Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH GIAI đoạn 1930 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.04 KB, 13 trang )

BÁO CÁO MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CHỦ ĐỀ: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1930-1945
Vượt qua thử thách giữ vững lập trường cách mạng.


1. Hoạt động của Hồ Chí Minh

Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị hợp nhất,
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị được tiến hành từ
ngày 3 đến ngày 7/2/1930 (từ ngày 5 đến ngày 9 tháng Giêng năm
Canh Ngọ). Buổi đầu tổ chức tại một căn phòng của một công nhân
nghèo, sau đó chuyển qua một số địa điểm khác ở Cửu Long (Hồng
Kông). Tham dự hội nghị gồm có Đại biểu của Đông Dương Cộng
sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và chi bộ của những người cộng
sản Việt Nam ở nước ngoài. Hội nghị đã nhất trí với đề xuất của
Nguyễn Ái Quốc về việc hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một
Đảng duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua
những văn kiện chính thức của Đảng - Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt...- do Người khởi thảo. Nội dung của
các văn kiện này xác định cách mạng Việt Nam là “tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"; "thâu
hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng,v.v.) của tư
bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh
quản lý"; "Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông… trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập.
Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v...) thì
phải đánh đổ”, “không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công
nông mà đi vào đường thoả hiệp”, “phải đồng tuyên truyền và thực
hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất
là vô sản giai cấp Pháp”. Các văn kiện này là Cương lĩnh đầu tiên


của Đảng.
Sau cao trào 1930-1931, sự khủng bố của thực dân Pháp
càng gắt gao hơn, nhiều chiến sĩ cách mạng bị bắt bớ, tù đày,
giết hại. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1931, Nguyễn Ái Quốc bị chính
quyền Anh bắt giam trái phép tại Hồng Kông (Trung Quốc).
Cuối nǎm 1933, Nguyễn Ái Quốc rời Hồng Kông.


Đầu nǎm 1934 Người trở lại Liên Xô. Tại đây Người vào
học trường Quốc tế Lênin, nghiên cứu ở Viện nghiên cứu các
vấn đề dân tộc và thuộc địa, đồng thời tiếp tục theo dõi, chỉ
đạo phong trào cách mạng trong nước trong hoàn cảnh chủ
nghĩa phát xít đã công khai đàn áp mọi phong trào dân chủ và
hoà bình. Trong nhiều tài liệu Nguyễn Ái Quốc nêu lên sách
lược của Đảng Cộng sản Đông Dương trong thời kỳ 1936-1939,
nhấn mạnh vấn đề tập hợp mọi tầng lớp nhân dân và thành
lập một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi đấu tranh đòi tự
do, dân chủ và hoà bình. Trước những chuyển biến của tình
hình thế giới, tháng 10 nǎm 1938, Nguyễn Ái Quốc r ời Liên Xô
về Trung Quốc.
Tháng 9 nǎm 1940 phát xít Nhật chiếm đóng Đông Dương.
Cuối nǎm 1940, Người về sát biên giới Việt - Trung , bắt liên
lạc với tổ chức Đảng, chuẩn bị về nước. Người đã mở lớp huấn
luyện chính trị để chuẩn bị cán bộ đáp ứng yêu cầu tình hình
nhiệm vụ mới. Người nêu rõ trong tài liệu huấn luyện: "Sự
nghiệp giải phóng dân tộc là sự nghiệp chung của các dân t ộc,
các giai cấp bị bóc lột ở Đông Dương. Toàn thể nhân dân Đông
Dương không phân biệt dân tộc nào, giai cấp nào đều phải
đồng tâm hiệp hội đoàn kết cùng nhau mới làm nổi". Ngày 28
tháng 1 nǎm 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước, Người chọn Cao

Bằng làm cǎn cứ địa xây dựng tổ chức, phát động phong trào
cách mạng. Sau khi về nước Nguyễn Ái Quốc bắt đầu sống và
làm việc tại hang Cốc Bó, thôn Pác Bó, Trường Hà, Hà Quảng,
Cao Bằng. Cuối tháng 4/1941, theo đề nghị của Người, một
cuộc hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng được triệu tập, để tổng kết
kinh nghiệm tổ chức thí điểm các hội quần chúng như: Thanh
niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc nhằm tiến tới thành lập Mặt
trận Việt Minh trong toàn quốc.


