Tải bản đầy đủ (.doc) (337 trang)

Án lệ hình sự ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 337 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH MẬN

ÁN LỆ HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 9.38.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT
HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS TS. Trần Văn Độ

Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả. Các số
liệu, trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Luận án
không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

NCS Nguyễn Thanh
Mận



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
Chương 1.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU VỀ ÁN LỆ HÌNH SỰ...........11
1.1.Tình hình nghiên cứu...................................................................................... 11
1.2.Nhận xét về tình hình nghiên cứu....................................................................33
1.3.Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu..................................................36
Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁN LỆ HÌNH SỰ, XÂY
DỰNG VÀ ÁP DỤNG ÁN LỆ HÌNH SỰ.........................................................40
2.1.Khái niệm, bản chất, đặc điểm và vai trò của án lệ hình sự.............................40
2.2.Khái niệm, đặc điểm và những nguyên tắc xây dựng án lệ hình sự.................53
2.3.Khái niệm, đặc điểm và các nguyên tắc áp dụng án lệ hình sự........................64
Chương 3. THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ ÁP DỤNG ÁN LỆ HÌNH SỰ Ở
VIỆT NAM......................................................................................................... 78
3.1.Thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ hình sự..................................................78
3.2.Đánh giá thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ hình sự.................................. 102
Chương 4. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÂY
DỰNG VÀ ÁP DỤNG ÁN LỆ HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM..............................121
4.1.Yêu cầu xây dựng, phát triển án lệ hình sự....................................................121
4.2.Các giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng, áp dụng án lệ hình sự.............127
KẾT LUẬN.......................................................................................................148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................152


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ALHS

Án lệ hình sự


BLHS

Bộ luật hình sự

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình

sự TAND Tòa án nhân dân
TANDTC

Tòa án nhân dân Tối

cao XHCN Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Án lệ chính thức được thừa nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam là
bước ngoặc lớn, đánh dấu sự đột phá trong quá trình cải cách tư pháp. Từ những
định hướng về cải cách tư pháp trong các Nghị quyết của Đảng, những quy định
của Hiến pháp và pháp luật, TANDTC đã và đang tích cực xây dựng các đề án,

triển khai thực hiện một cách khẩn trương, quyết liệt, cho ra đời những án lệ nói
chung, án lệ hình sự nói riêng, phục vụ cải cách tư pháp, nhằm thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ bảo vệ công lý, hướng tới xây dựng Tòa án thân thiện, gần dân, là chỗ
dựa tin cậy của nhân dân và xã hội trong giai đoạn mới.
Thứ nhất, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong nội dung cải
cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Việc quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp
luật chỉ là một yếu tố cần nhưng chưa đủ của một nhà nước pháp quyền. Nhà
nước pháp quyền đòi hỏi pháp luật phải được áp dụng một cách thống nhất. Việc
Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật thể hiện ở những vụ án giống nhau thì phải
được xử như nhau. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị
Về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48) nhấn mạnh: Xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai
trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính
trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần
đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

1


Để thực hiện nhiệm vụ trên, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số
49), đã khẳng định: Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm
xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám
đốc thẩm và tái thẩm. Đây là một sự chuyển biến lớn về đường lối. Việc thừa

