PD University Các điều kiện ứng dụng TMĐT vào HĐKD của Doanh Nghiệp
tại Việt Nam.
Mục lục.
A. Phần: Mở đầu..................................................
I. Dẫn nhập ...................................................................................
II. Nội dung đề tài .........................................................................
B. Phần: Nội dung ...............................................
I. Viêc ứng dụng TMĐT vào HĐKD của DN .............................
1. Trên TG .................................................................................
2. Tại Việt Nam ........................................................................
II. Các ĐK ứng dụng TMĐT vào HĐKD của DN tại VN .........
1. Hạ tầng cơ sở Kinh tế & Pháp lý ........................................
2. Hạ tầng về cơ sở công nghệ (ADSL) ...................................
3. Hạ tầng về cơ sở nhân lực ....................................................
4. Hạ tầng về thanh toán tự động ............................................
5. Bảo mật, an toàn ...................................................................
6. Bảo vệ sở hữu trí tuệ ............................................................
7. Bảo vệ người tiêu dùng ........................................................
III. Cải thiện cơ sở hạ tầng & nâng cao khả năng ứng dụng
TMĐT vào HĐKD của DN tại VN .......................................
C. Phần: Kết luận.................................................
D. Tài liệu tham khảo .........................................
1 QTDN-507401029.
PD University Các điều kiện ứng dụng TMĐT vào HĐKD của Doanh Nghiệp
tại Việt Nam.
A. Phần: Mở đầu
I. Dẫn nhập
E-commerce (Electronic commerce - thương mại điện tử) là hình thái hoạt
động thương mại bằng phương pháp điện tử; là việc trao đổi thông tin thương
mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử mà nói chung là không cần
phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch. (nên còn
được gọi là “thương mại không giấy tờ”) và nó đem lại rất nhiều lợi ích khi
được sử dụng:
• TMĐT giúp cho các Doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về thị trường và đối
tác
• TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất
• TMĐT giúp giảm chi phí bán hàng và tiếp thị.
• TMĐT qua INTERNET giúp người tiêu dùng và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời
gian và chí phí giao dịch.
• TMĐT tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành phần
tham gia vào quá trình thương mại.
• Tạo điều kiện sớm tiếp cận nền kinh tế số hoá.
• Cho đến hiện nay, việc áp dụng Thương mại Điện tử là giải pháp tối ưu trong việc cạnh
tranh bán hàng. Bạn không cần mất nhiều thời gian cho việc giới thiệu sản phẩm, dịch
vụ của bạn vì khách hàng có thể tìm hiểu trên website của bạn.
Bạn sẽ không cần phải mất thì giờ, chi phí cho việc vận chuyển, thuyết phục khách hàng.
Website tự động sẽ giúp bạn có một chính sách chăm sóc khách hàng chu đáo, đây là một trong
những yếu tố quan trọng trong việc giữ khách lâu dài. Công việc duy nhất mà bạn phải làm đóa
là xây dựng một website có tính tự động hóa cao. Một website đủ mạnh và hiệu quả sẽ giúp
bạn qua mặt các đối thủ cạnh tranh.
Một vài những lý do trên khiến cho những ông chủ đang đứng trong lĩnh vực kinh doanh
không thể làm ngơ mà không quan tâm đến việc áp dụng thương mại điện tử vào công việc
kinh doanh của mình. Vậy câu hỏi đặt ra là: Hiện nay TMĐT đã đi đến đâu? Ở Việt Nam trong
những năm gần đây TMĐT đã được quan tâm đúng mức hay chưa? Các hoạt động TMĐT
được áp dụng đã đáp ứng ra sao với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tại Việt Nam,..?
Trong bài viết này chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu về đề tài: “Các điều kiện ứng dụng Thương
mại điện tử vào Hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp tại Việt nam.” Để cùng làm làm sáng
tỏ những câu hỏi còn bỏ ngỏ.
II. Nội dung đề tài
“Các điều kiện ứng dụng Thương mại điện tử vào Hoạt động kinh doanh của
Doanh nghiệp tại Việt nam.”:
I. Viêc ứng dụng TMĐT vào HĐKD của DN
1. Trên TG
2. Tại Việt Nam
2 QTDN-507401029.
PD University Các điều kiện ứng dụng TMĐT vào HĐKD của Doanh Nghiệp
tại Việt Nam.
II. Các ĐK ứng dụng TMĐT vào HĐKD của DN tại VN
1. Hạ tầng cơ sở Kinh tế & Pháp lý
2. Hạ tầng về cơ sở công nghệ (ADSL)
3. Hạ tầng về cơ sở nhân lực
4. Hạ tầng về thanh toán tự động
5. Bảo mật, an toàn
6. Bảo vệ sở hữu trí tuệ
7. Bảo vệ người tiêu dùng
III. Cải thiện cơ sở hạ tầng & nâng cao khả năng ứng dụng
TMĐT vào HĐKD của DN tại VN
Do hạn chế về mặt kiến thức và kinh nghiệm cho nên bài viết không thể
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong có sự góp ý của các bạn, và sự chỉ
bảo của các thầy cô giáo để bài viết được hoàn thiện hơn.
