TRƯỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM - ÐẠI HỌC ÐÀ NẴNG
KHOA NGỮ VĂN
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Tên đề tài: HÌNH TƯỢNG BÁNH XE TRONG PHẬT GIÁO
(Học phần: VĂN HÓA PHẬT GIÁO VIỆT NAM)
Ðà Nẵng, tháng 12/2018
TRƯỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM - ÐẠI HỌC ÐÀ NẴNG
KHOA NGỮ VĂN
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Tên đề tài: HÌNH TƯỢNG BÁNH XE TRONG PHẬT GIÁO
(Học phần: VĂN HÓA PHẬT GIÁO VIỆT NAM)
Sinh viên thực hiện
: VÕ HOÀNG TRINH
Lớp
: 15CVHH
Giảng viên hướng dẫn
: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC CHINH
Ðà Nẵng, tháng 12/2018
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 2
Chương 1: Khái quát về bánh xe trong Phật giáo.....................................................3
1.1.
1.2.
Nguồn gốc...........................................................................................................3
Ý nghĩa...............................................................................................................4
Chương 2: Bánh xe trong văn hóa Phật giáo.............................................................5
2.1. Vòng luân hồi..........................................................................................................5
2.2. Trong Mật Tông.....................................................................................................7
2.3. Pháp Luân...............................................................................................................7
2.3.1. Nguồn gốc............................................................................................................7
2.3.2. Pháp luân và sự phát triển của tư tưởng Phật giáo................................................8
2.3.3. Pháp luân trong kiến trúc, nghê thuật Phật giáo.................................................13
2.3.4. Biểu tượng pháp luân tại Lộc Uyển....................................................................16
Chương 3: Triết lý sống qua hình tượng bánh xe trong Phật giáo.........................18
3.1. Tiếp xúc với sự sống.............................................................................................18
3.2. Giáo pháp: Tâm điểm của Phật giáo......................................................................18
3.3. Sự tiến bộ của tri thức và đạo đức.........................................................................18
3.4. Chuyển biến của thế giới tâm linh.........................................................................19
KẾT LUẬN.................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................21
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những phát minh quan trọng có ảnh hưởng lớn đến lịch sử của nền văn
minh nhân loại đó là bánh xe. Thử nhìn vào các cơ chế kỷ thuật hay hầu hết các
phương tiện giao thông, từ một cỗ xe thô sơ cho đến các hệ thống máy móc tinh
xảo, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra được vai trò của phát minh này trong đời sống
thường nhật của mỗi người. Từ sự di chuyển của những viên đá cuội, những thân
cây, hay những vật thể tròn bên triền núi, con người từ thuở xa xưa đã biến những
hình ảnh đó trong ký ức trở thành một phát minh có ý nghĩa quyết định cho sự tiến
bộ của xã hội loài người. Những công cuộc khai quật tại Iraq , Phần Lan, Ấn Độ và
Trung Hoa cho biết rằng từ hàng ngàn năm Tr CN, tổ tiên của loài người đã biết
ứng dụng phát minh này vào các sinh hoạt của đời sống. Điều thú vị là họ đã áp
dụng phát minh này vào các hoạt động kỷ thuật và sản xuất trước khi xử dụng nó
trong các phương tiện giao thông. Trên lĩnh vực tín ngưỡng và văn hoá, bánh xe
cũng là một biểu tượng rất phổ biến trong các truyền thống tôn giáo tại nhiều châu
lục khác nhau. Đối với Đạo Phật, biểu tượng này đã trở thành một trong những
hình ảnh tiêu biểu, thiêng liêng, và có ý nghĩa nhất cho sự hiện hữu cũng như sứ
mạng của truyền thống tâm linh này đối với nhân loại trong hơn hai ngàn năm qua.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm góp phần tìm hiểu và làm sáng tỏ các vấn
đề liên quan đến hình tượng bánh xe trong Phật giáo cũng như nguồn gốc và ý
nghĩa của nó.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, em sử dụng phương pháp lịch sử và logic là chủ
yếu. Đặc biệt nhấn mạnh đến các sự kiện lịch sử có tính bước ngoặt và tác dụng
của nó trong việc làm nổi bật lên nội dung mà đề tài muốn hướng tới. Bên cạnh
phương pháp truyền thống khai thác tư liệu từ các nguồn tài liệu thành văn của các
chuyên ngành khoa học khác nhau như: dân tộc học, khảo cổ học, địa lý, kinh tế,
… và đặc biệt là lịch sử.
4. Bố cục
Bố cục của bài gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái quát về bánh xe trong Phật giáo
Chương 2: Bánh xe trong văn hóa Phật giáo
Chương 3: Triết lý sống qua hình tượng bánh xe trong Phật giáo
2
Chương 1: Khái quát về bánh xe trong Phật giáo
Bánh xe luân hồi (pháp luân) là một trong số những biểu tượng phổ biến của Phật giáo,
là biểu tượng quan trọng nhất, biểu thị cho cốt tủy của đạo Phật - giáo pháp của Đức
Phật.
Giáo pháp của Phật giáo được truyền thừa liên tục cũng như một bánh xe được vận
chuyển từ quá khứ cho đến hiện tại, từ hiện tại cho đến tương lai. Với biểu tượng này,
Phật giáo luôn hướng đến một ước vọng hướng thượng và thăng hoa trong đời sống
mỗi người. Cuộc sống là một cái gì đó luôn thay đổi liên tục, nhưng những thay đổi đó
được hướng theo tinh thần đạo đức và tâm linh trong sáng thì nó sẽ mang đến nhiều
hạnh phúc cho đời người.
1.1.
Nguồn gốc
Nguồn gốc của hình tượng bánh xe luân hồi xuất phát từ câu chuyện trong kinh Thí
Dụ. Tôn giả Mục Kiền Liên, vị đệ tử đứng đầu về thần thông của Đức Phật, không chỉ
hành đạo trong cõi người mà còn thường du hóa đến các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh và cõi trời. Sau khi chứng kiến cảnh chúng sinh chết đi sống lại, bị tàn sát, hành
hạ trong địa ngục, cảnh muôn thú tranh giành, giết hại nhau, cảnh các loài quỷ bị đói
khát dằn vặt, cảnh thiên nhân hết phước báu bị đọa lạc, suy vong, cảnh loài người bị
tham ái cấu xé, bức bách thảm khốc…, tôn giả bèn trở về cõi Diêm Phù Đề (Ấn Độ) và
thuật lại những điều mắt thấy tai nghe này cho 4 chúng đệ tử của Đức Phật, khuyên họ
nên ý thức đến nỗi khổ triền miên của cõi Ta Bà mà tinh tấn tu trì hướng đến cảnh giới
vô sinh an tịnh. Một lần nọ, khi Đức Phật trú tại thành Vương Xá, tôn giả Mục Kiền
Liên cũng đem những cảnh khổ trên để khuyến hoá các hàng xuất gia và tại gia. Khi
thấy mọi người đang vây quanh và chăm chú lắng nghe tôn giả, Đức Phật bèn hỏi ngài
A Nan vì sao mọi người đang vây quanh tôn giả Mục Kiền Liên, khi biết được nguyên
do, Đức Phật bèn dạy: “Trưởng lão Mục Kiền Liên hay bất cứ một vị Tỳ-kheo nào
khác như trưởng lão cũng không thể cùng một lúc có mặt tại nhiều nơi (để giáo hóa
mọi người), vì thế, nên làm hình bánh xe gồm 5 phần đặt ngay lối ra vào của tinh xá.”
5 phần của bánh xe được minh hoạ để tượng trưng cho 5 cảnh giới, 3 cảnh giới phía
dưới là địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, 2 cảnh giới bên trên là cõi trời và người, hoạ cảnh
4 châu Đông Thắng Thần, Tây Ngưu Hoá, Bắc Câu Lô và Nam Thiệm Bộ cũng được
thêm vào. Ở giữa là hình ảnh 3 loài thú: chim bồ câu (dụ cho tham), rắn (dụ cho sân),
và heo (dụ cho si). Hình ảnh giải thoát của chư Phật và cảnh giới Niết Bàn được thể
hiện qua những vầng hào quang, hàng phàm phu được minh hoạ qua với cảnh những
chúng sinh chìm nổi trong nước, vòng bên ngoài thể hiện 12 chi phần duyên khởi theo
hai chiều thuận nghịch. Bánh xe này thể hiện mọi chi tiết về cảnh giới luân hồi trong
3
mọi thời và tất cả bị nuốt bởi vô thường. Ngoài những hình ảnh trên, hai câu kệ nói về
sự hành trì theo chính pháp để điều phục phiền não, vượt thoát cảnh luân hồi cũng nên
được khắc bên bánh xe. Cũng theo bản kinh này, mỗi khi đến tinh xá, các vị cư sĩ hỏi
về ý nghĩa của hình tượng bánh xe trên, có một số vị Tỳ-kheo không giải thích được.