nhận và áp dụng án lệ chính là phương thức hiệu quả để khắc phục các khiếm
khuyết của pháp luật, đảm bảo việc áp dụng thống nhất trong xét xử, tạo tính ổn
định, minh bạch và tiên liệu được trong các phán quyết của Tòa án.
Án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng từ lâu đã trở nên rất phổ biến và
vượt ra khỏi biên giới của truyền thống thông luật, trở thành nguồn pháp luật của
nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới. Đó là kết quả tất yếu của quá trình toàn
cầu hóa, hội nhập, hợp tác diễn ra mạnh mẽ trong đời sống kinh tế, chính trị và
pháp luật của thế giới hiện đại. Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, các vấn đề về quan hệ tranh chấp, phát sinh trong hoạt động kinh
tế, các loại hình tội phạm ở Việt Nam có xu hướng diễn biến phức tạp hơn với
nhiều hình thức tinh vi hơn. Luật thành văn đã dần bộc lộ những lỗ hổng cần
phải được bổ sung và hoàn thiện. Quán triệt sâu sắc quan điểm trong Nghị quyết
số 48 và Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị là một yêu cầu cấp thiết. Thừa nhận
và áp dụng án lệ là phù hợp với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó,
theo quy định thì Hội đồng Thẩm phán TANDTC có trách nhiệm hướng dẫn các
Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, có thể thực hiện thông qua việc ban hành
Nghị quyết hướng dẫn áp dụng pháp luật và cũng có thể thông qua tuyển chọn,
công bố án lệ.
Thứ hai, thực tiễn áp dụng pháp luật thành văn trong xét xử các vụ án hình
sự ở Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu nhưng vẫn tồn tại những vướng mắc chưa
được giải quyết. Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới là thừa nhận án lệ,
nhằm giải quyết những vướng mắc trong hoạt động xét xử mà luật thành văn
chưa rõ ràng hoặc chưa có quy phạm điều chỉnh. Án lệ đã và đang trở nên phổ
biến, góp phần khắc phục những lỗ hổng của luật thành văn. Chẳng hạn, đối với
2


các nước theo hệ thống pháp luật Common law (Thông luật), đại diện là Anh và
Mỹ. Án lệ ra đời từ thế kỷ thứ X, quốc gia đặt nền tảng cho sự ra đời của án lệ là
Anh quốc. Mặc dù án lệ xuất hiện sớm nhưng hình thức án lệ của nước Anh đã

thể hiện được giá trị nhất định so với các loại nguồn khác như: Án lệ mang tính
thực tiễn cao; án lệ có khả năng khắc phục những lỗ hổng pháp luật một cách
nhanh chóng và kịp thời; án lệ thể hiện tính khách quan và công bằng. Do đó,
trong hệ thống pháp luật Common law, án lệ được coi là một trong những nguồn
luật áp dụng bắt buộc. Với giá trị nêu trên, án lệ nhanh chóng được thừa nhận và
áp dụng ở các hệ thống pháp luật khác trên thế giới như: Án lệ ở hệ thống pháp
luật Cilvil law (châu Âu lục địa), án lệ ở các nước Bắc Âu, án lệ ở các quốc gia
Đông Á như Nhật Bản… Riêng đối với lĩnh vực hình sự, các hệ thống pháp luật
kể trên đều thừa nhận án lệ là nguồn của luật hình sự. Án lệ hình sự góp phần bổ
sung, khắc phục những lỗ hổng của luật thành văn hoặc giải quyết những vụ án
có hành vi, tình tiết chưa thống nhất, còn có nhiều cách hiểu khác nhau.
Trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay, nhiều vụ
án có cùng hành vi, tình tiết tương tự nhau nhưng còn tồn tại cách hiểu khác
nhau, dẫn đến việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất, đưa đến hệ quả xét xử là
khác nhau. Thực tiễn đó đặt ra nhu cầu áp dụng án lệ để giải quyết các vụ án
hình sự là một yêu cầu tất yếu khách quan. Do đó, việc nghiên cứu án lệ hình sự
và hiểu thấu đáo về cách thức, quy trình xây dựng và áp dụng án lệ hình sự là
một công việc cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đây là lý do quan
trọng để nghiên cứu sinh nghiên cứu đề tài “Án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay”
nhằm tìm kiếm những giải pháp bứt phá, góp phần xây dựng và áp dụng án lệ
trong xét xử các vụ án hình sự một cách hiệu quả.
Thứ ba, hiện nay, việc lựa chọn, công bố và áp dụng theo Nghị quyết số
03/2015/NQ-HĐTP, Về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. (sau đây
gọi tắt là Nghị quyết 03). Việc xây dựng và áp dụng án lệ hình sự cũng tuân theo
quy trình nay. Với quy trình trên, TANDTC đã ban hành được 04 án lệ hình sự
(sau đây gọi là ALHS), trong đó 01 ALHS đã có hiệu lực pháp luật, 03 ALHS sẽ
3