B. Phần: Nội dung
I. Viêc ứng dụng TMĐT vào HĐKD của DN
1. Trên TG
a) TMĐT tại đảo quốc sư tử
Cùng với Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc, Singapore đã gây được sự chú ý đặc biệt của thế
giới về sự phát triển kinh tế của quốc đảo này từ những năm 89 - 90. Cho đến nay, Singapore
đã trở thành một trong những quốc gia đứng đầu thế giới về phát triển CNTT - TT, đặc biệt là
thương mại điện tử (TMĐT). Chưa dừng lại ở đó, đảo quốc Sư Tử vẫn đang nỗ lực không mệt
mỏi để trở thành một trung tâm CNTT hàng đầu thế giới.
3 QTDN-507401029.
PD University Các điều kiện ứng dụng TMĐT vào HĐKD của Doanh Nghiệp
tại Việt Nam.
Không ngừng tin học hóa & chú trọng tới TMĐT
Công cuộc tin học hoá ở Singapore bắt đầu từ những năm 80 với khá nhiều dự án như: Dự án
Tin học hoá Quốc gia (tin học hóa tất cả các ngành công nghiệp, phát triển CNTT một cách
rộng rãi để giúp mọi người dân bước đầu làm quen với CNTT, xây dựng một cơ sở hạ tầng
mới) được thực hiện năm 1981; Dự án CNTT Quốc gia năm 1986...
Cũng từ cuối những năm 80, Singapore bắt đầu xây dựng mạng lưới truyền thông tốc độ cao
trên toàn quốc và cung cấp các dịch vụ ứng dụng máy tính. Năm 1996, Singapore đã đầu tư 82
triệu đô la Mỹ để xây dựng mạng lưới băng thông rộng quốc gia đầu tiên trên thế giới mang tên
Singapore One (mạng lưới của mọi người dân). Mạng lưới này đóng vai trò hết sức quan trọng
như một dây thần kinh xương sống của quốc đảo, cấu trúc bao gồm 7 tầng: mạng NII và tầng
trạm, cung cấp máy tính và quản lý, tầng dịch vụ cơ bản, tầng các dịch vụ công cộng, tầng các
dịch vụ ứng dụng, tầng quản lý hệ thống và an ninh, tầng giao diện con người và môi trường.
Singapore có những ưu điểm thuận lợi đặc biệt để phát triển TMĐT. Quốc gia này giữ vai
trò đặt biệt quan trọng về tài chính, thương mại và truyền thông ở châu Á - Thái Bình Dương
và trên thế giới. Các ngành công nghiệp phát triển truyền thống của Singapore bao gồm truyền
thông, thương mại, tài chính, hàng không, đóng tàu - đều là những "nền móng" tốt cho việc
phát triển TMĐT.
Trong lộ trình thúc đẩy phát triển TMĐT, ngay từ đầu, chính phủ Singapore đã thành lập
một ủy ban đặc biệt để hợp pháp hoá phương thức giao dịch điện tử, các công tác hợp tác và hỗ
trợ đầy đủ cho các doanh nghiệp với những khả năng sử dụng công nghệ mạng tốc độ cao.
Hàng loạt động thái tích cực đã được chính phủ thực thi.
Với những điều kiện thuận lợi như trên, TMĐT ở Singapore đã có những bước phát triển
vượt bậc. Cả 2 công ty của Mỹ là GE Plastics và Eastman Chemical Company đều bình chọn
Singapore là trung tâm TMĐT của Châu Á - Thái Bình Dương năm 2000. Singapore cũng đã
trở thành khách hàng của 3 đối tác Ariba, CommerceOne và FreeMarkets. Sự có mặt của những
đối tác này đã khuyến khích sự gia tăng các giao dịch B2B (doanh nghiệp với doanh nghiệp).
Hiện tại, gần 80% giao dịch TMĐT ở Singapore là B2B.
b) Mỹ - Nơi mà các doanh nghiệp đứng đầu thế giới về ứng dụng TMĐT trong kinh
doanh
Theo Bộ Thương mại Mỹ, trong năm 2002 người dân chi 45,6 tỷ USD cho việc mua bán hàng
hoá và dịch vụ trên mạng. Riêng quý IV, tổng doanh thu thương mại điện tử tăng 29,3% so với
quý trước.
Trong 3 tháng cuối năm 2002, doanh thu thương mại điện tử bán lẻ là 14,33 tỷ USD, tăng
28,2% so với cùng kỳ năm trước.
Lượng truy cập các địa chỉ bán lẻ, môi giới, dịch vụ trực tuyến và website tình cảm tăng mạnh
trong dịp cuối năm vì ngày càng có nhiều người sử dụng máy tính để mua vé máy bay, vé xem
phim, quà tặng, hoa, bưu thiếp…
Kết quả trên dựa theo khảo sát khoảng 11.000 nhà bán lẻ trực tuyến.
* Bí quyết của Wal-Mart
Các nhà phân tích kinh tế vẫn thường nói rằng cho dù nền kinh tế Mỹ và thế giới có suy thoái
ra sao, thì những nhân viên của Wal-Mart -tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới - chưa bao giờ phải
lo lắng về việc mình có bị sa thải hay không do những tác động tiêu cực tới doanh thu và lợi
nhuận.