Vì thế, theo lời dạy của Đức Phật, các vị Tỳ-kheo bèn chọn những vị trì sự có đầy đủ
kiến thức để giải thích cho các vị cư sĩ về ý nghĩa trên mỗi khi họ thắc mắc.
1.2.
Ý nghĩa
Nếu như bánh xe trong nền văn hoá cổ xưa của Ấn Độ tượng trưng cho mặt trời, cho
uy quyền tối thượng, cho Chuyển Luân Thánh Vương, thì hình tượng bánh xe trong
Phật giáo lại tượng trưng cho giáo pháp của Đức Phật và cho chính Đức Phật. Chuyển
Luân Thánh Vương dùng xe báu để hàng phục các oán địch, cai trị thiên hạ, giữ yên bờ
cõi, còn Đức Phật chuyển vận bánh xe pháp để nhiếp phục, đoạn trừ phiền não trong
tâm thức của chúng sanh.
Pháp luân được dùng để dụ cho giáo pháp của Đức Phật, gồm 3 nghĩa chính: tồi phá
(Phật pháp có công năng diệt trừ tội ác của chúng sinh), triển chuyển (sự thuyết giáo
của Đức Phật cũng như bánh xe luôn di chuyển, không dừng trệ lại ở bất cứ người nào
hay nơi nào) và viên mãn (giáo pháp của Đức Phật viên mãn, tròn đầy như bánh xe).
Đôi khi, pháp luân cũng còn được gọi là “Phạm luân”. Theo luận Đại Trí Độ, chữ
“Phạm” này được giải thích theo nhiều cách như sau: 1) Phạm là rộng lớn, Đức Phật
chuyển pháp luân đến khắp mười phương nên gọi là phạm; 2) Đức Phật dùng bốn tâm
phạm hạnh (từ, bi, hỷ, xả) để thuyết pháp nên gọi là phạm; 3) Lúc mới thành đạo,
Phạm Thiên đã khuyến thỉnh Đức Phật chuyển pháp luân nên gọi là phạm luân; 4)
Trong lần chuyển pháp luân của Đức Phật tại Ba-la-nại, tôn giả Kiều Trần Như chứng
đắc đạo thanh tịnh, nên gọi là phạm luân; 5) Người Ấn thời xưa vốn tôn quí Phạm
4
thiên, vì thế để tuỳ thuận theo người đời, pháp luân cũng được gọi là phạm luân; 6)
Phạm là thanh tịnh, giáo pháp của Đức Phật vốn thanh tịnh nên gọi là phạm; 7) Đức
Phật là đấng Đại Phạm, luôn dùng phạm âm để thuyết pháp.
Bộ luận này cũng lý giải về sự khác biệt giữa phạm luân và pháp luân. Đó là: phạm
luân dạy về 4 tâm vô lượng còn pháp luân nói về 4 thánh đế, phạm luân dạy rằng nhân
4 tâm vô lượng này mà đắc đạo còn pháp luân dạy rằng nương theo các pháp khác mà
đắc đạo, phạm luân chỉ bày về tứ thiền còn pháp luân chỉ bày về ba mươi bảy phẩm trợ
đạo, phạm luân dạy tu thiền thánh đạo còn pháp luân dạy tu trí tuệ thánh đạo.
5
Chương 2: Bánh xe trong Văn hóa Phật giáo
Trong các văn bản Phật học, chữ cakka (S: cakra) thường được dùng để chỉ cho bánh
xe (Trường Bộ III), một loại vũ khí (Bổn Sanh I), hay một trong ba mươi hai tướng tốt
của bậc đại nhân (Trường Bộ II). Thuật ngữ này còn chỉ cho một trú xứ của hàng chư
thiên và loài người mà nơi ấy hội đủ bốn phước lành sau: cư trú tại một nơi cố định,
thân cận các pháp lành, hoàn thiện tự thân, và gây tạo công đức trong đời trước. Đôi
khi danh từ cakka cũng được dùng trong các cụm từ khác như catucakkam (Tương
Ưng I) hay iriyāpatha-cakka (Luận giải Trường Bộ) để chỉ cho bốn oai nghi của mỗi
người. Trong Phạn ngữ, chữ cakra thường xuất hiện trong các cụm danh từ riêng để chỉ
tên người (cakrapāṇi, tên của một vị Bồ tát), tên các loài thảo mộc (cakra-vimala,
cakra-s’atapattra), và tên của một rặng núi bao quanh trái đất (cakra-vāḍa, cakravāḷa).
2.1.
Vòng Luân Hồi
Chữ cakra cũng thường được dùng trong các thuật ngữ saṃsāra-cakra hay bhava-cakra
để chỉ cho sự biến dịch, luân hồi hay vòng hiện hữu của loài hữu tình với bốn chu kỳ:
sanh, trụ, dị, diệt. Nguồn gốc của hình tượng bánh xe luân hồi hay vòng luân hồi, có
lẽ, phát xuất từ một câu chuyện trong kinh Thí Dụ như sau. Tôn giả Mục Kiền Liên, vị
đệ tử đứng đầu về thần thông của Đức Phật, không chỉ hành đạo trong cõi người mà
còn thường du hoá đến các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, và cõi trời. Sau khi chứng
kiến cảnh chúng sanh chết đi sống lại, bị tàn sát, hành hạ trong địa ngục, cảnh muôn
thú tranh giành, giết hại nhau, cảnh các loài quỷ bị đói khát giằn vặt, cảnh thiên nhân
hết phước báu bị đoạ lạc, suy vong, cảnh loài người bị tham ái cấu xé, bức bách thảm
khốc…, tôn giả bèn trở về cõi Diêm Phù Đề (Ấn Độ) và thuật lại những điều mắt thấy
tai nghe này cho bốn chúng đệ tử của Đức Phật, khuyên họ nên ý thức đến nỗi khổ
triền miên của cõi Ta Bà mà tinh tấn tu trì hướng đến cảnh giới vô sanh an tịnh. Một
lần nọ, khi Đức Phật trú tại thành Vương Xá, tôn giả Mục Kiền Liên cũng đem những
cảnh khổ trên để khuyến hoá các hàng xuất gia va tại gia. Khi thấy mọi người đang
vây quanh và chăm chú lắng nghe tôn giả, Đức Phật bèn hỏi ngài A Nan vì sao mọi
người đang vây quanh tôn giả Mục Kiền Liên, khi biết được nguyên do, Đức Phật bèn
dạy: “Trưởng lão Mục Kiền Liên hay bất cứ một vị Tỳ-kheo nào khác như trưởng lão
cũng không thể cùng một lúc có mặt tại nhiều nơi (để giáo hoá mọi người), vì thế, nên
làm hình bánh xe gồm năm phần đặt ngay lối ra vào (của tinh xá).” Lúc ấy, các vị Tỳkheo còn phân vân, chưa biết nên thiết kế bánh xe như thế nào, Đức Phật bèn chỉ dạy
như sau: năm phần của bánh xe được minh hoạ để tượng trưng cho năm cảnh giới, ba
cảnh giới phía dưới là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, hai cảnh giới bên trên là cõi trời và
người, hoạ cảnh bốn châu Đông Thắng Thần, Tây Ngưu Hoá, Bắc Câu Lô, và Nam
Thiệm Bộ cũng được thêm vào. Ở giữa là hình ảnh ba loài thú: chim bồ câu (dụ cho
6
tham), rắn (dụ cho sân), và heo (dụ cho si), hình ảnh giải thoát của chư Phật và cảnh
giới Niết Bàn được thể hiện qua những vầng hào quang, hàng phàm phu được minh
hoạ qua với cảnh những chúng sanh chìm nổi trong nước, vòng bên ngoài thể hiện 12
chi phần duyên khởi theo hai chiều thuận nghịch. Bánh xe này thể hiện mọi chi tiết về
cảnh giới luân hồi trong mọi thời, và tất cả bị nuốt bởi (quỷ) vô thường. Ngoài những
hình ảnh trên, hai câu kệ nói về sự hành trì theo chánh pháp để điều phục phiền não,
vượt thoát cảnh luân hồi cũng nên được khắc bên bánh xe. Cũng theo bản kinh này,
mỗi khi đến tinh xá, các vị cư sĩ hỏi về ý nghĩa của hình tượng bánh xe trên, có một số
vị Tỳ-kheo không giải thích được. Vì thế, theo lời dạy của Đức Phật, các vị Tỳ-kheo
bèn chọn những vị tri sự có đầy đủ kiến thức để giải thích cho các vị cư sĩ về ý nghĩa
trên mỗi khi họ thắc mắc.
Hình ảnh vòng luân hồi trên được thể hiện rỏ nét trong các thạch động tại Ấn Độ và rất
phổ biến trong các tu viện Trung Hoa và Tây Tạng. Riêng tại Tây Tạng, ngoài hình
tượng trên, hình ảnh bánh xe luân hồi mới gồm sáu phần cũng rất phổ biến. Ngoài năm
cảnh giới trên, loại hình tượng mới này có thêm cảnh giới A-tu-la, và ngoại trừ cảnh
giới loài người, năm cảnh giới còn lại đều xuất hiện hình ảnh đức Quán Thế Âm đại
diện cho Đức Phật, vì lòng đại bi mà thị hiện để độ sanh. Ngày nay, hình tượng vòng
luân hồi thường xuất hiện tại các tu viện Phật giáo Tây Tạng theo lối minh hoạ sau.