có hiệu lực từ ngày 03/12/2018. Kết quả này đã khẳng định chủ trương đúng đắn

của Đảng, Nhà nước và nỗ lực, quyết tâm cao của lãnh đạo hệ thống Tòa án.
Tuy nhiên, số lượng án lệ hình sự hiện nay còn quá ít. Nguyên nhân chính
là do quá trình xây dựng, quy trình tuyển chọn hiện chưa hợp lý, thiếu các tiêu
chí riêng biệt, việc áp dụng cũng chưa quy định rõ ràng. Nhiều vấn đề, nội dung
liên quan đến án lệ hình sự chưa được nghiên cứu, làm rõ. Chẳng hạn như chưa
đưa ra được khái niệm án lệ hình sự, án lệ hình sự có những đặc điểm gì? Nội
dung, nguyên tắc xây dựng và áp dụng án lệ hình sự là gì? tại sao mới chỉ có 04
án lệ hình sự được tuyển chọn? Tại sao trong thực tiễn xét xử chưa có Tòa án
nào áp dụng án lệ hình sự số 01 (ALHS số 1 đã có hiệu lực pháp luật)? làm thế
nào để xây dựng được nhiều án lệ hình sự, làm thế nào để áp dụng án lệ hình sự
có hiệu quả? Bên cạnh đó án lệ hình sự chưa đa dạng, chưa có tính phổ biến, xác
định phạm vi án lệ hình sự còn quá hẹp… Trả lời được tất cả những câu hỏi trên
sẽ là cơ sở để xây dựng và áp dụng án lệ hình sự một cách hiệu quả hơn.
Từ những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài Án lệ hình sự ở Việt
Nam hiện nay làm luận án tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Luật hình sự.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trước yêu cầu cải cách tư pháp và thi hành Hiến pháp năm 2013, xây dựng
và áp dụng án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng trong xét xử đang là nhiệm vụ
cấp thiết. Bởi, án lệ được kỳ vọng sẽ khắc phục những khoảng trống của luật thành
văn. Song quyết định và bản án như thế nào thì trở thành án lệ hình sự, và án lệ
hình sự thì áp dụng nó như thế nào lại là vấn đề không đơn giản.
Nhận thức được tầm quan trọng trên, mục đích nghiên cứu của luận án là
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về khái niệm án lệ, bản chất, đặc điểm của án
lệ hình sự; lý luận về xây dựng và áp dụng án lệ hình sự; thực tiễn xây dựng và
áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất yêu cầu, giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam trong
thời gian tới.
4



2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu là:
Thứ nhất, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về án lệ hình sự (khái
niệm, bản chất, đặc điểm của án lệ hình sự); lý luận về xây dựng và áp dụng án
lệ hình sự.
Thứ hai, đánh giá những thành tựu và hạn chế và nguyên nhân của những
thành tựu, hạn chế trong thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam.
Thứ ba, đề xuất yêu cầu, giải pháp góp phần nâng cao chất lượng xây
dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận về án lệ hình sự; lý luận và thực tiễn xây dựng và áp
dụng án lệ hình sự ở Việt Nam, giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng và áp
dụng án lệ hình sự trong thời gian tới.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung:
Luận án nghiên cứu lý luận và thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ hình
sự ở Việt Nam hiện nay.
- Về thời gian:
Luận án nghiên cứu từ 2005 đến nay (Từ Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị, Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đến
nay).
Bên cạnh đó, để đảm bảo tính hệ thống và đạt được mục đích nghiên cứu,
luận án có đề cập đến một số nội dung về án lệ, án lệ hình sự trước và sau mốc
thời gian nói trên.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án nghiên cứu trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà nước