Đã từ lâu khi nhắc đến hệ thống cửa hàng bán lẻ ở Mỹ không thể không nhắc đến hai đại gia
trong lĩnh vực này đó là Kmart và Wal-mart. Năm 2001, Kmart với hệ thống hàng chục cửa
hàng bán lẻ đã tuyên bố phá sản, chỉ còn lại một mình "người khổng lồ" Wal-mart trụ
lại.Nhưng trải qua hàng chục năm, Wal-Mart luôn có tốc độ tăng trưởng đều đặn. Năm 2006,
doanh thu của Wal-Mart tăng 15% đạt gần 300 tỷ USD. Wal-Mart Stores Inc. luôn đứng đầu
4 QTDN-507401029.
PD University Các điều kiện ứng dụng TMĐT vào HĐKD của Doanh Nghiệp
tại Việt Nam.
trong bản “Danh sách 500 công ty lớn nhất thế giới” của tạp chí Fortune.
Khi công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, Thương Mại điện tử được ứng dụng rộng rãi
Wal-mart đã chủ động liên kết với các website và tân dụng hệ thống bán hàng trực tuyến phát
triển. Wal-Mart tăng cường hệ thống TMĐT bằng việc liên minh với AOL vào năm 2001 để
cũng cấp internet đến vùng ngoại ô và nông thông đặc biệt là những vùng chưa có cửa hàng của
Wal-Mart. Mục đích của Wal-Mart là thu hút những phân đoạn thị trường mới và giảm tác
động đối với các cửa hàng hiện tại. Wal-Mart cũng sử dụng mô hình bán lẻ thích hợp kết hợp
giữa TMĐT và TM truyền thống.(Mô hình Click-Mortal: Vừa kinh doanh online vừa kinh
doanh offfline)
Rất nhiều nhân viên chào hỏi tại Wal-Mart nhớ rõ tên những khách hàng thường xuyên.
Wal-Mart.com, một công ty con của Wal-Mart Stores Inc., đã tạo dựng được các mối quan hệ
trực tuyến bằng việc khuyến khích mọi người cung cấp cho công ty các địa chỉ email.
c) Các công ty ở Châu Âu và Bắc Mỹ sử dụng TMĐT
Dưới sự tài trợ của Enterprise General Directorate của liên minh châu Âu (EU),
một nghiên cứu về những kinh nghiệm điển hình và các yếu tố tạo thành công
cho một website đã được tiến hành và công bố kết quả vào tháng 10/1999. Được
bắt đầu vào đầu năm 1999, đợt nghiên cứu này tập hợp thông tin từ khoảng
200.000 website về thương mại. Khoảng 2.129 chủ nhân của các website đã
được yêu cầu điền vào bản các câu hỏi liên quan tới việc tổ chức website, chiến
lược sử dụng Internet, dự đoán và marketing qua Internet và các thông tin kinh
doanh khác. Một số kết quả thu được từ điều tra như sau:
* Các công ty của Châu Âu đã bắt đầu nhận ra tiềm năng của TMĐT và có một
số bước đi để thực hiện công nghệ TMĐT. Tuy nhiên, các công ty vừa và nhỏ bị
bỏ xa so với các công ty lớn.
* Website thương mại của Châu Âu có tính chất kinh doanh nhiều hơn (more
business driven) trong khi các website tại Bắc Mỹ tập trung vào người tiêu dùng
nhiều hơn.
* Các website theo hình thức kinh doanh giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp
(business to business) chiếm 61 % các Website kinh doanh tại EU (Liên minh
Châu Âu) trong khi đó ở Bắc Mỹ con số này là 43%.
* Các website theo hướng doanh nghiệp- người tiêu dùng (business to
consumer) chiếm 39% tổng số website của Liên minh Châu Âu (EU) và 57% tại
Bắc Mỹ. Về tỷ lệ, có nhiều website ở Bắc Mỹ trong số các websie được điều tra
chủ yếu hướng vào đối tượng và người tiêu dùng với phương thức bán hàng trên
mạng. Trong khi đó có một tỷ lệ website cao hơn của EU chủ yếu tập trung vào
đối tượng và các doanh nghiệp khác để tăng doanh số bán hàng.
* Các Website thường được tạo nên để các công ty giới thiệu về mình trên
Internet hoặc để làm rõ công ty đó so với các đối thủ cạnh tranh.
* Các website được xây dựng để với dự kiến phục vụ bốn mục đích và xúc tiến,
bán hàng, trao đổi trực tiếp với khách hàng (hầu hết các công ty nhằm vào mục
đích này) và trao đổi trong nội bộ công ty (chủ yếu các công ty lớn).
* Một số lớn các công ty trả lời cho biết nhiều mục đích đề ra ban đầu khi xây
dựng website đã không đạt được, trong đó việc phát triển kinh doanh kiểu mới,
5 QTDN-507401029.
PD University Các điều kiện ứng dụng TMĐT vào HĐKD của Doanh Nghiệp
tại Việt Nam.
đặc biệt dành cho mạng Internet và sự hỗ trợ tương hỗ giữa các phòng ban trong
doanh nghiệp với các đối tác bên ngoài như khách hàng, nhà phân phối và nhà
cung ứng.