Từ ngày 10 đến 19/5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì H ội
nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII đã đề cập và làm rõ nhiều
vấn đề quan trọng của cách mạng Việt Nam, trong bối cảnh
Chiến tranh thế giới thứ hai ngày càng lan rộng. Từ việc phân
tích kỹ tình hình, thế và lực của cách mạng Việt Nam, H ội ngh ị
quyết định "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp
phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân t ộc.
Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì
chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng
không đòi lại được”. Ngày 19/5/1941, Việt Nam đ ộc lập đồng
minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh) chính thức ra đ ời nh ằm
mục đích tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, tranh thủ
mọi lực lượng yêu nước.
Ngày 13/8/1942, với tên mới Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái
Quốc lên đường đi Trung Quốc để liên lạc với các lực l ượng
cách mạng của người Việt Nam và lực lượng Đồng minh. Ngày
27/8/1942, Hồ Chí Minh bị bắt. Hơn một năm tr ời, bị giải qua

hơn 30 nhà lao, phải trải qua những ngày tháng bị giam cầm
thiếu thốn, khổ cực, bệnh tật, thời gian này Người đã viết Ngục
trung nhật ký. Tháng 9/1943, Người được trả tự do.
Cuối tháng 9/1944, Hồ Chí Minh trở về Pác Bó (Cao Bằng).
Trước tình hình thế giới, cùng những điều kiện thuận lợi và
khó khăn của cách mạng Việt Nam, sau khi phân tích tình hình
và cân nhắc những điều kiện, chuẩn bị cho ngày khởi nghĩa, H ồ
Chí Minh nhấn mạnh phương châm kết hợp hai hình thức đấu
tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, đẩy mạnh phong trào
cách mạng, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Người quyết
định thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (nay


là Quân đội nhân dân Việt Nam). Sau một thời gian ngắn chuẩn
bị, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân được thành lập tại khu rừng Sam Cao (còn gọi là Trần
Hưng Đạo), thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, gồm 34
đội viên do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Sự ra đời và những
hoạt động của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là
một biểu hiện sinh động của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
Đây vừa là sự kế thừa, phát triển di sản quân sự truyền thống
của cha ông ta trong lịch sử, vừa là sự tiếp thu và vận dụng sáng
tạo tư tưởng lý luận quân sự hiện đại của học thuyết Mác Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Ngày 9 tháng 3 nǎm 1945, phát xít Nhật đảo chính hất
cẳng Pháp độc chiếm Đông Dương. Cuộc chiến tranh thế giới
thứ I cũng bước vào giai đoạn cuối với những thắng lợi của
Liên Xô các nước Đồng minh.
Để có thể kịp thời chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả
nước, ngày 4/5/1945, Hồ Chí Minh quyết định chuyển về hoạt
động tại Tuyên Quang, nơi phong trào cách mạng phát triển,

giao thông giữa miền xuôi và miền ngược đều thuận tiện. Đến
giữa tháng 8/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước, khởi nghĩa
từng phần đã cuồn cuộn dâng lên từ Bắc đến Nam. Trong khi
đó, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản (ngày 9 tháng 8 nǎm
1945) và ồ ạt tiến công đạo quân Quan Đông của chúng, Mỹ
ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirôsima (6-8), và Nagasaki
(9-8), ngày 10 tháng 8 phe Đồng minh đã gửi công hàm yêu cầu
Nhật Bản đầu hàng không điều kiện. Nhận thấy thời cơ tổng
khởi nghĩa chín muồi, đã đến lúc nhân dân ta vùng dậy giành lại
quyền độc lập của mình. Trước cơ hội có một không hai ấy, tại
Tân Trào, thủ đô lâm thời của nước Việt Nam mới, Hội nghị đại
biểu toàn quốc của Đảng họp từ ngày 13 đến 15/8/1945,
quyết định Đảng phải phát động và lãnh đạo toàn dân Tổng


khởi nghĩa, giành chính quyền. Ngày 16/8/1945, Hồ Chí Minh
dự Đại hội quốc dân tại Tân Trào. Đại hội đã nhiệt liệt tán
thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt
Minh. Đại hội đã bầu ra Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam
(tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Thực hiện quyết định của Đảng và của Quốc dân Đại
hội Tân Trào, chớp đúng thời cơ, toàn dân ta từ Bắc đến
Nam, từ miền núi đến đồng bằng, từ nông thôn đến thành
thị đã đứng lên khởi nghĩa giành lấy chính quyền từ tay
phátxít Nhật. Sức mạnh của nhân dân cả nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã bùng lên thành bão táp cách mạng,
quyết giành lại độc lập, tự do. Ngày 19/8, Tổng khởi nghĩa
thành công ở Hà Nội, ngày 23/8 ở Huế, và ngày 25/8 ở Sài
Gòn. Trong một thời gian ngắn, cuộc Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trong cả nước đã thành công, làn sóng