5


về nhà nước, pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp, lý
luận

6


và lịch sử nhà nước và pháp luật, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, thể
hiện trong quá trình chỉ đạo cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
hệ thống hóa, phương pháp phân tích, phương pháp logic, phương pháp thống kê
hình sự, phương pháp tổng hợp, phương pháp đối chiếu, phương pháp so sánh,
phương pháp chứng minh, phương pháp khảo sát thực tiễn. Ngoài ra, luận án
được nghiên cứu trên cơ sở các chuyên ngành khoa học pháp lý như: Lịch sử
pháp luật, lý luận về pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự,
xã hội học pháp luật. Qua đó rút ra những kết luận, đề xuất phù hợp nhằm hoàn
thiện các quy định về xây dựng và áp dụng án lệ hình sự.
Phương pháp hệ thống hóa được sử dụng trong chương 1 để phân loại và
nghiên cứu nội dung các công trình khoa học trong và ngoài nước.
Phương pháp logic được sử dụng xuyên suốt quá trình thực hiện chương
2, chương 3 và chương 4 của luận án. Ở chương 2, nghiên cứu sinh phân tích,
xây dựng khái niệm án lệ hình sự, đặc điểm, vai trò, lý luận về xây dựng và áp
dụng án lệ hình sự ở Việt Nam, kinh nghiệm xây dựng và áp dụng án lệ, án lệ
hình sự của các quốc gia trên thế giới. Chương 3 phân tích thực trạng xây dựng
và áp dụng án lệ hình sự, chỉ ra những kết quả đạt được và hạn chế, nguyên nhân
của những thành tựu và hạn chế. Chương 4 đề xuất những yêu cầu và giải pháp

nâng cao hiệu quả xây dựng và áp dụng án lệ hình sự phù hợp với tình hình thực
tiễn của Việt Nam.
Phương pháp phân tích chủ yếu dựa trên kết quả đã được thống kê, tổng
kết. Đây là một phương pháp phổ biến trong nghiên cứu nói chung và nghiên
cứu pháp luật nói riêng, sẽ rất khó cho bất cứ nhà nghiên cứu nào khi nghiên cứu
không sử dụng kết quả nghiên cứu của các công trình trước đó. Nghiên cứu về
án lệ hình sự là một vấn đề rộng có liên quan đến một số hệ thống pháp luật của
rất nhiều nước trên thế giới. Vì vậy, sử dụng phương pháp nghiên cứu phân
7


tích

8


đánh giá pháp luật dựa trên những nghiên cứu có sẵn để tìm hiểu về án lệ nói
chung, án lệ hình sự nói riêng trong hệ thống pháp luật của mỗi nước thuộc hệ
thống Comon law và hệ thống Civil law là cần thiết. Lý luận về án lệ nói chung,
lý luận về xây dựng án lệ hình sự, áp dụng án lệ hình sự nói riêng là một phần rất
quan trọng của Luận án. Nội dung các chương thứ 2, 3 của luận án được dựa trên
cơ sở phân tích, giải thích và so sánh các học thuyết lý luận về án lệ, án lệ hình
sự, các án lệ cụ thể, các nguyên tắc áp dụng luật và các quy định pháp luật. Các
quy định pháp luật được viện dẫn trong luận án là cơ sở pháp lý cho việc xây
dựng, ban hành và áp dụng án lệ trong hệ thống Tòa án nhân dân ở Việt Nam
hiện nay. Khi nghiên cứu, luận án còn sử dụng các án lệ cụ thể, các tình huống
pháp luật. Từ đó, đưa ra những phân tích, đánh giá thông qua ví dụ cụ thể hướng
tới sự thuyết phục cao nhất đối với người đọc. Việc nghiên cứu các án lệ cụ thể,
tình huống pháp luật phải được hỗ trợ bởi việc giải thích, phân tích các nội dung
đưa ra trong luận án theo một xu hướng gắn kết phù hợp với nhau.

Phương pháp miêu tả được sử dụng để miêu tả sơ lược về hệ thống Tòa án
Việt Nam. Trong các đề tài nghiên cứu về án lệ, phương pháp miêu tả không
phải là phương pháp thường xuyên được sử dụng. Tuy nhiên, trong nội dung
nghiên cứu của luận án, việc sử dụng phương pháp miêu tả là cần thiết nhằm giới
thiệu sơ lược về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án Việt Nam. Để hiểu và
nắm rõ được những vấn đề cốt lõi cơ bản của án lệ thì phải hiểu biết về tổ chức
và hoạt động của hệ thống Tòa án một hệ thống pháp luật cụ thể, thông qua đó,
thấy rõ được lý luận và thực tiễn trong hệ thống pháp luật của quốc gia đó.
Ngoài ra, phương pháp miêu tả còn được sử dụng để giới thiệu về việc công bố
bản án trong hệ thống pháp luật thuộc giới hạn nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp so sánh: Thông thường phương pháp so sánh được sử dụng
trong rất nhiều các nghiên cứu pháp luật. Phương pháp so sánh được áp dụng khi
bàn về khía cạnh lý luận và khía cạnh thực tiễn của các học thuyết về án lệ trong
hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới. Phương pháp so sánh áp dụng
trong luận án để hướng tới mục đích sau:
9