* Ngược lại có một số doanh nghiệp đã đạt được kết quả vượt cả mong muốn
đặt ra khi xây dựng website. Một số kết quả chính đạt được là thâm nhập thị
trường quốc tế, thay đổi được các công cụ liên lạc đang có như quảng cáo qua
ấn phẩm và trên truyền hình, cải thiện được việc đáp ứng nhu cầu của khách
hàng, tăng được sự quảng bá của nhãn hiệu sản phẩm. Những kết quả này đạt
được chỉ với chi phí thấp và số lượng nhân công lao động, thường chỉ có một
người chủ trang web phải làm việc đầy đủ thời gian (full-time). Cách lý tưởng
nhất và những người ra quyết định của công ty trực tiếp làm chủ điều hành
Website. Những người này có thể là tổng giám đốc, giám đốc bán hàng, giám
đốc tiếp thị v.v...
• Hơn 85% số website được điều tra ở Bắc Mỹ chỉ sử dụng một ngôn ngữ,
trong khi đó 32% website của Châu Âu có sử dụng 2 ngôn ngữ hoặc nhiều hơn.
• Gần một nửa số website có số trang web rất ít (dưới 10 trang); hơn một nửa
các công ty có website tiến hành cập nhật website tối thiểu một tháng một lần.
• Một nửa số công ty sử dụng hình thức khuyến mãi có trả tiền trong khi 8%
cho biết họ không thực hiện việc khuyến mãi.
• Khoảng 1/3 số website ở Bắc Mỹ chấp nhận hình thức thanh toán bằng thẻ
tín dụng, trong khi đó chỉ có khoảng 18% số website ở Châu Âu thực hiện điều
này. Kết quả điều tra cho thấy ở Châu Âu các site không được sử dụng để bán
hàng nhiều như ở Bắc Mỹ.
• Khoảng 90% số website thiết kế để làm dịch vụ hoặc hỗ trợ cho khách hàng
cho biết họ trả lời các yêu cầu của khách hàng trong vòng chỉ một ngày sau khi
tiếp nhận.
• Hơn 3/4 chủ nhân website cho biết họ thoả mãn với những kết quả đạt được
từ website; trong khi đó 12% cho biết họ chỉ thu được kết quả ít hơn sự mong
đợi ban đầu.
• Khoảng 2/3 số công ty được hỏi cho biết dã tăng được doanh thu nhờ có
website, chủ yếu là do bán hàng trực tiếp hoặc gián tiếp. Cũng 2/3 số công ty
cho biết doanh số tăng lên nhờ có website rất khiêm tốn (0-25%); 1/10 số công
ty cho biết họ tăng được hơn 50% doanh số bán hàng kể từ khí mở trang Web.
Hơn một nửa số công ty được hỏi cho biết đã tiết kiệm được chi phí nhờ có
Website, chủ yếu là chi phí về liên lạc viễn thông, thư tín, chi phí văn phòng.
Toàn bộ bản báo cáo điều tra này có thể xem tại địa chỉ
./index.html.
…
Hiện tại với sự có mặt của Internet trên phạm vi toàn cầu, đã giúp cho việc
ứng dụng TMĐT trong kinh doanh của các doanh nghiệp trở nên phổ biến, trên
đây là một vài những con số và ví dụ cụ thể để minh họa điều này.
6 QTDN-507401029.
PD University Các điều kiện ứng dụng TMĐT vào HĐKD của Doanh Nghiệp
tại Việt Nam.
2. Tại Việt Nam
Theo kết quả điều tra được công bố trong báo cáo thương mại điện tử qua các
năm cho thấy gần như 100% các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam hiện
nay đã kết nối Internet, một tỷ lệ khá cao so với các doanh nghiệp khác, trong
đó 70% các giao dịch của các doanh nghiệp này được tiến hành qua điện thoại,
email hay các công cụ khác trên mạng Internet. Đa phần các doanh nghiệp đều
coi Internet là kênh tìm hiểu thông tin thị trường chính và đầu tư khá bài bản
cho việc ứng dụng công nghệ thông tin cho hoạt động kinh doanh của mình.
Có thể thấy do tính chất hướng ngoại rất cao của các doanh nghiệp xuất khẩu
nên sự tiếp cận thương mại điện tử là nhu cầu thiết yếu nhằm hội nhập với nền
kinh tế thế giới. Cụ thể ở đây do đặc thù của hoạt động xuất khẩu là hướng tới
những thị trường bên ngoài lãnh thổ quốc gia, việc ứng dụng Internet giúp cho
doanh nghiệp trong việc tìm hiểu thị trường, quảng bá sản phẩm và tiến hành
giao dịch với đối tác với chi phí thấp nhưng đạt hiệu quả cao. Các doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay cũng rất chú trọng việc xây dựng website, có đến trên 80%
doanh nghiệp xuất khẩu đã có website riêng, chưa tính đến các doanh nghiệp
xuất khẩu sử dụng các website trên các sàn do đơn vị trung gian cung cấp (như
Cổng Thương mại điện tử quốc gia tại địa chỉ www.ecvn.com), đây là tỷ lệ khá
cao so với mặt bằng chung các doanh nghiệp khác đầu tư xây dựng website.