Giữa vòng là hình ảnh ba con thú gà trống, rắn, và heo thứ tự ngậm đuôi của nhau.
Màu lông của gà trống là màu đỏ tía pha vàng, tượng trưng cho sự nóng bỏng của lửa
tham dục. Xét về tính khí, gà trống là loài vật vừa tham nhưng cũng rất kiêu căng, nên
được xem là biểu tượng cho tham dục. Miệng gà trống ngậm đuôi của con rắn lục,
tượng trưng cho sự tham lam vô hạn của chúng sanh, và chính vì quá tham lam, nên
chúng sanh không bao giờ cảm thấy thoả mãn, từ đó sân hận phát sanh. Sân hận là độc
tố làm tinh thần xung động, làm cho tâm thức luôn âm ỉ hận thù và cuối cùng bộc phát
qua lời nói thô lỗ và hành vi thiếu tự chủ. Ác nghiệp như thế cứ mãi tuôn trào, dai
dẳng mà không gì ngăn cản được, cũng như cơ thể thuôn dài của rắn. Màu xanh của
rắn biểu thị cho sự lạnh lùng, thiếu cảm thông với mọi người. Rắn là một loài vật giết
hại loài khác bằng nọc độc và bằng cách bóp nghẹt, đó cũng là đặc điểm của sân. Tiếp
theo rắn là một con heo với dáng vẻ nặng nề. Đuôi của heo bị miệng rắn ngậm chặt, và
heo nhoài người sang nguộm đuôi của gà trống. Heo này có màu đen tượng trưng cho
si. Vẻ nặng nề của nó biểu trưng cho sự hôn trầm, uể oải của tâm và thân. Heo là một
loài tham ngủ và hay tìm thức ăn trong những nơi hôi bẩn, không phân biệt sạch nhơ,
cũng như khi đã bị chìm đắm trong vô minh, thiếu chánh kiến, chúng sanh thường tìm
cầu dục lạc trong cặn bã danh vọng của cuộc đời. Ba loài thú trên được vẽ trên nền
màu xanh da trời để biểu trưng rằng dù tham, sân, si sâu nặng, khó trừ, nhưng bản chất
của chúng là không, là vô tự tánh, và chẳng thường còn. Vòng lớn kế tiếp của bánh xe
7
là các cảnh giới chúng sanh, vòng ngoài cùng là các mắc xích tượng trưng cho 12 chi
phần duyên khởi. Cả bánh xe này bị một quái vật khổng lồ, tức quỷ vô thường nắm
chặt, ám chỉ rằng vạn vật trong vòng luân hồi đều bị vô thường chi phối.
2.2.
Trong Mật Tông
Đối với Mật tông, cakra được xem là một trong những thuật ngữ phổ biến nhất. Mật
tông thường nói về các luân xa (cakra) nằm tại các vị trí trọng yếu trong cơ thể mỗi
người. Các luân xa này chính là các trung tâm năng lượng tối quan trọng vì đó là
những nơi mà các nguồn năng lượng tinh thần và cùng các hoạt động cơ thể thâm nhập
và hoà quyện nhau. Cũng chính tại những nơi này, các nguồn năng lượng của cơ thể và
vũ trụ gặp gỡ để kết tinh thành những phẩm tính của cơ thể, rồi từ đó những phẩm tính
này lại chuyển hoá thành những dòng năng lượng tinh thần của mỗi người. Bảy luân
xa chính trong cơ thể mỗi người mà Mật tông Tây Tạng thường đề cập gồm:
Mūlādhāra-cakra (khu vực huyệt Hội âm, khu năng lượng sinh tồn), svādhiṣṭhānacakra (khu vực huyệt Quan nguyên, khu năng lượng tính dục), manipura-cakra (khu
huyệt Trung quản, nơi giao thoa giữa năng lượng cá nhân và môi trường), anāhatacakra (khu huyệt Đản trung, khu năng lượng của tình thương), visuddha-cakra (khu
huyệt Thiên đột, khu năng lượng của sự giao tiếp), ājña-cakra (khu huyệt Ấn đường,
khu năng lượng của ý thức), và sahasrāra-padma (khu huyệt Bách hội, khu năng lượng
của trí tuệ). Đôi khi thuật ngữ cakra cũng có nghĩa tương đương với từ mạn-đà-la
(maṇḍala). Trong lúc hành thiền, hành giả Du-già thường quán toàn thân như một
mạn-đà-la lớn bao hàm nhiều mạn-đà-la nhỏ (luân xa) khác. Ngoài ra các luân xa còn
được xem là những trú xứ của ba thân (Pháp thân, Báo thân, và Ứng Hoá thân), hoặc
có tương hệ mật thiết với các yếu tố sắc pháp khác.
2.3.
Pháp Luân
2.3.1. Nguồn gốc
Khi tìm hiểu về hình tượng bánh xe trong Đạo Phật, chúng ta không thể không nhắc
đến pháp luân (P.dhammacakka, S. dharmacakra), một trong những hình tượng nghệ
thuật độc đáo và là biểu tượng tinh thần cao cả nhất của truyền thống tâm linh này.
Pháp luân là bánh xe pháp. Pháp ở đây là nguyên lý hay chân lý mà Đức Phật đã
chứng ngộ trong đêm thành đạo và sau đó Ngài đã tuyên thuyết cho nhân gian. Thông
thường pháp luân được dùng để dụ cho giáo pháp của Đức Phật, gồm ba nghĩa chính:
tồi phá (Phật pháp có công năng diệt trừ tội ác của chúng sanh), triển chuyển (sự
thuyết giáo của Đức Phật cũng như bánh xe luôn di chuyển, không dừng trệ lại ở bất
cứ người nào hay nơi nào), và viên mãn (giáo pháp của Đức Phật viên mãn, tròn đầy
8
như bánh xe). Đôi khi, pháp luân cũng còn được gọi là Phạm luân. Theo luận Đại Trí
Độ, chữ phạm này được giải thích theo nhiều cách như sau:
1) Phạm là rộng lớn, Đức Phật chuyển pháp luân đến khắp mười phương nên gọi là
phạm;
2) Đức Phật dùng bốn tâm phạm hạnh (từ, bi, hỷ, xả) để thuyết pháp nên gọi là phạm;
3) Lúc mới thành đạo, Phạm Thiên đã khuyến thỉnh Đức Phật chuyển pháp luân nên
gọi là phạm luân;
4) Trong lần chuyển pháp luân của Đức Phật tại Ba-la-nại, tôn giả Kiều Trần Như
chứng đắc đạo thanh tịnh, nên gọi là phạm luân;
5) Người Ấn thời xưa vốn tôn quí Phạm thiên, vì thế để tuỳ thuận theo người đời, pháp
luân cũng được gọi là phạm luân;
6) Phạm là thanh tịnh, giáo pháp của Đức Phật vốn thanh tịnh nên gọi là phạm;
7) Đức Phật là đấng Đại Phạm, luôn dùng phạm âm để thuyết pháp.
Bộ luận này cũng lý giải về sự khác biệt giữa phạm luân và pháp luân như sau: phạm
luân dạy về bốn tâm vô lượng còn pháp luân nói về bốn thánh đế, phạm luân dạy rằng
nhân bốn tâm vô lượng này mà đắc đạo còn pháp luân dạy rằng nương theo các pháp
khác mà đắc đạo, phạm luân chỉ bày về tứ thiền còn pháp luân chỉ bày về ba mươi bảy
phẩm trợ đạo, phạm luân dạy tu thiền thánh đạo còn pháp luân dạy tu trí tuệ thánh
đạo.
Theo kinh Trường Bộ I và bộ Đại Phẩm (Luật Tạng Nam Truyền I), sau khi giác ngộ,
theo lời cầu thỉnh của Phạm Thiên, Đức Phật đã quyết định đến xứ Ba-la-nại để tuyên
thuyết giáo pháp mà mình vừa chứng ngộ được cho năm nhà khổ hạnh vốn là bạn
đồng tu của Ngài. Đáp lại câu hỏi của đạo sĩ loã thể Upaka, Đức Phật đã trả lời rằng
Ngài đến thành phố Kāsi để chuyển bánh xe pháp, để đánh trống bất tử. Đây là lời
tuyên bố đầu tiên của Đức Phật trước khi Ngài chính thức thiết lập vương quốc chánh
pháp của mình. Mục đích của Đức Phật khi đến xứ Ba-la-nại như thế cũng chính là
mục đích mà chư Phật trong nhiều đời đã từng thị hiện trên thế gian này được trình
bày trong kinh Pháp Hoa: chỉ bày cho chúng sanh tri kiến của chư Phật và giúp họ thấu
hiểu và chứng đạt được tri kiến đó. Kinh Tăng Nhất A Hàm cũng nói rằng Đức Phật
xuất hiện ở đời vì năm mục đích sau: (1) chuyển pháp luân, (2) độ cha mẹ, (3) kiến lập
niềm tin cho người chưa có lòng tin, (4) khiến người chưa phát Bồ tát ý phát tâm Bồ
tát, (5) thọ ký cho các vị Phật tương lai. Cũng từ đây pháp luân trở thành biểu tượng
cho chánh pháp của Đức Phật.