Một là, nghiên cứu học thuyết án lệ (doctrine of precedent) trong các hệ
thống pháp luật nói trên, phương pháp so sánh sẽ giúp tác giả đưa ra những đánh
giá tốt hơn về án lệ trong từng hệ thống pháp luật cụ. Án lệ với tư cách là một
nguồn luật được tạo ra bởi các quyết định, bản án của các Thẩm phán. Vì vậy,
những án lệ được viện dẫn trong luận án, có nội dung không giống nhau, nhưng
có thể vẫn được sử dụng so sánh với nhau giữa các hệ thống pháp luật với điều
kiện những án lệ đó phải thích hợp cho ví dụ về thực tiễn sử dụng án lệ của Tòa
án các nước trong việc xây dựng án lệ, áp dụng án lệ hay hủy bỏ án lệ.
Hai là, việc sử dụng phương pháp so sánh trong luận án hướng tới mục
đích quan trọng đó là nhằm tìm ra những giải pháp phát triển và sử dụng án lệ
nói chung và án lệ hình sự nói riêng ở Việt Nam hiện nay. Nhiều nội dung
nghiên cứu sinh so sánh những khía cạnh về án lệ của hệ thống pháp luật này với

các hệ thống pháp luật khác. Trong chương 2 của luận án, phương pháp so sánh
sử dụng để so sánh lý luận về án lệ ở một số nước trên thế giới. Trong phần tiếp
theo của luận án, phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh về sự khác nhau
trong thực tiễn áp dụng án lệ giữa pháp luật của các nước với nhau. Từ đó, đi
đến kết luận chung về những nguyên tắc xây dựng và áp dụng án lệ của các
nước.
Ba là, trên cơ sở sử dụng phương pháp so sánh, luận án đưa ra những kiến
nghị để Việt Nam tiếp nhận hợp lý về việc xây dựng và áp dụng án lệ hình sự
của các nước trên thế giới, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả việc xây dựng và
áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, nghiên cứu sinh còn sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích
tài liệu bản án, quyết định giám đốc thẩm của hệ thống Tòa án nhằm thu thập,
tổng hợp số liệu. Bên cạnh đó nghiên cứu sinh còn sử dụng phương pháp khảo
sát, thống kê, phân tích để nghiên cứu việc triển khai, áp dụng án lệ của các tỉnh,
thành phố trong cả nước để chứng minh cho các luận giải của mình.

10


5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, xây dựng khái niệm, phân tích nội hàm, bản chất, đặc điểm của
án lệ hình sự, từ đó đề xuất các tiêu chí để có cơ sở xây dựng ALHS cũng như đề
xuất tuyển chọn.
Thứ hai, luận án phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc nguyên
tắc xây dựng và áp dụng án lệ hình sự trong hoạt động xét xử, từ đó đề xuất quy
trình tuyển chọn, tính chất bắt buộc trong áp dụng ALHS.
Thứ ba, thông qua việc phân tích thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của
những thành tựu, hạn chế trong xây dựng và áp dụng án lệ hình sự, luận án làm
rõ thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam kể từ khi án lệ hình
sự đầu tiên được công bố.

Thứ tư, trên cơ sở những yêu cầu đặt ra, luận án mạnh dạn đề xuất những
giải pháp góp phần nâng cao chất lượng xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở
Việt Nam trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án khắc phục sự thiếu vắng những công trình khoa học nghiên cứu
về án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay.
Luận án là công trình đầu tiên và duy nhất tại thời điểm hiện nay nghiên
cứu về án lệ hình sự ở Việt Nam, góp phần bổ sung lý luận về án lệ hình sự, lý
luận về xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam.
Luận án xây dựng và làm rõ một số vấn đề lý luận về án lệ hình sự như:
Xây dựng khái niệm, phân tích nội hàm, bản chất, đặc điểm của án lệ hình sự.
Đồng thời phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc nguyên tắc xây
dựng và áp dụng án lệ hình sự trong hoạt động xét xử.
Những đóng góp trên sẽ góp phần xây dựng và hoàn thiện lý luận về án lệ
hình sự, xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay. Là cơ sở để các
nghiên cứu tiếp theo có thể kế thừa và phát triển lý luận về xây dựng và áp dụng