Theo Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam năm 2008, qua kết quả khảo sát
chung các doanh nghiệp trên cả nước, có 99% doanh nghiệp đã kết nối Internet,
tỷ lệ doanh nghiệp có website năm 2008 đạt 45%, tăng 7% so với năm 2007. Tỷ
lệ website được cập nhật thường xuyên và có chức năng đặt hàng trực tuyến đều
tăng nhanh. Tuy nhiên trong điều kiện môi trường pháp lý còn đang trong giai
đoạn hoàn thiện và hạ tầng cho thanh toán điện tử còn chưa thực sự phát triển,
chính vì vậy chất lượng thực sự của các giao dịch nói chung hiện nay của các
website bán hàng tại Việt Nam là chưa cao, rất nhiều các giao dịch mới chỉ
dừng lại ở mức trao đổi thông tin còn việc thanh toán vẫn phải sử dụng các
phương thức thông thường. Đây chính là nguyên nhân mà các website thương
mại điện tử này chủ yếu nhằm duy trì các khách hàng truyền thống và một thị
trường khách hàng tiềm năng nhất định chứ chưa thể thu hút đông đảo khách
hàng quốc tế thông qua Internet.
Theo thống kê gần đây, thị trường Mỹ chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam. Bị ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, nhập khẩu của Mỹ
có giảm nhưng kim ngạch xuất khẩu của nước ta vào Mỹ vẫn tăng cao hơn, do
xu hướng dùng hàng giá rẻ của người tiêu dùng Mỹ. Đây là cơ hội tốt cho doanh
nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ. Trong những tháng đầu năm 2009
xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ tăng mạnh ở các mặt hàng như: dệt
may, giày dép (tăng 24,0%), máy móc thiết bị (tăng 31,2%), đồ điện tử và thiết
bị nghe nhìn (tăng 33,1%)...so với cùng kỳ năm 2008. Mặc dù, các mặt hàng
này đã tìm được chỗ đứng trên thị trường Mỹ song vẫn đang chịu sức ép rất lớn
từ các đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, Thái Lan… Vì vậy,
việc ứng dụng thương mại điện tử mang lại cho doanh nghiệp các cơ hội lớn
7 QTDN-507401029.
PD University Các điều kiện ứng dụng TMĐT vào HĐKD của Doanh Nghiệp
tại Việt Nam.
như : thuận lợi hóa thương mại, nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm chi phí
mua bán, dịch vụ; tiết kiệm thời gian; mở rộng thị trường và tạo các cơ hội kinh
doanh, tìm kiếm đối tác dễ dàng. Trong tương lai, các doanh nghiệp cần phải
thay đổi quy trình nghiệp vụ, tổ chức quản lý; đầu tư hạ tầng công nghệ; phát
triển, đào tạo nguồn nhân lực kế thừa và lựa chọn ứng dụng thương mại điện tử
phù hợp với văn hóa kinh doanh trong việc mở rộng thị trường.
*Ứng dụng TMĐT: Câu chuyện từ các làng nghề
Đồng ý thành lập trang web, nhưng yêu cầu chỉ giới hạn phạm vi truy cập trong
địa bàn tỉnh; tỏ ra bức xúc vì khách hàng tìm thấy số điện thoại trên mạng…
đây chỉ là hai trong số những câu chuyện “cười ra nước mắt” trong ứng dụng
TMĐT tại các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Được biết đến là một địa phương có nhiều làng nghề truyền thống: Tranh Đông
Hồ; Gốm Phù Lãng; Đồ gỗ Đồng Kỵ, trong thời gian qua, một số doanh nghiệp
trên địa bàn đã từng bước ứng dụng thương mại trong việc quảng bá sản phẩm
truyền thống ra thị trường thế giới. Tuy nhiên, việc thiếu kiến thức về những lợi
ích do thương mại điện tử mang lại, đồng thời với thói quen bán hàng theo kiểu
truyền thống (họp chợ) đã và đang là những rào cản đáng kể trong việc ứng
dụng thương mại điện tử trong việc mở rộng thị trường những sản phẩm truyền
thống.
Hiện tại, hầu hết các doanh nghiệp lớn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã được hỗ
trợ thiết kế website. Tuy nhiên, b ên cạnh khá nhiều doanh nghiệp có nhận thức
tốt về ứng dụng triệt để CNTT và TMĐT trong việc sản xuất, kinh doanh thì
cũng có một số quan niệm kiểu cũ của một số doanh nghiệp gây khó khăn cho
hiệu quả của TMĐT và xúc tiến thương mại. Những người đứng đầu doanh
nghiệp chưa thật sự nhận thức được tầm quan trọng của TMĐT. Một số doanh
nghiệp làm website chỉ cho có in trên name card, có email riêng nhưng không
sử dụng, làm xong website nhưng rồi bỏ đó, không tiếp tục các công việc tiếp
theo.
Cùng với đó, một số doanh nghiệp ở xa nên về cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng
được để họ ứng dụng CNTT và phát triển TMĐT trong quá trình sản suất, kinh
doanh. Cổng TMĐT Bắc Ninh vẫn chưa có những kế hoạch quảng bá và xúc
tiến thương mại chuyên sâu do doanh nghiệp vẫn tự đầu tư, chịu mọi chi phí
hoạt động, quảng bá của sàn mà chưa nhận được sự hỗ trợ tài chính từ các sở
ngành và sự quan tâm đến TMĐT của các ban ngành khác. Nếu như các hoạt
động công về thương mại như : đấu thầu, đấu giá, mua bán tài sản, thiết bị được
đưa lên sàn hoặc sàn được sự ủng hộ để liên kết với các đơn vị lớn bán hàng
trên mạng như tour du lịch, bán vé máy bay trực tuyến… thì các doanh nghiệp ở
Bắc Ninh sẽ được nhiều thuận lợi và có nhiều cơ hội hơn so với hiện nay.