9
2.3.2. Pháp Luân và sự Phát triển của tư tưởng Phật giáo
Việc Đức Phật chuyển bánh xe pháp tại Lộc Uyển để gióng lên hồi chuông tỉnh thức,
để đánh lên tiếng trống bất tử được xem là một trong bốn sự kiện quan trọng nhất
trong cuộc đời của Ngài cũng như trong lịch sử hình thành và phát triển của Đạo Phật.
Thuật ngữ thường dùng để chỉ cho sự kiện này là Chuyển pháp luân. Ngoài ý nghĩa
thông thường là chuyển vận bánh xe chánh pháp, thuật ngữ này còn mang ý nghĩa là
thành lập vương quốc trí tuệ hay xây dựng vương quốc chân lý. Vương quốc mà Đức
Phật đã khai sáng đó không phải được xây dựng trên bạo lực, cường quyền, bánh xe
pháp mà Ngài đã chuyển vận cũng không dựa trên sự áp đặt những niềm tin mù quáng,
mà ngược lại chúng được thiết lập trên nền tảng tri kiến như thị về cuộc đời và ước
nguyện xây dựng một đời sống tâm linh hướng thượng. Điều này được thể hiện ngay
trong nội dung bài pháp đầu tiên của Ngài.
Nội dung bài pháp đầu tiên của Đức Phật được ghi lại trong rất nhiều văn bản Phật học
thuộc các truyền thống khác nhau. Trong số các văn bản này, kinh Thánh Cầu (Trung
Bộ I, tương ứng với kinh La Ma trong Trung A Hàm), Nidānakathā – chương giới
thiệu của bản luận giải kinh Bổn Sanh (jātakatthakathā), kinh Chuyển Pháp Luân (nằm
trong Đại Phẩm của Luật Tạng Nam Truyền), kinh Tương Ưng, và kinh Tạp A Hàm là
những nguồn tư liệu quan trọng nhất. Điều đáng chú ý là tuy cùng thuật lại sự kiện
chuyển pháp luân của Đức Phật, các tư liệu trên lại trình bày khác nhau về nội dung
giáo lý mà Đức Phật đã giảng dạy. Kinh Thánh Cầu thuật lại rằng tại Lộc Uyển Đức
Phật đã giảng giải cho năm Tỳ-kheo về sự nguy hiểm của sanh, già, bệnh, chết, ô
nhiễm, dục lạc và con đường vượt thoát những triền phược đó để chứng pháp vô sanh,
vô nhiễm, vô thượng an ổn, vượt qua các khổ ách, chứng đắc Niết Bàn. Kinh La Ma
thì ghi rằng Đức Phật đã thuyết giảng về pháp môn Trung Đạo và Bát Chánh Đạo.
Riêng trong kinh Tương Ưng, chươngTương Ưng Uẩn (Tương Ưng III) nói rằng Đức
Phật đã dạy về đặc tính vô thường, khổ, và vô ngã của năm uẩn, còn chương Tương
Ưng Sự Thật (Tương Ưng V) thì thuật lại rằng ban đầu Đức Phật giảng về lý Trung
Đạo, Bát Chánh Đạo, sau đó Ngài giảng giải chi tiết về Tứ Thánh Đế. Theo kinh Tạp A
Hàm, quyển 15, Đức Phật đã giảng pháp Tứ Đế cho các Tỳ-kheo tại Lộc Uyển. Kinh
Chuyển Pháp Luân thì ghi lại rằng Đức Phật đã giảng dạy về lý Trung Đạo và Tứ Đế
cho năm người đệ tử đầu tiên của mình. Như thế, tuy các văn bản trên có đôi nét khác
biệt, chúng ta vẫn có thể khẳng định một điều là giáo lý chính yếu mà Đức Phật đã
thuyết giảng lần đầu tiên tại Lộc Uyển là giáo lý Tứ Đế.
Theo kinh Chuyển Pháp Luân, ngay sau khi Đức Phật thuyết giảng bài pháp đầu tiên
tại Lộc Uyển, chư thiên các cõi trời dục giới tuần tự truyền nhau rằng: “ Bánh xe Pháp
tối thượng ấy đã được đức Thế Tôn chuyển vận ở Ba-la-nại, tại Isipatana, nơi vườn nai
10
không thể bị chuyển vận nghịch lại bởi sa-môn, bà-la-môn, Thiên nhân, Ma vương,
Phạm thiên, hoặc bất cứ ai ở trên đời”. Liền khi ấy mười ngàn thế giới chấn động, một
vầng hào quang toả chiếu siêu việt cả hào quang của chư thiên các cõi trời. Khi nói
rằng bánh xe pháp không thể bị “chuyển vận nghịch lại” như thế, đoạn kinh trên đã
khẳng định một sự thật là giáo pháp của Đức Phật là bất biến, khế hợp trong mọi thời,
mọi nơi, lợi lạc cho mọi căn cơ khác nhau. Đây chính là một trong những nét độc đáo
nhất của hình tượng pháp luân trong Đạo Phật.
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một
bánh xe có thể chuyển vận hướng vể phía trước, di chuyển, lan toả đến nhiều xứ sở
khác nhau. Giáo pháp ấy vốn tự thân đã hoàn bị, sự lý viên dung, và đã được chính
Đức Phật chuyển vận ngay tại trung tâm văn hoá và tâm linh lớn nhất thời bấy giờ
trong vương quốc mà Ngài đang cư trú, đó là thành Ba-la-nại. Nếu như Vương Xá là
trung tâm chính trị và kinh tế lớn nhất của vương quốc Ma-kiệt-đà thì Ba-la-nại, một
miền đất thiêng nằm trên bờ sông Hằng được mệnh danh là thành phố của thần linh, lại
là trung tâm văn hoá và tinh thần quan trọng, là nơi qui tụ của các nhà lãnh đạo tinh
thần kiệt xuất nhất thời bấy giờ. Ngay từ khi cùng Xa-nặc từ bỏ thành Ca-tỳ-la, thái tử
Tất Đạt Đa đã khẳng khái khước từ mọi uy quyền thế trị để tìm về cội nguồn của sức
mạnh tâm linh siêu tuyệt. Chính vì thế, ngay sau khi thành đạo Ngài đã quyết định đến
Ba-la-nại, kinh thành tâm linh thời bấy giờ để gióng lên tiếng trống bất tử và chuyển
vận bánh xe chánh pháp, mang ánh sáng chân lý vào đời. Từ đây, bổn phận của những
thế hệ tiếp nối truyền thống tâm linh ấy là làm sao bảo tồn và tiếp tục chuyển vận bánh
xe pháp đến mọi phương trời khác nhau. Ý nguyện này đã được chính Đức Phật gởi
gắm cho tôn giả Xá-lợi-phất, vị hộ trì chánh pháp đệ nhất, như sau: “Này Sàriputta, ví
như trưởng tử, con vua Chuyển luân vương, chơn chánh vận chuyển bánh xe đã được
vua cha vận chuyển. Cũng vậy, này Sàriputta, Ông chơn chánh chuyển vận pháp luân
vô thượng đã được Ta chuyển vận.”
Những trình bày trên cho thấy rằng thuật ngữ pháp luân được phát sanh từ thành ngữ
chuyển pháp luân, nghĩa là chuyển vận bánh xe pháp. Do vậy hình tượng bánh xe
trong thuật ngữ pháp luân không phải ám chỉ đến sự thể nhập hay chứng ngộ chánh
pháp (như các thuật ngữ pháp nhãn, pháp huệ) mà là nhắm đến ý nghĩa truyền bá
chánh pháp. Ý nghĩa chính của chữ pháp trong thuật ngữ này được trình bày trong
kinh Chuyển Pháp Luân đó là giáo lý Tứ Đế – bốn chân lý cao thượng. Ngoài hình
tượng chuyển pháp luân, kinh điển nhà Phật còn dùng các hình ảnh: đánh trống pháp
(kích pháp cổ), thổi kèn pháp (suy pháp loa), dựng cờ pháp (thụ pháp tràng), đốt đuốc
pháp (nhiên pháp cự), tuôn mưa pháp (vũ pháp vũ)…để diễn tả việc thuyết giáo,
truyền bá chánh pháp của Đức Phật.