11


án lệ hình sự ở Việt Nam. Mở ra hướng nghiên cứu về án lệ hình sự trong các
chế định cụ thể của pháp luật hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo cho hệ thống Tòa
án Việt Nam tiếp tục triển khai xây dựng và áp dụng án lệ hình sự.
- Là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về luật, hành nghề
luật…Đặc biệt, các cơ sở đào tạo có thể tham khảo trong việc xây dựng chương
trình, giáo trình đào tạo đại học, đào tạo Nghiệp vụ xét xử.
- Là tài liệu để các cá nhân, tổ chức quan tâm nghiên cứu, gợi mở một số

hướng nghiên cứu về án lệ trong các lĩnh vực khác (nghiên cứu án lệ dân sự, án
lệ hành chính…). Đặc biệt có thể mở ra hướng nghiên cứu chuyên sâu về án lệ
dân sự đang là yêu cầu cấp bách hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận án gồm 04 chương, 10 tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần
tiếp tục nghiên cứu về án lệ hình sự
Chương 2: Những vấn đề lý luận về án lệ hình sự, xây dựng và áp dụng án
lệ hình sự
Chương 3: Thực tiễn xây dựng và áp dụng án lệ hình sự ở Việt Nam
Chương 4: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng và áp
dụng án lệ hình sự ở Việt Nam

12


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU VỀ ÁN LỆ HÌNH SỰ
Việc nghiên cứu sinh thực hiện tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan
đến đề tài “Án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay” là một phần quan trọng trong quá
trình nghiên cứu Luận án. Mục tiêu chính là khái quát được tình hình nghiên cứu,
luận giải các vấn đề có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án, qua đó thấy được
những nội dung mà các nhà nghiên cứu đi trước đã làm rõ, chỉ ra khoảng trống
trong lĩnh vực này chưa được nghiên cứu, cần được nghiên cứu làm rõ.
1.1. Tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về khái niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm
của án lệ

Cuốn sách Precedent In law (Tạm dịch: Án lệ trong pháp luật), của Gernald
J.Postema [99, p.p.10 - 15] đã đề cập đến vai trò quan trọng của án lệ trong hệ
thống pháp luật. Án lệ được ví như là mạch máu của hệ thống pháp luật “life
blood of a legal system”.
Gernald J.Postema phân tích quan điểm của Thomas Hobbes (1588 1679) (Học giả tiêu biểu của chủ nghĩa pháp luật thực chứng ở Anh) về án lệ.
Gernald J.Postema cho rằng: Mặc dù Hobbes không trực tiếp đề cập đến khái
niệm án lệ nhưng trong lý luận của ông đã cung cấp những cơ sở nổi bật cho chủ
nghĩa pháp luật thực chứng phân tích lý luận về án lệ. Theo đó, toàn thể pháp
luật là những mệnh lệnh, quyền ban hành pháp luật phụ thuộc vào chủ quyền tối
cao của nhà nước, nhưng quyền này có thể ủy quyền cho cơ quan xét xử nhờ đó
mà Thẩm phán có quyền ban hành pháp luật và pháp luật này có tính quyền lực.
Khi một trường hợp nào đó chưa có luật do cơ quan quyền lực ban hành theo sự
đồng thuận chung thì mỗi Thẩm phán sẽ được phép tạo ra luật trong hoạt động
xét xử những vụ việc cụ thể. Bằng cách này, chính các Thẩm phán đã bắt chước
13