Trong năm 2008, một vấn đề có ảnh hưởng xuyên suốt từ mức độ sẵn sàng,
triển khai và hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp là
nguồn nhân lực thương mại điện tử. Mặc dù buộc phải cắt giảm chi phí đầu tư
8 QTDN-507401029.
PD University Các điều kiện ứng dụng TMĐT vào HĐKD của Doanh Nghiệp
tại Việt Nam.
cho đào tạo, song nhu cầu về cán bộ chuyên trách về thương mại điện tử vẫn rất
cần thiết đối với doanh nghiệp muốn ứng dụng thương mại điện tử. Điều này
phản ánh rõ nhất ở các doanh nghiệp đã xây dựng website, tham gia sàn giao
dịch thương mại điện tử hoặc triển khai dự án ứng dụng thương mại điện tử.
Thương mại điện tử đã đem đến những tác động tích cực đối với hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, điều đó là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, để
doanh nghiệp thực sự ứng dụng được thương mại điện tử thì vẫn còn tồn tại một
số vấn đề nhất định. Một trong những trở ngại lớn nhất của năm 2008 là hạ tầng
công nghệ thông tin và truyền thông, bên cạnh đó là vấn đề về Hệ thống thanh
toán. Mặc dù từ năm 2007, nhiều giải pháp thanh toán trực tuyến đã được triển
khai, việc tích hợp hệ thống này vào website không còn quá khó khăn về mặt
công nghệ và kỹ thuật xử lý, mà thực chất trở ngại về thanh toán trực tuyến lại
đến từ phía người tiêu dùng. Hệ thống đã sẵn sàng, song người tiêu dùng vẫn
chưa có đủ lòng tin và thói quen để áp dụng phương pháp thanh toán mới này.
Xem ra, để đưa TMĐT vào các làng nghề truyền thống không phải là vấn đề có
thể giải quyết trong một sớm một chiều.
Qua những thông tin trên ta thấy rằng gần đây Việt nam ta đã nhận rõ thấy
vai trò và ý nghĩa cực kỳ quan trọng của TMĐT trong lĩnh vực Kinh doanh của
doanh nghiệp, các làng nghề truyền thống của Việt nam – nơi được cho là coi
trọng và chú trọng vào các mặt hàng thủ công, ít coi trọng ứng dụng sự phát
triển của Khoa học công nghệ thì nay ta thấy việc làm kinh doanh bằng TMĐT
đã cho ta một cái nhìn mới. Tuy nhiên để TMĐT có thể được coi trọng và nó
được đặt đúng vị trí của mình thì đó là cả một quá trình, quá trình đó phải dựa
vào sự nhận thức của các cấp lãnh đạo có thẩm quyền và nhất là của người dân
Việt để cải thiện và nâng cao các “Điều kiện cơ bản” cho việc ứng dụng những
lợi ích vô cùng lớn từ TMĐT
II. Các ĐK ứng dụng TMĐT vào HĐKD của DN tại VN
1. Hạ tầng cơ sở Kinh tế & Pháp lý
Kinh tế Việt Nam chỉ tăng trưởng 0,3% năm 2009
Corporate Network là mạng lưới kết nối các nhà lãnh đạo cấp cao của các công
ty đa quốc gia hoạt động ở Châu Á thuộc Economist Intelligence Unit (EIU).
Ông Justin Wood đã có cuộc chia sẻ với báo giới khi đưa ra con số tăng trưởng
0,3% của Việt Nam.
Ông nhìn nhận thế nào về nền kinh tế Việt Nam trong năm 2009?
Năm 2009 là năm đầy thách thức đối với Việt Nam. Economist Intelligence
Unit dự báo GDP của Việt Nam năm 2009 sẽ chỉ tăng trưởng ở mức 0,3%,
trong khi mức tăng trưởng năm 2008 là 6%.
Kinh tế Việt Nam sẽ ổn định trở lại năm 2010
Chỉ số dự đoán tăng trưởng của Việt Nam ở mức 0,3% mà Tổ chức The
Economist đưa ra đã làm nóng Hội nghị Kinh tế đối ngoại VN, diễn ra ngày
9 QTDN-507401029.
PD University Các điều kiện ứng dụng TMĐT vào HĐKD của Doanh Nghiệp
tại Việt Nam.
17-18.3. Hầu hết các chuyên gia kinh tế đều cho rằng con số này quá tiêu cực.
Nhưng...
Chuyên gia Trần Đình Thiên nhấn mạnh: VN không nên thờ ơ trước chỉ số
trên, bởi những dự đoán mà The Economist đưa ra thường mang tính cảnh báo
cao.
Khả năng hồi phục tăng trưởng
"Tôi nghĩ dự đoán tăng trưởng 0,3% của The Economist quá tiêu cực và đánh
giá thấp nền kinh tế VN. Bất cứ ai nghe về con số này cũng phải giật mình", ông
Martin Rama - Quyền Giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) tại VN nói.