11
Kinh Chuyển Pháp Luân ghi lại rằng khi giảng dạy bài kinh này cho năm anh em tôn
giả Kiều Trần Như, Đức Phật đã chuyển vận bánh xe pháp mà xưa nay chưa có một ai
chuyển được, dầu đó là Thiên nhân, Ma vương hay Phạm thiên. Điều này hàm ý rằng
Đức Phật là người đầu tiên đã hiến tặng cho nhân loại món quà chánh pháp vô giá, để
từ đó hình thành ba ngôi báu của thế gian. Pháp luân mà Đức Phật đã từng chuyển vận
là vô giá bởi lẽ thể tánh của nó vốn xứng hợp với chân như, với thật tánh của vạn hữu.
Theo Luận Đại Tỳ-bà-sa, Luận Câu Xá, Kinh Đại Bát Niết Bàn…, trong hai mươi bộ
phái thì mười bộ phái đầu như Hữu bộ, Đa Văn bộ, Kinh Lượng bộ…lấy Bát Chánh
Đạo làm thể của pháp luân, mười bộ còn lại như Đại Chúng bộ, Pháp Tạng bộ, Ẩm
Quang bộ…thì cho rằng những lời Phật dạy đều là thể của pháp luân. Trong kinh
Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, Đức Phật đã minh giải thể tánh này cho ngài Di
Lặc và các bậc Bồ tát khác như sau: pháp luân vốn thâm sâu, vi diệu, khó thấy, khó
biết, khó ngộ, kiên cố, bao la, không thể dùng thức để suy nghiệm, chẳng thể dùng trí
để hiểu, lìa mọi thái cực, mọi phan duyên, xa rời tác ý hoặc không tác ý…chỉ có thể
dùng trí Kim Cang để chứng đắc. Vì pháp luân hiển bày bản tánh bất sanh bất diệt của
các pháp, khế hợp với chân như thật tế, nên những ai chuyển được pháp luân như thế
thì được tôn xưng là Phật, là Chánh Biến Tri, là Pháp Vương, là Đại Đạo Sư…Lời dạy
này đã nêu bậc giá trị vĩnh hằng và vô song của bánh xe pháp mà Đức Phật đã chuyển
vận. Giáo pháp mà Đức Phật đã chuyển vận trong lần đầu tiên tại Ba-la-nại, rồi kế đến
tại Già-da, Vương Xá, Tỳ-xá-ly, Xá Vệ…tuy khác biệt trên phương diện ngôn ngữ hay
phương thức diễn đạt, nhưng lại mang tính đồng nhất về tư tưởng và mục đích. Theo
ngài Khuy Cơ, năm đặc điểm chính của pháp luân là tự tánh, quyến thuộc, nhân, cảnh,
và quả. Tự tánh pháp luân là trạch pháp, giác chi, chánh kiến.v.v…, Nhân của pháp
luân là hay sanh giáo pháp thánh đạo như văn, tư, tư .v.v…Quyến thuộc của pháp luân
là các pháp trợ thánh đạo. Cảnh của pháp luân là các giáo lý về chơn đế và tục đế…
Quả của pháp luân là Bồ đề, Niết Bàn. Một số văn bản Đại Thừa cho rằng lần chuyển
Pháp luân tại Lộc Uyển chỉ là lần đầu trong ba lần chuyển Pháp luân của Đức Phật.
Theo kinh Giải Thâm Mật, tại Ba-la-nại Đức Phật đã chuyển bánh xe pháp lần đầu tiên
thông qua bài pháp Tứ Đế cho những hành giả có chủng tánh Thanh Văn. Dầu rằng
đây là một giáo lý thâm sâu mà trước đó chưa ai có thể tuyên thuyết được, song đây
vẫn chưa là giáo lý toàn hảo. Trong lần chuyển bánh xe pháp lần thứ hai Đức Phật vì
những chúng sanh phát tâm hướng về Đại Thừa mà giảng giải rằng các pháp vốn vô tự
tánh, vô sanh, vô diệt, bổn lai tịch tịnh, tự tánh Niết Bàn. Tuy giáo lý trong giai đoạn
này thậm thâm, hy hữu, nhưng lại là giáo lý ẩn mật, khó hiểu, còn hàm chứa nhiều
tranh luận, và đây là lý do để Đức Phật chuyển bánh xe pháp lần thứ ba. Trong lần giáo
hoá sau cùng này, Đức Phật vì các hành giả hướng tâm đến tất cả các thừa giáo, giảng
thuyết một cách minh bạch, tường tận về bản tánh vô sanh, vô diệt, vắng lặng, trong
12
sạch cũng như tánh vô tự tánh của các pháp. Pháp luân được chuyển vận trong lần sau
cùng này là hy hữu, không vướng đọng bất kỳ tranh luận nào, toàn hảo, và tối thượng.
Bản kinh này được xem là cơ sở y cứ để các nhà Đại Thừa sau này, nhất là các luận sư
Phật giáo Trung Hoa và Tây Tạng đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau về ba lần
chuyển bánh xe pháp của Đức Phật.
Nếu như sự khác biệt về giáo nghĩa của lần chuyển pháp luân đầu tiên và hai lần sau là
tư tưởng giáo lý Thanh Văn thừa và Đại thừa, thì sự khác biệt giữa lần chuyển pháp
luân thứ hai và thứ ba là Bất liễu nghĩa giáo (hay vị liễu nghĩa – neyārtha) và Liễu
nghĩa giáo (nītārtha). Liễu nghĩa giáo là những giáo lý, kinh điển được trình bày một
cách minh bạch, tường tận, còn Bất liễu nghĩa giáo là những kinh điển hay giáo lý
được trình bày thông qua những phương tiện hay giáo tướng để tuỳ thuận giáo hoá
chúng sanh thuộc nhiều căn cơ khác nhau. Theo luận sư Long Thọ, Phật pháp thì vô
biên, sâu rộng như đại dương, hàng phàm phu thấy giáo pháp có muôn vàng sai khác,
nhưng các bậc trí – những người đã thâm nhập giáo lý của kinh điển, luận tạng và tánh
không, thì mới biết được rằng giáo pháp của Đức Phật đều là chánh pháp và không hề
tương phản nhau. Cũng chính vì sự cách biệt giữa giáo pháp thâm áo của Đức Phật và
tri thức thế tục của hàng phàm phu nên đại sư Tsong kha pa (Tông-khách-ba) đã
khuyến hoá các hàng Phật tử nên tìm hiểu giáo lý của Đức Phật dựa trên những luận
giải của các bậc tổ sư Đại thừa như các ngài Long Thọ và Vô Trước. Ngài Tsong kha
pa giải thích rằng sở dĩ hàng Phật tử phải y cứ vào các bản luận giải của những bậc tổ
sư trên vì các ngài đã dùng trí tuệ vô nhiễm để giảng giải lời Phật dạy, và chính Đức
Phật cũng đã từng huyền ký rằng các bậc tổ sư này chính là những người giảng giải
Phật pháp một cách chuẩn xác và đúng đắng.
Theo ngài Tsong kha pa, cơ sở của sự phân định ba thời chuyển pháp luân không phải
là các khoảng thời gian hành đạo trong cuộc đời của Đức Phật hay là căn cơ của thính
chúng trong mỗi thời giáo, mà chính là cách thức trình bày giáo lý vô ngã trong mỗi
thời như thế. Trong lần chuyển pháp luân đầu tiên, Đức Phật đã trình bày tinh tế về
nguyên lý nhơn vô ngã, nhưng khi tiếp nhận giáo lý trong giai đoạn này thính chúng
lại khởi lên tư duy rằng các uẩn cùng những pháp khác vốn là thật có. Trong lần
chuyển pháp luân thứ hai, Đức Phật phủ nhận quan điểm này và Ngài tuyên bố rằng
các pháp vốn không có tự tánh nên chúng không thật có. Trong lần chuyển pháp luân
thứ ba, Đức Phật đã lý giải sự khác biệt giữa tam tánh và tam vô tánh của các pháp.
Tương tự như cách lý giải của luận sư Tsong kha pa, các học giả phái Dge lugs pa đều
cho rằng sự phân chia của ba lần chuyển pháp luân như trên được thực hiện trên cơ sở
đề tài thuyết giáo của Đức Phật và rằng phương thức trình bày giáo lý vô ngã chính là
yếu tố quyết định đối với sự phân chia như thế.
13
Tại Trung Hoa, Chân Đế (499-569) và Huyền Trang (600-664), hai nhà dịch kinh danh
tiếng, cũng đưa ra những thuyết tam pháp luân khác nhau. Theo ngài Chân Đế, trong
45 năm hoằng hoá của Đức Phật, Ngài đã tuyên thuyết ba pháp luân, đó là chuyển,
chiếu, và trì. Ba lần chuyển này gồm có hiển và mật. Mật là từ đêm thành đạo cho đến
đêm nhập Niết Bàn, Ngài đều chuyển ba pháp luân. Hiển là trong bảy năm đầu tiên kể
từ sau ngày thành đạo, Đức Phật chỉ thuyết giảng giáo lý tứ đế, gọi là chuyển chuyển
pháp luân. Trong 31 năm kế tiếp, Ngài tuyên thuyết kinh Bát nhã .v.v…để hiển bày về
tính không, gọi là chuyển chiếu pháp luân, trong thời gian bảy năm còn lại, Ngài
thuyết Kinh Giải Thâm Mật.v.v…để hiển bày lý trung đạo, gọi là chuyển trì pháp luân.
