục thư” xuất hiện đầu tiên trong phần
Bảo thị - Địa quan của sách Chu lễ, nhưng sách này không giải thích “lục
-
thư” là gì.
Đến cuối thời Tây Hán (206 TCN - 8), “lục thư” được bàn đến nhiều hơn
-
và cụ thể hơn.
Sang thời Đông Hán, hệ thống lý luận về “lục thư” đã khá hoàn chỉnh.
Nổi tiếng nhất là bộ Thuyết văn giải tự (phân tích, trình bày về văn tự)
của Hứa Thận. Đây là bộ Tự điển sớm nhất của Trung Quốc. Sách này
gồm 30 quyển, trình bày và giải thích 9353 chữ Hán. Trong đó, Hứa Thận
đưa ra sáu nguyên tắc cấu tạo chữ Hán là: Chỉ sự, Tượng hình, Hình
thanh, Hội ý, Chuyển chú, Giả tá. Với Thuyết văn giải tự, lần đầu tiên
chữ Hán được nghiên cứu một cách có hệ thống, trên cơ sở lý luận về
-
“lục thư”, về cả ba mặt hình thể - âm đọc – ý nghĩa.
Phần Nghệ văn chí trong sách Hán thư của Ban Cố đã liệt kê danh mục
của “lục thư” gồm: Tượng hình, Tượng sự, Tượng ý, Tượng Thanh,
-
Chuyển chú và Giả tá.
Ngày nay, ta theo cách gọi của Hứa Thận và sắp xếp theo thứ tự của Ban
Cố: Tượng hình, Chỉ sự, Hội ý, Hình thanh, Giả tá, Chuyển chú.
-
Cần lưu ý rằng: Tượng hình, Chỉ sự, Hội ý, Hình thanh, Giả tá,
Chuyển chú là tên gọi những phương pháp tạo chữ Hán, nhưng đồng
thời cũng là tên gọi những chữ được tạo ra theo phương pháp đó.
1.
Tượng hình
- Tượng hình là phương pháp vẽ hình những vật có thực để tạo ra chữ viết.
(lấy ví dụ các chữ 人人人人人人人人人人人人人人人人人人人人人人人, 人人人人
- Tượng hình là phương pháp tạo chữ sớm nhất của chữ Hán. Nó là cơ sở
-
tạo thành hệ thống văn tự Hán phức tạp và đồ sộ.
Trong kho văn tự Hán, những chữ thuộc loại Tượng hình không nhiều,
nhưng chúng đóng một vai trò đặt biệt quan trọng:
+ Một mặt, chúng ghi lại những từ thuộc vốn từ cơ bản của Hán ngữ cổ
đại.
+ Một mặt, chúng là cơ sở để tạo ra những chữ thuộc các loại khác (gồm
cả Chỉ sự, Hội ý, Hình thanh, Chuyển chú, Giả tá). Do đó, nếu nắm bắt
một cách chính xác cả ba mặt Hình – Âm – Nghĩa của những chữ Tượng
hình chính, ta sẽ có một cơ sở thuận lợi để đi vào tìm hiểu các loại chữ
-
khác.
Tuy nhiên, những chữ Tượng hình mà ta thấy trong kho văn tự Hán ngày
nay là những chữ “tượng hình mà không tượng hình”. Điều này dường
như có vẻ vô lý, nhưng kỳ thực rất dễ hiểu. Vì chữ Hán ngày nay, xét về
mặt hình thể đã trải qua nhiều lần biến đổi. Từ chỗ vẽ hình tiến tới vạch
thành đường, rồi tiến tới viết thành nét. Cuối cùng chữ Hán được cố định
bởi những ô vuông do tám nét tạo thành. Trong quá trình biến đổi đó, đã
-
tước bỏ hết dấu vết tượng hình trong chữ Hán.
Phép Tượng hình mang nhiều hạn chế. Các sự vật phức tạp, hay các khái
niệm trừu tượng khó thể dùng phép Tượng hình để mô tả được. Do đó,
2.
cần phải có các phương pháp tạo chữ khác.
Chỉ sự
- “Chỉ sự” tức là chỉ ra sự vật, sự việc. Đây là phương pháp tạo chữ Hán bổ
sung cho chữ Tượng hình, để ghi lại những từ biểu thị sự vật, hiện tượng,
động tác… không vẽ ra được hoặc nếu vẽ ra được thì kém phần chính
-
xác, dễ gây hiểu lầm, hoặc quá rườm rà phức tạp.