Ông cho biết, dự đoán mới nhất của WB về tăng trưởng của VN trong năm
2009 là 5,5%, đã giảm so với con số 6,5% trước đây. Tuy nhiên, ông Rama cho
rằng, việc Chính phủ VN đồng ý tham gia đối thoại mở về một bản báo cáo đầy
bi quan như trên là một tín hiệu tốt, dù đó là những ý kiến trái chiều.
Chia sẻ ý kiến trên, chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành đánh giá những
phỏng đoán của The Economist về kinh tế VN là có vấn đề. Dù xuất khẩu của
VN có giảm sút, nhưng phát triển thị trường nội địa lại tốt hơn - điều mà báo
cáo này không cập nhật.
Phát biểu tại hội nghị, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng khẳng định, 2009
sẽ là năm vô cùng khó khăn cho nền kinh tế VN. Tuy nhiên, nền kinh tế thế giới
nói chung và VN nói riêng sẽ dần phục hồi vào cuối năm.
Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cho biết, Chính phủ VN đã chuyển mục
tiêu điều khiển nền kinh tế từ ngăn chặn lạm phát sang ngăn chặn suy giảm;
thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, đảm bảo an sinh xã hội, xoá
đói giảm nghèo.
Các kết quả cho thấy đã le lói khả năng hồi phục tăng trưởng, dự kiến năm
2010 tình hình kinh tế sẽ bắt đầu ổn định và những khó khăn sẽ cơ bản được
giải quyết ở cuối năm 2009. "Hy vọng VN sẽ có được tỉ lệ tăng trưởng khả quan
trong năm 2009, dù sẽ thấp hơn so với năm trước đó. Chúng tôi rất mong sự hợp
tác của các nhà đầu tư sẽ mang lại cho VN sức mạnh để vượt qua khó khăn hiện
nay" - Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh.
"Ngân hàng HSBC vẫn giữ nguyên quan điểm rằng VN là thị trường quan
trọng trong việc đầu tư vốn. Chúng tôi tin vào triển vọng kinh tế trung và dài
hạn của VN và niềm tin này được củng cố hơn khi Chính phủ có các kế hoạch
ứng phó kịp thời với những thách thức hiện tại", ông Paul Leech - Giám đốc
Khu vực Châu AÁ - Thái Bình Dương của HSBC đáp lại.
Bài toán cơ sở hạ tầng...
Theo các diễn giả, hai vấn đề lớn nhất cho bài toán phát triển của VN vẫn là cơ
sở hạ tầng và nguồn nhân lực. Đại diện HSBC nhận định, cơ sở hạ tầng của VN
đang cản trở sự phát triển của đất nước.
Hệ thống đường sá, phương tiện và các dự án xây dựng đang chịu sức ép lớn
từ sự phát triển nhanh chóng và đang gồng mình để theo kịp tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhanh. "Cải cách cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực là điều VN phải làm,
10 QTDN-507401029.
PD University Các điều kiện ứng dụng TMĐT vào HĐKD của Doanh Nghiệp
tại Việt Nam.
vì nó là vấn đề sinh tử. Điện và hạ tầng như thế này làm sao tăng trưởng được.
Đến chạy bộ còn khó nữa là bay lên" - ông Trần Đình Thiên thẳng thắn.
Theo ông, cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay đã bộc lộ những điểm yếu của
năng lực cạnh tranh VN. "VN vẫn mới khai thác tài nguyên thô và lao động rẻ
tiền, nên cần phải hướng đến tăng giá trị gia tăng của hàng hoá" - ông nói.
Chuyên gia kinh tế này còn cho rằng, còn quá sớm để đánh giá hiệu quả gói
kích thích kinh tế của VN. "Đừng mong một nền kinh tế sau 2 năm lạm phát
cao, nhiều khó khăn lại có phản ứng tích cực ngay với các biện pháp cấp thiết
mà Chính phủ đề ra" - ông khuyến cáo.
Thương mại điện tử đang chờ luật
Nếu tính cả các website có tên miền quốc tế thì tổng số DN có trang web vào
cuối năm 2004 đã đạt khoảng 17.500. Tuy nhiên, ứng dụng TMĐT của DN còn
ở mức độ sơ khai. Việc ký kết hợp đồng điện tử và thanh toán trực tuyến đang
thiếu một môi trường pháp lý.
Báo cáo hiện trạng TMĐT 2004 vừa được Bộ Thương mại công bố cho thấy,
trong số 303 DN thuộc nhóm ngành sản xuất kinh doanh được khảo sát đã có
những đầu tư bước đầu về ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT). 82,9% DN
trên được hỏi cho biết có kết nối Internet và 25,32% đã thiết lập website. Đây là
một bước tiến lớn về trình độ tiếp cận CNTT của DN trong năm 2003-2004 so
với năm 2002, khi chỉ khoảng 30% DN được kết nối Internet và không đến 10%
DN có website riêng.