Trong tác phẩm Hoa Nghiêm Nhất Thừa Giáo Nghĩa Phân Tề Chương, ngài Pháp Tạng
cho rằng nếu y cứ vào quan điểm của pháp sư Huyền Trang và tư tưởng của những
kinh điển khác như Giải Thâm Mật, Kim Quang Minh, và Luận Du Già thì giáo lý của
Đức Phật gồm thâu trong ba loại pháp luân: thứ nhất, tại vườn nai Đức Phật chuyển
pháp luân tứ đế, là pháp tiểu thừa, gọi là chuyển pháp luân; thứ hai, Ngài nói về tánh
không, tức mật ý của Đại Thừa, gọi là chiếu pháp luân; thứ ba, Ngài thuyết giảng về
tam tánh và lý chân như bất không của Đại Thừa hiển giáo, gọi là trì pháp luân. Theo
quan điểm của ngài Khuy Cơ, tuy được chia thành ba thời chuyển pháp luân như thế,
song giáo pháp của Đức Phật giống như một cơn mưa lớn, thấm nhuần khắp mọi vật.
Vì để tuỳ thuận căn cơ mà đối trị, nên mới có pháp ẩn-hiển, có-không. Xét theo lý
trung đạo, giáo pháp ấy vốn đồng nhất, vô sai biệt. Thuyết tam pháp luân của ngài Cát
Tạng thì khác hẳn với những thuyết trên. Theo ngài, pháp luân bao gồm ba loại; căn
bổn, chi mạt, và nhiếp mạt qui bổn. Căn bổn pháp luân chỉ cho kinh Hoa Nghiêm mà
Đức Phật tuyên thuyết đầu tiên ngay sau khi thành đạo. Chi mạt pháp luân là giáo pháp
tiểu thừa được thuyết cho hàng độn căn, không lãnh hội được giáo nghĩa thâm sâu của
Hoa nghiêm. Nhiếp mạt qui bổn là chỉ cho thời thuyết giáo Pháp Hoa qui ba thừa
thành nhất thừa. Căn cứ vào những luận cứ trên của kinh Giải Thâm Mật và của các
luận sư Đại Thừa, một số nhà Phật học kết luận rằng nội dung của ba lần chuyển pháp
luân như sau: lần thứ nhất, thông qua kinh điển và luận tạng của hai phái Nguyên Thuỷ
và Tiểu thừa, giáo lý Tứ Đế được giảng thuyết cho các hành giả Thanh văn thừa; trong
lần thứ hai, nguyên lý tánh không được tuyên thuyết cho các hành giả Bồ tát thừa, kinh
điển y cứ tiêu biểu trong giai đoạn này là các bộ kinh hệ Bát Nhã; và trong lần cuối,
với hệ thống kinh điển Đại thừa tối quan trọng như Pháp Hoa, Như Lai Tạng, Giải
Thâm Mật…giáo lý tam tự tánh, tam vô tánh, Phật tánh, Như Lai tạng, pháp thân…
được tuyên thuyết làm hành trang cho các hành giả Đại thừa.
2.3.3. Pháp Luân trong kiến trúc, nghệ thuật Phật giáo
14
Sự kiện Đức Phật chuyển pháp luân là một trong những đề tài chính của các nhà điêu
khắc Phật giáo tại Ấn Độ. Pho tượng Đức Phật ngồi kiết già, tay bắt ấn chuyển pháp
luân tuyệt đẹp được tìm thấy tại Lộc Uyển là pho tượng tiêu biểu nhất cho đề tài này.
Hầu như mẫu tượng này đều xuất hiện trong hầu hết các công trình nghệ thuật Phật
giáo lớn tại Ấn. Đối với các nghệ nhân Ấn, hình ảnh Đức Phật ngồi trên một pháp toà,
tay bắt ấn pháp luân với nhiều tư thế, dáng vẻ khác nhau, có khi được kết hợp với hình
ảnh của năm vị Tỳ kheo hoặc hình ảnh của những con nai, đã phần nào vẻ lại khung
cảnh ý nghĩa trong lần chuyển pháp luân đầu tiên của Đức Phật. Có thể rằng khi thuyết
giảng cho năm anh em tôn giả Kiều Trần Như, Đức Phật đã dùng các cử chỉ của tay để
minh hoạ cho những ý tưởng khó có thể thể hiện qua ngôn ngữ thông thường. Tất
nhiên, trong suốt buổi pháp thoại, những cử chỉ, động tác của hai tay của Ngài được
thể hiện qua nhiều dáng vẻ khác nhau. Đây là cơ sở để các nghệ nhân Ấn diễn tả tư thế
hai tay của Đức Phật trong buổi giảng pháp đầu tiên tại Lộc Uyển (ấn chuyển pháp
luân) và trong các buổi giảng khác của Ngài (ấn pháp luân) tại những nơi khác nhau.
Ấn chuyển pháp luân được thể hiện qua pho tượng chuyển pháp luân tại Lộc Uyển như
sau: bàn tay phải nâng lên ngang ngực, lòng bàn tay hướng ra ngoài, đầu hai ngón cái
và ngón trỏ tiếp xúc nhau tạo nên một vòng tròn huyền nhiệm, trong khi đó bàn tay trái
được nâng nhẹ lên, lòng bàn tay hướng vào bên trong, ngón giữa chạm nhẹ vào điểm
tiếp xúc trên. Trong một bích hoạ tại Ajaṇṭā, hai tay nâng lên ngang ngực, tay trái nắm
chéo y, ngón trỏ và ngón cái của bàn tay phải chạm vào nhau và dường như ấn nhẹ trên
ngón tay của bàn tay trái. Cũng trong thạch động này một bức hoạ khác diễn tả hai tay
nâng lên trong tư thế chuyển pháp luân, nhưng không chạm nhau. Trong một tác phẩm
nghệ thuật khác thuộc trường phái Gandhāra, bàn tay phải co đều lại, lòng bàn tay
hướng vào trong, ngón cái và ngón trỏ của bàn tay trái đặt phần dưới của lòng bàn tay
phải, các ngón khác đều co lại. Các ấn chuyển pháp luân tại Tây Tạng và Trung Hoa
đều có nét tương đồng nhau: tay phải đặt ngang ngực, lòng bàn tay hướng ra ngoài,
ngón trỏ và ngón cái chạm vào nhau, ngón trỏ và ngón cái của bàn tay trái cũng chạm
vào nhau, lòng bàn tay hướng vào trong, đôi khi tay trái che phần dưới hoặc che hơn
một nữa lòng bàn tay phải.
Trong lĩnh vực nghệ thuật, hình tượng pháp luân cũng trở thành một biểu tượng phổ
biến trong các công trình kiến trúc Phật giáo. Thông thường pháp luân được thể hiện
qua hình ảnh của một bánh xe có tám nan hoa. Trục của bánh xe tượng trưng cho giới
luật, vành bánh xe tượng trưng cho trạng thái chuyên nhất của thiền định, tám nan hoa
tượng trưng cho Bát thánh đạo, và tâm điểm của bánh xe thường đượckhắc thành bốn
dòng xoắn, mỗi dòng được tô mỗi màu khác nhau để chỉ cho bốn phương và cũng để
tượng trưng cho Tứ thánh đế hay bốn đại (đất, nước, gió, lửa). Một số biểu tượng bánh
xe trong các bảo tháp, chùa chiền của Phật giáo còn được khắc hoạ với 12, 16, 32, hay
15
vô số nan hoa với ý nghĩa biểu trưng cho 12 chi phần duyên khởi, 16 đặc tính của
nguyên lý tánh không, 32 tướng hảo của bậc giác ngộ, và vô số tia sáng của măt trời,
vô số Đức Phật trong vũ trụ, hay vô số giáo lý, pháp môn mà Đức Phật Thích Ca đã
giảng dạy. Các tác phẩm điêu khắc từ TK I Tr. CN tại tháp Sanchi còn lưu lại hình
tượng bánh xe tượng trưng cho pháp luân. Bánh xe này được khắc hoạ một cách cân
đối và đặt trên một bệ đá hai tầng cùng với hình ảnh của nhiều người lễ bái xung
quanh. Theo nhà khảo cổ Cunningham, bánh xe là biểu tượng chính trên đỉnh của mỗi
cổng tại tháp Sanchi. Cổng phía Nam của tháp Barhut (đầu TK I Tr. CN) cũng còn lưu
lại hình ảnh bánh xe đặt trên một cái bệ bao quanh là dáng của một ngôi điện thờ. Điều
đáng chú ý là trục và vành của bánh xe được trang hoàng với nhiều vòng hoa, xung
quanh đó là cảnh những người hành hương đi chân đất hay đi xe tứ mã đến cúng bái
tại điện thờ trên. Điều này cho thấy là bánh xe đã được dùng làm biểu tượng cho chính
Đức Phật. Trong giai đoạn đầu của nghệ thuật Phật giáo tại Ấn Độ, khi mà hình ảnh
của Đức Phật chưa được khắc hoạ, thì các chủ đề nghệ thuật chính là những di vật gắn
liền với cuộc đời của Đức Phật như là: cây bồ đề, toà kim cang, hoa sen, dấu
chân.v.v…Nếu như những di vật này nhắc đến những sự kiện trong cuộc đời Đức Phật
thì bánh xe lại là hình ảnh tượng trưng cho chính Đức Phật, hay nói một cách chính
xác hơn, là pháp thân của Đức phật. Điều mà chúng ta dễ nhận biết là trong các văn
bản Phật học Pali, các thuật ngữ Báo thân và Ứng hoá thân vẫn chưa xuất hiện. Riêng
thuật ngữ pháp thân được ghi lại trong những đoạn kinh quan trọng như “Như Lai có
thể được gọi là Pháp thân (Dhammakāya) hay Phạm thân (Brahmakāya)” (Trường Bộ
III), hay “Ai thấy pháp là thấy Ta (Phật)” (Tương Ưng III). Do vậy, một khi pháp luân
được dùng để biểu trưng cho Đức Phật, thì nó cũng biểu trưng cho Pháp thân của Ngài.