Lấy ví dụ chữ 人 - 人 人 人 – 人人 人 – 人人 人人人人
Chữ Chỉ sự có hai loại:
+ Loại đơn: Chỉ có một đơn vị hình thể, hoặc một ký hiệu. Mang tính
chất ký hiệu đơn, chỉ khái niệm, con số. Vd: 人
+ Loại ghép: Gồm hai đơn vị hình thể. Ký hiệu ghép với ký hiệu 人人人 人人
-
人人人人; ký hiệu ghép với chữ Tượng hình (人人人人人人人)
Mặc dù có ưu điểm là khá linh hoạt trong cách tạo chữ để ghi nội dung ý
nghĩa của từ. Nhưng phép “chỉ sự” vẫn gặp phải những bế tắc mà phép
“tượng hình” đã gặp. Rất nhiều sự vật, hiện tượng, không thể dùng phép
“chỉ sự” để chỉ ra được, hoặc dễ gây hiểu lầm, Vì vậy trong kho văn tự
Hán, chữ “chỉ sự” chỉ chiếm một lượng rất nhỏ. Trong số 9353 chữ Hán
đưa ra giải thích trong Thuyết văn giải tự, chỉ có 125 chữ Chỉ sự.
Những chữ cấu tạo theo phép Tượng hình, Chỉ sự là những chữ có
hình thể đơn, nên được gọi là những chữ độc thể - Văn.
Hội ý
Theo đà phát triển của cuộc sống xã hội, càng ngày càng xuất hiện thêm
3.
-
nhiều từ mới, với ý nghĩa phong phú và phức tạp. Các phương pháp
-
Tượng hình và Chỉ sự đều bất lực trong việc tạo ra chữ mới.
Hội ý là phương pháp tạo ra chữ Hán. Chữ Hán được cấu tạo theo phép
Hội ý là chữ hợp thể (tự), được cấu tạo bởi hai hay nhiều chữ đơn (văn,
Tượng hình hoặc Chỉ sự), tạo thành một chữ mới, có âm đọc và ý nghĩa
-
mới.
Các phương thức cấu tạo chữ Hội ý:
+ Kết hợp hai hay nhiều chữ giống nhau, thường biểu thị sự tăng tiến về
mặt ý nghĩa.
Ví dụ: 人人人人人人人人人人人人人人人人人
+ Kết hợp hai hay nhiều chữ khác nhau biểu thị mối liên quan tương tác.
Ví dụ: 人人人人人人人
-
+ Kết hợp hai hay nhiều chữ khác nhau, ngụ ý giải thích.
Ví dụ: 人人人人人人人人人人
Nhận xét:
Chữ Hội ý là giai đoạn phát triển tột cùng của chữ tượng hình biểu ý
trong văn tự Hán. Trong số 9353 chữ được đưa ra giải thích trong Thuyết
văn giải tự, có 1254 chữ Hội ý. Con số này nói lên vai trò quan trọng của
chữ Hội ý trong loại hình văn tự Tượng hình – biểu ý. Nó đã vượt qua
nhiều khó khăn bế tắc khi tạo ra chữ Hán của hai phép Tượng hình và
Chỉ sự, để ghi lại nội dung của từ mà hai phương pháp trên không thực
-
hiện được.
Hạn chế:
+ Về nguyên tắc cấu tạo, chữ Hội ý vẫn lấy việc ghi lại nội dung ý nghĩa
của từ làm cơ sở. Nó vẫn phải lấy chữ Tượng hình hoặc Chỉ sự làm chất
liệu. Nên về bản chất, nó không khác gì hai loại chữ Tượng hình, Chỉ sự.
Do vậy, những hạn chế của hai phương pháp này vẫn tồn tại y nguyên
trong loại chữ Hội ý.
+ Mặt khác, ý nghĩa nội hàm của từ thay đổi theo sự phát triển của đời
sống xã hội và ngôn ngữ. Còn ý nghĩa của từ được thể hiện trong chữ Hội
ý thì một khi đã định hình thì không thay đổi được nữa.
Ba phép Tượng hình, Chỉ sự, Hội ý là phép tạo chữ thuần biểu ý.
4.
Hình thanh
- Hình thanh là phương pháp tạo chữ Hán mà trong đó kết hợp hai bộ phận
Hình phù (chỉ ý) và Thanh phù (chỉ âm) tạo thành chữ mới. Phần hình
phù biểu thị ý nghĩa của chữ. Phần thanh phù cho biết âm đọc giống,
hoặc gần giống của chữ. Đây là loại chữ kết hợp cà hai xu hướng biểu âm
và biểu ý trong kho văn tự Hán.
Ví dụ: 人人人人人人人人人人人 ; 人人人人人人人人人; 人 (chốc lát; nghiêng lệch, nước
Nga) 人 人 (con ngài; mày ngài) 人 人 (ngâm ngợi) 人 人 (đẹp) 人 人 (cao) 人 人
(ngỗng), 人人
-
Phần hình phù thường là chữ đơn, gốc Tượng hình. Phần thanh phù là
chữ đơn hoặc chữ ghép, gốc là Chỉ sự, Hội ý hoặc đôi khi là Hình thanh.
-
Nó được được giới hạn trong khoảng một nghìn đơn vị.