Mới có 16,5% DN triển khai dự án phát triển ứng dụng TMĐT
Tuy nhiên, kết quả điều tra tổng quan tình hình ứng dụng CNTT trong các DN
cho thấy tỉ trọng chi cho CNTT trên tổng chi phí hoạt động thường niên vẫn còn
rất thấp. 63,19% các công ty được khảo sát chi phí dưới 5% cho việc triển khai
ứng dụng CNTT phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình và chỉ
khoảng 6% số DN cho biết đang dành trên 15% chi phí hoạt động thường niên
để đầu tư cho CNTT. Phân tích sâu hơn tình hình đầu tư ứng dụng CNTT trong
các DN được khảo sát có thể thấy cơ cấu đầu tư hiện vẫn còn mất cân đối với tỉ
trọng đầu tư bình quân cho phần cứng là 62% trong khi phần mềm chỉ chiếm
29%, còn lại là đầu tư cho đào tạo.
Hiện tượng này phản ánh một thực tế là các DN VN vẫn chưa chú trọng đúng
mức đến đầu tư phần mềm và đào tạo kỹ năng cho người lao động. Tuy nhiên,
để tạo động lực tăng trưởng mạnh về số lượng website trong những năm tới
đồng thời đưa việc ứng dụng TMĐT đi vào chiều sâu và đem lại hiệu quả thực
tế cho DN thì lực lượng nhân sự nòng cốt đóng một vai trò thiết yếu. Hiện nay
mới có 16,5% DN đã xác định hoặc đang bắt tay vào triển khai dự án phát triển
ứng dụng TMĐT cho đơn vị mình.
Hành lang pháp lý, phải chờ quá lâu
Mặc dù cũng nhận thấy cơ hội cho sự phát triển TMĐT tại VN trong 5 năm tới
là rất to lớn nhưng nhiều DN than rằng họ đang mất niềm tin vì phải chờ quá lâu
mà hành lang pháp lý cho TMĐT vẫn chưa thể hoàn thiện. Các DN cho rằng, rất
11 QTDN-507401029.
PD University Các điều kiện ứng dụng TMĐT vào HĐKD của Doanh Nghiệp
tại Việt Nam.
nhiều lần các dự thảo đã được đưa ra lấy ý kiến nhưng mọi việc chẳng đi đến
đâu. Ngoài ra, việc chấm dứt Dự án Pháp lệnh TMĐT trong khi Luật Giao dịch
điện tử không thể ban hành cho tới cuối năm 2005 đồng nghĩa với việc giao
dịch thương mại sử dụng các phương tiện điện tử chưa được pháp luật chính
thức thừa nhận. Hậu quả là không một đơn vị, tổ chức DN nào có thể đầu tư
thỏa đáng vào TMĐT.
Đứng dưới góc độ cơ quan quản lý Nhà nước, Bộ Thương mại cũng nhận
định các thách thức để phát triển TMĐT rất nặng nề. Vì tại thời điểm xuất phát
của giai đoạn này VN vẫn phải đương đầu với rất nhiều thách thức. Phần lớn
các DN mới nghe nói tới TMĐT nhưng chưa biết tới lợi ích các điều kiện tham
gia TMĐT, tuyệt đại đa số dân chúng chưa biết tới khái niệm TMĐT, các cơ
quan Nhà nước, các ngành các cấp chưa biết tới khái niệm TMĐT, mới có rất ít
lãnh đạo DN và các bộ quản lý có kiến thức ban đầu về TMĐT, số công chức
Nhà nước biết tới TMĐT rất ít, được đào tạo manh mún từ năm 2000 nhờ sự hỗ
trợ của một số dự án song phương và đa phương...
Luật Giao dịch điện tử: yêu cầu đầu tiên
Điều cần thiết là môi trường pháp lý và chính sách cho hoạt động này lại chưa
hình thành như: Luật Giao dịch điện tử, Nghị định chữ ký số, chứng thực điện
tử... và nhiều văn bản pháp quy cần thiết khác tới năm 2005 vẫn chưa có kế
hoạch cụ thể để xây dựng và ban hành. Theo Bộ Thương mại, thanh toán điện tử
là một khâu quan trọng trong hoạt động TMĐT, tuy nhiên, trong giai đoạn phát
triển ban đầu của TMĐT VN (2001-2005) hầu như chưa tồn tại dịch vụ thanh
toán điện tử. Các chuyên gia kinh tế nhận định, từ năm 2006 nếu các ngân hàng
vẫn chưa cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử thì sẽ cản trở lớn tới sự phát triển
của TMĐT. Theo kế hoạch, dự kiến ngày 1-6 các đại biểu QH sẽ thảo luận tại
hội trường về Dự án Luật Giao dịch điện tử – cơ sở pháp lý quan trọng để
TMĐT có thể phát triển.
2. Hạ tầng về cơ sở công nghệ
Tỷ lệ thuê bao ADSL tại Việt Nam còn rất thấp
Ngày 21/3, tại Hà Nội, Bộ Thông tin và Truyền
thông đã chủ trì Hội nghị bàn về các biện pháp nhằm
thúc đẩy phát triển Internet băng rộng (ADSL) với sự
tham gia của đại diện các doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ này tại Việt Nam.
Dịch vụ ADSL đã được cung cấp tại Việt Nam từ
năm 2004 và đã có những bước tiến đáng kể. Tốc độ
phát triển thuê bao băng rộng của Việt Nam tăng
150% trong hai năm 2006 và 2007.
12 QTDN-507401029.