Khi nói đến nhân cách và con người của Đức Phật, kinh điển Pali thường tôn xưng
Ngài là bậc Đại nhơn (Mahāpurisa), Nhật Chủng (Ādicca-bandhu), Chuyển Luân
Thánh Vương (Rājā cakkavattī), Thiên Trung Thiên (Devātideva)…để nói lên phẩm
tính siêu việt của Ngài. Cách tôn xưng Đức Phật là bậc Đại Nhơn hay Chuyển Luân
Thánh Vương chỉ mang tính tương đối bởi lẽ ngoài ngoài những phước báu về tướng
hảo và vẻ đẹp vốn có của một vị Đại Nhân hay của một vị Chuyển Luân Thánh
Vương, Đức Phật còn là một bậc giác ngộ, và chính vì thế Ngài đã từng khẳng định
rằng : “Ta không phải là thiên nhân, Càn-thát-bà, Dạ-xoa, hay phàm nhân.” (Tăng Chi
II). Đôi khi Đức Phật cũng được tôn xưng là Chuyển Luân Vương, nhưng vương quốc
của Ngài không phải bốn châu thiên hạ mà chính là vương quốc chánh pháp. Có một
lần Bà-la-môn Sela được chiêm ngưỡng ba mươi hai tướng tốt của Đức Phật, ông liền
tán thán Đức Phật như một vị luân vương, bậc Điều Ngự, Đại Vương…, Đức Phật bèn
đáp lại rằng Ngài cũng là vua, nhưng vương quốc của Ngài là chánh pháp, Ngài cũng
chuyển bánh xe báu (như Chuyển Luân Vương chuyển điều khiển xe báu để cai trị
16
thiên hạ), nhưng bánh xe pháp của Ngài không thoái chuyển (Kinh Sela, Trung Bộ II).
Nếu như bánh xe trong nền văn hoá cổ xưa của Ấn Độ tượng trưng cho mặt trời, cho
uy quyền tối thượng, cho Chuyển Luân Thánh Vương, thì hình tượng bánh xe trong
Phật giáo lại tượng trưng cho giáo pháp của Đức Phật và cho chính Đức Phật. Chuyển
Luân Thánh Vương dùng xe báu để hàng phục các oán địch, cai trị thiên hạ, giữ yên bờ
cõi, còn Đức Phật chuyển vận bánh xe pháp để nhiếp phục, đoạn trừ phiền não trong
tâm thức của chúng sanh.
2.3.4. Biểu tượng Pháp Luân tại Lộc Uyển
Có thể nói hình tượng pháp luân quan trọng bậc nhất hiện còn lưu lại là pháp luân
được gắn trên phần đỉnh của trụ đá được tôn trí tại Lộc Uyển để đánh dấu nơi Đức
Phật chuyển pháp luân theo sắc chỉ của vua A Dục. Vào năm 1905 F.O. Oertel đã phát
hiện ra những phần bị gãy của trụ đá này và trên thân trụ đá này có khắc chỉ dụ của
vua A Dục. Trên đỉnh của trụ đá này là tượng của bốn con sư tử xoay về bốn hướng
trông vô cùng oai hùng và mạnh mẽ. Bên trên bốn con sư tử này là hình tượng pháp
luân. Bốn con sư tử này ngồi trên một cái trống được khắc hoạ với bốn con thú khác
nhau: sư tử, voi, bò, và ngựa. Giữa bốn con thú này là hình bốn bánh xe. Đánh giá về
nét điêu khắc phần đỉnh của trụ đá này, nhà nghiên cứu V.A. Smith đã đưa ra lời bình
phẩm như sau: “Thật khó tìm thấy ở một đất nước nào một mẫu điêu khắc thú cổ xưa
độc đáo hơn hoặc tương đương với công trình nghệ thuật tuyệt đẹp này, một tác phẩm
đã kết hợp thành công giữa phẩm cách lý tưởng và khuôn mẩu thực tế, và được hoàn
thành với từng chi tiết hết sức chuẩn xác”. Hình tượng pháp luân này tại Lộc Uyển về
sau đã được mô phỏng và khắc hoạ cùng với hình tượng của hai con nai nằm hai bên
trong tư thế tự tại, chú tâm, và hỷ lạc. Nai bên phải có dáng vẻ oai phong, mạnh mẽ
tượng trưng cho con đực và con bên trái có nét nhu mì, mềm mại của con cái. Ngoài ý
nghĩa biểu trưng cho sự kiện chuyển pháp luân đầu tiên tại Lộc Uyển, hình tượng pháp
luân và đôi nai như thế còn nói lên được cái đẹp của đời sống viễn ly, xuất trần theo
chánh pháp, cũng như tư tưởng từ bi, bất bạo động, cộng sinh, sự hài hoà giữa con
người và muôn vật, giữa hữu tình và vô tình theo giáo lý duyên sanh và vô ngã của
Đạo Phật.
Như một hồi chuông thanh thoát ngân xa mãi trong vũ trụ vô biên, như ánh sáng của
vầng thái dương lan toả khắp mọi nơi, len sâu vào những nơi tối tăm nhất của quả địa
cầu, âm vang tình thương và ánh sáng tuệ giác mà Đức Phật đã khơi nguồn từ xứ Bala-nại ngày xưa đã lan toả khắp nơi trên hoàn vũ, thấm sâu vào huyết mạch của hàng
triệu con tim, từ những bậc đế vương cho đến những kẻ khốn cùng bất hạnh. Bánh xe
pháp của Ngài đã chuyên chở những đạo sĩ khổ hạnh như Kiều Trần Như đến cảnh
giới thánh thiện, đã biến niềm đam mê dục lạc của kỷ nữ Ambapālī thành niềm đam
17
mê chánh pháp, đã chuyển hoá sự khát máu của Vô Não thành niềm khát khao thánh
quả, đã chuyển xoay tham vọng viễn chinh của vua A Dục thành một cuộc chinh phục
tự thân. Tuy là một Phật tử tại gia, vua A Dục đã hoàn thành xuất sắc sứ mạng tiếp nối
và chuyển vận bánh xe pháp của Đức Phật trong khắp vương quốc mình, rồi sau đó
đến những quốc gia lân cận và những miền đất xa xôi. Cũng chính nhà vua đã cử các
sứ đoàn Phật giáo đến nhiều quốc gia khác nhau để thực hiện sứ mạng đó. Nhờ sự
chuyển vận bánh xe pháp đó của vua A Dục, khi Ấn Độ bị các thế lực ngoại bang xâm
lược, Phật giáo dù bị suy vi trên mảnh đất quê hương, nhưng lại cắm rễ, sinh sôi và lớn
mạnh trên những miền đất khác. Bánh xe pháp vô hình, vô tướng mà Đức Phật đã
chuyển vận tại Lộc Uyển đã được vua A Dục, vài trăm năm sau đó, cho khắc hoạ trên
những trụ đá sư tử oai phong với ước vọng là giáo pháp của Đức Phật như tiếng rống
của loài thú uy dũng này sẽ vang vọng mãi, sẽ được chuyển vận mãi cho đến tận ngàn
sau. Điều kỳ diệu là bánh xe pháp mà vua A Dục đã cho dựng trên trụ đá sư tử tại Lộc
Uyển xưa kia đã trở thành biểu tượng thiêng liêng trên quốc kỳ Ấn và tung bay phấp
phới trên toàn cõi Ấn Độ. Hình sư tử trên đầu trụ đá ấy cũng đã trở thành quốc huy của
đất nước này. Sau khi Ấn Độ giành được độc lập từ sự tranh đấu theo đường hướng bất
bạo động do Mahatma Gandhi khởi xướng, trong lúc hội đồng lập hiến của Ấn đang
bận rộn với việc soạn thảo hiến pháp cho đất nước, thì vấn đề lựa chọn biểu tượng cho
quốc kỳ và quốc huy của Ấn đã được các nhà lãnh đạo quốc gia bàn bạc kỷ lưỡng. Sau
một thời gian làm việc nghiêm túc, cuối cùng hình tượng sư tử trên đầu trụ đá vua A
Dục và pháp luân của Đức Phật đã được các nhà lãnh đạo Ấn chọn làm biểu tượng của
quốc gia. Vào lúc 10 giờ sáng ngày 22-07-1947 trước sự hiện diện của tổng thống
Rajendra Prasad và hội đồng lập hiến, Jawaharlal Nehru, vị Thủ tướng đầu tiên của Ấn
Độ độc lập đã dõng dạt tuyên bố: “Quyết nghị rằng quốc kỳ của Ấn Độ sẽ gồm ba dải
màu vàng nghệ, trắng và xanh lá cây đậm nằm ngang cân đối nhau. Giữa dải màu
trắng sẽ là một bánh xe màu xanh nước biển tượng trưng cho Chakra. Mẫu bánh xe
này lấy theo mẫu bánh xe nằm trên đỉnh của trụ đá đầu hình sư tử của vua A Dục tại
Sarnath…Khi đề cập đến tên tuổi của A Dục, tôi muốn các vị biết rằng giai đoạn A
Dục vốn là một giai đoạn quốc tế của lịch sử Ấn Độ. Đó không phải là một giai đoạn
quốc gia nhỏ hẹp. Đó là một giai đoạn khi mà các nhà đại sứ của Ấn Độ được gởi đi
khắp nơi, đến tận những đất nước xa xôi, không phải theo lối của một đế quốc và chủ
nghĩa đế quốc, mà họ là những vị sứ giả của hoà bình, của thiện chí và văn hoá”. Sau
khi được hội đồng lập hiến thông qua, ngày 15-08-1947 pháp luân của Đức Phật đã
chính thức trở thành biểu tượng cho sự tự do, thịnh vượng, và hạnh phúc của nhân dân
Ấn Độ. Giải thích về việc chọn pháp luân làm biểu tượng quốc gia như trên, tiến sĩ
Ambedkar, cha đẻ của bản hiến pháp Ấn Độ đã nói: “Khi vấn đề quốc kỳ và quốc huy
được hồi đồng lập hiến xem xét, chúng tôi không thể tìm được một biểu tượng thích
18
hợp nào từ văn hoá Bà-la-môn. Cuối cùng, văn hoá Phật giáo đã cứu nguy cho chúng
tôi và chúng tôi đã nhất trí dùng pháp luân (Dharma-Chakra) làm biểu tượng của quốc
gia.”