cách mạng và sức mạnh bạo lực cách mạng của quần
chúng đã làm tê liệt mọi sự kháng cự của các thế lực thù
địch, xoá bỏ bộ máy chính quyền của giai cấp thống trị,
chính quyền cách mạng đã về tay nhân dân.
Ngày 02/9/1945, trong cuộc mít tinh tại vườn hoa Ba
Đình, Hà Nội, trước hàng chục vạn đồng bào Thủ đô, trên diễn
đàn cao và trang nghiêm, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn
Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra thời
đại rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc, thời đại Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã đem ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin soi
đường cho phong trào yêu nước, chủ nghĩa yêu nước truyền
thống Việt Nam, làm cho chủ nghĩa yêu nước vươn lên tầm th ời
đại, trở thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, mà sau này
biểu tượng sáng chói trong hai cuộc kháng chiến lừng lẫy của
dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong


công cuộc tái thiết và phát triển đất nước theo con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Với việc tìm ra con đường cứu nước, phát triển của dân
tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đóng góp to lớn, thiết thực chuẩn
bị cho việc mở ra một giai đoạn phát triển mới của phong trào
cách mạng vô sản nói chung, phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới và châu Á nói
riêng.


2. Thử thách và những cố gắng của Hồ Chí Minh
a. Thử thách:
Quan điểm của Hồ Chí Minh bị Quốc tế Cộng sản chỉ trích,

phê phán là “hữu khuynh”, “chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi”. Ngoài
việc học tập, Bác không được giao công tác nào khác.
b. Nguyên nhân
Không nắm được tình hình thực tế của các nước thuộc địa
phương Đông và Việt Nam.
Bị chi phối bởi quan điểm “tả khuynh” ( Vào cuối những
năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Quốc tế Cộng sản b ị
chi phối nặng bởi khuynh hướng "tả". Khuynh hướng này đã
trực tiếp tác động vào phong trào cách mạng Việt Nam. Biểu
hiện rõ nhất là những quyết định được đưa ra trong Hội ngh ị
lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng họp
từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930 tại Hương Cảng (Trung Quốc)
theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản Hội nghị cho rằng, Hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu năm 1930 vì chưa nhận
thức đúng nên đặt tên Đảng sai và quyết định đổi tên Đảng
thành Đảng Cộng sản Đông Dương ; chỉ trích và phê phán đường
lối của Nguyễn Ái Quốc đưa ra trong Chánh cương vắn tắt và
Sách lược vắn tắt đã phạm những sai lầm chính trị rất "nguy
hiểm", vì "chỉ lo đến việc phản đế, mà quên mất lợi ích giai cấp
tranh đấu". Do đó Ban Chấp hành Trung ương đã ra ngh ị quy ết
"thu tiêu Chánh cương, Sách lược của Đảng" và phải dựa vào các
nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, chính sách và kế hoạch của
Đảng"làm căn bổn mà chỉnh đốn nội bộ, làm cho Đảng
Bônsêvích hóa").


Quan điểm Quốc tế Cộng sản với Đảng Cộng sản Phương
Đông về mối quan hệ dân tộc- dân chủ, dân tộc- giai cấp có
nhiều hạn chế, không thống nhất.




c. Hành động đấu tranh của Hồ Chí Minh
Hội nghị TW 10/1930 của Đảng ta, Quốc tế Cộng sản đưa
ra án nghị quyết “thủ tiêu Chánh cương và Sách lược vắn tắt”,
đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông
Dương.
Hồ Chí minh tiếp tục tham gia hoạt động của Quốc tế
Cộng sản.
Hồ Chí Minh kiên trì đấu tranh bảo vệ một trong những
tư tưởng đúng đắn của mình thành chiến lược Cách mạng giải
phóng dân tộc, xác lập tư tưởng độc lập tự do.
d. Kết quả
Thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945, nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa ra đời.
Cách mạng Việt Nam và thế giới đã công nhận giá tr ị và
sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn.


3. Liên hệ thực tiễn
a. Tình yêu bao la với con người, tổ quốc
Động lực cho thế hệ trẻ phấn đấu bảo vệ tổ quốc
Phát huy tinh thần tương thân tương ái (tham gia tình
nguyện, cứu trợ vùng lũ…)
b. Có lý tưởng đúng đắn, phấn đấu đến cùng
Trong cuộc sống cũng như trong lao động, học tập phải
luôn đặt ra mục tiêu phấn đấu, hoàn thiện bản thân
c. Thừa kế và phát huy tư tưởng của Bác
Tư tưởng của Bác vẫn còn giá trị trong thực tiễn xây dựng và
bảo vệ đất nước hiện nay

d. Là sản phẩm tinh thần vô cùng giá trị của dân tộc Việt Nam
=> Mỗi cá nhân khi được học về tư tưởng Hồ Chí Minh phải
hiểu được tầm quan trọng của môn học, chăm chỉ nghiên cứu
tìm hiểu để đưa tư tưởng của Người vào ứng dụng thực tiễn.




×