Vị trí của hai bộ phận hình và thanh trong chữ Hình thanh tương đối ổn
định. Có 6 kiểu sắp xếp như sau:
+) Hình trái thanh phải: 人人人人人人人人人人人人人人人
+) Hình phải thanh trái: 人人人人人人人
+) Hình trên thanh dưới: 人人人人人人人人人人人
+) Hình dưới thanh trên: 人人人人人人人人人人人
+) Hình ngoài thanh trong: 人人人人人人人 ( 人 viên: họ Viên) 人人 (人 viên:
-
người)
+) Hình trong thanh ngoài: 人人人人人
Đặc điểm:
+ Trong văn tự hình thanh, yếu tố Thanh phù biểu thị âm đọc khá quan
trọng, nhưng cũng chỉ ra được âm đọc tương đối của chữ. Còn yếu tố
Hình phù biểu thị ý nghĩa chỉ có thể chỉ ra ý nghĩa khái quát nhất của từ.
Và nó chỉ nêu được mặt tĩnh tại, phiến diện của tự nghĩa. Một khi tự
nghĩa thay đổi theo thời gian và tập quán sử dụng, thì khó thể đoán được
ý nghĩa của chữ đó. Như chữ “kiêu” (ngựa chưa thuần chủng) – kiêu
căng, kiêu hãnh.
+ Phép Hình thanh là một biện pháp chủ yếu trong việc tạo chữ mới cho
kho văn tự Hán. Trong số 9353 chữ được đưa ra giải thích trong Thuyết
văn giải tự, có 7697 chữ là hình thanh. Và hiện nay, chữ Hình thanh
chiếm khoảng 90% tổng số chữ Hán (khoảng 6 vạn chữ).
5. Giả tá
“Giả tá” nghĩa là vay mượn. Khi nhận thức của con người đối với thế
giới khách quan ngày một phong phú, số từ vựng cũng ngày một dồi dào
thêm. Nếu mỗi từ đều phải tạo ra một ký hiệu để ghi chép thì số ký hiệu sẽ trở
nên quá nhiều, khổng thể tạo hết và có khi không tạo được. Vì vậy, khi có một
sự vật mới xuất hiện mà không có ngay chữ để biểu thị, nếu không bắt buộc
phải tạo ra chữ mới, thì chỉ cần mượn dùng một chữ có sẵn cùng âm với tên
gọi của sự vật mới. Đó là phép giả tá. Phương pháp này thực hiện trên nguyên
tắc đồng âm.
Ví dụ: 人人人人人人人人人人人人人
- Giả tá là phép dùng chữ chứ không phải phép tạo chữ. Đây là nguyên
-
6.
nhân chính tạo nên sự đa nghĩa của chữ Hán.
Đến phép Giả tá, chữ Hán bước vào giai đoạn thứ 3 trong quá trình phát
triển: Đồ hình – Biểu ý – Biểu âm.
- Văn bản càng cổ thì chữ Giả tá càng nhiều.
Chuyển chú
“Chuyển chú” nghĩa là chú giải lẫn cho nhau. Bên cạnh hiện tượng
“cùng âm khác nghĩa”, trong Hán ngữ cổ còn có hiện tượng “cùng nghĩa
khác âm”. Hiện tượng này được phản ánh trên mặt văn tự bằng những
cặp chữ có liên quan với nhau về mặt ý nghĩa, nhưng khác nhau về âm
-
đọc và hình thể. Những cặp chữ như vậy gọi là “chuyển chú”.
Trong Lục thư, loại này ít phát huy tác dụng nhất. Đây là một cách làm
-
trong từ điển, dùng để giải thích những cặp chữ đồng nghĩa.
Ví dụ: 人-人; 人-人; 人-人; 人-人人
-
BỘ THỦ CHỮ HÁN
Dựa vào kết cấu và mối quan hệ khăng khít giữa 3 mặt hình thể - âm đọc
– ý nghĩa, trong Thuyết văn giải tự, Hứa Thận đã mang 9353 chữ quy
thành 540 đơn vị, gọi là “Bộ”. Những chữ trong một bộ có liên quan với
nhau về một mặt nào đó. Đứng đầu mỗi bộ, ông nêu ra một chữ tiêu biểu,
gọi la “bộ thủ”. Bộ thủ phần lớn là những chữ dơn, tượng hình và là bộ
-
phận chỉ ý trong chữ Hình thanh.
Đến đời Minh, trong bộ Tự vựng, Mai Ưng Tộ đã phân chia, sắp xếp lại
540 chữ Hán của Hứa Thận, còn lại 214 bộ. 214 bộ này đã được sử dụng
chính thức trong bộ Khang Hy tự điển, là bộ sách quan phương của nhà
nước, được biên soạn theo chỉ dụ của vua Khang Hy nhà Thanh, tập hợp
200 Nho thần biên soạn. Đó là bộ sách có lượng chữ Hán lớn nhất bấy
giờ (37.035 chữ).
-
Từ đó đến nay, đa phần ác Tự điển, Từ điển đều phân chữ theo 214 bộ
của Mai Ưng Tộ.