Chương 3: Triết lý sống qua hình tượng Bánh xe trong Phật giáo
3.1. Tiếp xúc với sự sống
Trong sự vận hành của dòng đời, cuộc sống của mỗi người như một bánh xe đang lăn
đều trên đường đời. Điều thú vị là tuy chu vi của bánh xe này rất lớn, nhưng sự tiếp
xúc của bánh xe với mặt đất chỉ là một điểm nhỏ mà thôi. Như vậy, những giá trị sống
động nhất, thiết thực nhất của sự vận hành bánh xe này không phải ở những điểm đã đi
qua hay những điểm chưa tiếp xúc với mặt đất trên bánh xe mà chính là điểm đang tiếp
xúc trong hiện tại. Cũng thế đạo Phật xem cuộc sống trong giây phút hiện tại của mỗi
người là mấu chốt để chế tác niềm hạnh phúc trong cuộc sống này. Những gì trong quá
khứ, dù thất bại đắng cay hay thành công mãn nguyện đều chỉ còn trong ký ức và
những ước vọng về tương lai chỉ là ảo ảnh trong tâm trí mỗi người mà thôi. Hiện tại là
thời khắc thể hiện sự sống đích thực, linh động của mỗi người.
Để tạo dựng một cuốc sống có hạnh phúc và an lạc thực sự, con người cần phải nhận
diện và tiếp xúc với những gì mình đang có trong hiện tại. Sống với hiện tại là cuộc
sống thực và qua đó con người mới cảm nhận được những giá trị đích thực của cuộc
sống. Đó là cuộc sống thực và mầu nhiệm vô cùng.
3.2. Giáo pháp: Tâm điểm của Phật giáo
Đức Phật từng dạy rằng ai thấy (hiểu và thể nghiệm) giáo pháp, người ấy thấy Phật.
Trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật dạy ngài A Nan sau khi Ngài nhập diệt nên xem
giáo pháp làm thầy, làm ngọn đèn, nên nương tựa vào giáo pháp. Pháp mà đức Phật
chứng ngộ trong đêm thành đạo cũng chính là pháp mà chư Phật quá khứ và tương lai
đã và sẽ chứng ngộ. Do vậy, những gì đức Phật đã giảng dạy là những chân lý về khổ
và con đường thoát khổ, song an lạc trong cuộc đời mà chư Phật ba đời đã giảng dạy.
Đức Phật không cho phép hàng đệ tử tôn thờ mình như một vị thượng đế, một chúa tể
đầy quyền năng, mà chỉ nên xem Ngài là một vị thầy dẫn đường mà thôi. Những ai
sống đúng với chánh pháp và vận chuyển bánh xe pháp là người học trò xứng đáng
19
trong giáo pháp của đức Phật. Đạo Phật không lấy đức Phật làm trọng tâm, mà là lấy
giáo pháp làm trọng tâm. Khi nào giáo pháp này còn được giữ gìn và hành trì thì Phật
pháp còn tồn tại trên thế gian này.
3.3. Sự tiến bộ của tri thức và đạo đức
Sự vận hành của bánh xe pháp trong xã hội hôm nay luôn bao hàm hai ý nghĩa sâu xa:
1. Giáo pháp của đức Phật luôn mang tính tùy duyên nhưng bất biến. Phật giáo trong
mỗi địa phương, quốc gia, mỗi thời đại mang một sắc thái riêng, nhưng tựu trung cùng
hướng đến đời sống tỉnh thức và giải thoát; 2. Cuộc sống luôn là một sự vận động,
biến đổi không ngừng. Nền văn minh khoa học đang tiến nhanh như vũ bão, nhưng
nếu con người chỉ chú trọng đến sự phát triển về vật chất mà thiếu sự tiến bộ về mặt
tinh thần hay tâm linh thì con người sẽ rơi vào những khủng hoảng tâm lý trầm trọng,
và đó sẽ là nguyên nhân đưa đến những đổ vỡ hạnh phúc cá nhân, gia đình, và xã hội.
Do vậy, nếu hành trình của một đời người là một cổ xe, thì cổ xe đó phải gồm hai bộ
bánh song hành vật chất và tinh thần. Đời sống tâm linh là một yếu tố cần thiết để giải
tỏa những trở ngại trong đời sống tinh thần, tạo sự quân bình cần thiết trong đời sống
thường nhật của mỗi người. Vì thế, từ quan điểm của Phật giáo, song hành với bánh xe
văn minh, cần phải có bánh xe chánh pháp để tạo nên sự hài hòa và hạnh phúc của loài
người.
3.4. Chuyển biến của thế giới tâm linh
Thế giới tâm linh là một là một thế giới mà ở đó mỗi hành giả đi trên một lộ trình từ
thấp đến cao, từ phàm đến thánh, như một bánh xe đang vượt lên đồi núi chập chùng.
Càng lên cao, thế giới càng kỳ ảo, tuyệt mỹ, nhưng gian nan và khó khăn cũng nhiều
hơn. Do đó, hành giả tâm linh cần phải có nhiều nghị lực, sự kiên nhẫn và quyết tâm
mạnh mẽ mới thành tựu sở đắc tâm linh của mình.
20
KẾT LUẬN
Trong số những biểu tượng phỗ biến trong Phật giáo, có lẽ pháp luân là biểu tượng
quan trọng nhất bởi lẽ nó biểu thị cho cốt tủy của Phật giáo: giáo pháp của đức Phật.
Từ một biểu vốn dĩ đã xuất hiện lâu đời trong văn hóa Ấn cổ xưa, đức Phật đã xử dụng
hình ảnh này để làm biểu tượng chính cho Phật giáo ngay khi Ngài dạy bài pháp đầu
tiên trong cuộc đời hoằng hóa của mình tại vườn Nai, đó là kinh Chuyển Pháp Luân.
Giáo pháp của Phật giáo được truyền thừa liên tục cũng như một bánh xe được vận
chuyển từ quá khứ cho đến hiện tại, từ hiện tại cho đến tương lai. Với biểu tượng này,
Phật giáo luôn hướng đến một ước vọng hướng thượng và thăng hoa trong đời sống
mỗi người. Cuộc sống là một cái gì đó luôn thay đổi liên tục, nhưng những thay đổi đó
được hướng theo tinh thần đạo đức và tâm linh trong sang thì nó sẽ mang đến nhiều
hạnh phúc cho đời người.
21