chủ quyền nhà nước. Thẩm phán sáng tạo ra những quy định pháp luật mới
thông qua những lập luận của riêng họ trong những vụ án cụ thể. Luật do Thẩm
phán tạo ra có quyền uy và mệnh lệnh tương tự như những mệnh lệnh của cơ
quan lập pháp tối cao của nhà nước tạo ra.
Cuốn sách Introduction, quoted by J.A.G. Pacock in The Ancient
Constitution And the Feudal Law (Tạm dịch: Giới thiệu, trích dẫn bởi J.A.G.
Pacock trong Hiến pháp cổ đại và Luật phong kiến) của Sir John Davies [112,
p.p.3-32] đã đề cập đến khái niệm “án lệ”. Án lệ bắt nguồn từ khái niệm thông
luật là gì? Thông luật của nước Anh chỉ là những tập quán chung của Vương
quốc Anh trong đó, luật pháp chứa đựng những qui tắc xử sự chung.
Cuốn sách Institutes, I, Sec.138. quoted by Gerald J.Postema, Some Roots
Of our Nation Of Precedent, In “Precedent In Law” (Tạm dịch: Nguồn gốc của án
lệ, trích trong “án lệ trong pháp luật” của Coke [93] đã cho rằng, không giống như

luật thành văn, thông luật ở nước Anh là kết quả từ quá trình lập luận của Thẩm
phán trên cơ sở các kinh nghiệm tích lũy từ hoạt động xét xử. Coke đã nhấn
mạnh sự thông thái của các Thẩm phán và nghiên cứu sinh coi họ như những
người đã xuất sắc sáng tạo ra pháp luật trong xét xử. Công trình nhấn mạnh: “sự
hợp lý là sự sống của pháp luật” “reason is the life of the law” [93, p.19]
th

Cuốn sách Commentaries (13 ed) on the Law of England (Tạm dịch:
Bình luận về pháp luật của nước Anh) của Blackstone [89, p.p.88-89] đã đề cập
đến những quan điểm chủ đạo về pháp luật. Pháp luật là những nguyên tắc
chung và tập quán chung. Chính những Thẩm phán là những người có sự hiểu
biết sâu rộng để nhận ra pháp luật là gì. Sự hiểu biết sâu rộng của các Thẩm
phán xuất phát từ tính năng động sáng tạo và những kinh nghiệm xét xử và
kinh nghiệm sống của chính Thẩm phán đó. Công trình nhấn mạnh sự hiểu biết
sâu rộng của Thẩm phán, chính những Thẩm phán đó đã tạo ra pháp luật
trong lịch sử của thông luật. Theo đó, khái niệm truyền thống về án lệ được
hiểu như sau:
Thứ nhất, án lệ là những quyết định đã được tuyên bởi Tòa án có thẩm
14


quyền. Đó chính là những quyết định của Thẩm phán.

15


Thứ hai, án lệ không phải là các quy phạm pháp luật nhưng án lệ làm sáng
tỏ những câu hỏi về pháp luật. Án lệ đóng vai trò là phương tiện để Thẩm phán
giải quyết vụ việc tương tự xảy ra sau. Thẩm phán có thể dựa vào các án lệ trước
đây để đưa ra lý do cho quyết định trong vụ việc hiện tại.

Như vậy, khái niệm truyền thống về án lệ đã đòi hỏi về tính uy quyền của
án lệ nhưng không giải thích vì sao án lệ có giá trị bắt buộc đối với các vụ việc
nảy sinh sau.
Cuốn sách “Interpreting Precedents” (Tạm dịch: Giải thích các án lệ) của
hai tác giả D.Neil Mac Cormick, Robert S.Summer [94] đã nêu khái niệm án lệ
như sau: “Án lệ là các quyết định trước được sử dụng làm khuôn mẫu cho các vụ
việc tương tự về sau”. Nghiên cứu sinh cho rằng, đây là khái niệm bao trùm, khái
quát, phù hợp cả truyền thống pháp luật common law và civil law.
Cuốn sách Jurisprudence Theory and context (Tạm dịch: Lý thuyết và
thực tiễn tư pháp) của Brian Bix [91, p.p 57 - 60] đã phân tích quan điểm của
Jeremy Bentham (1748 - 1832). Jeremy Bentham là một trong những nhà luật
học đã có đóng góp rất quan trọng cho sự phát triển của luật thành văn ở nước
Anh. Tính hai mặt trong quan điểm của Bentham thể hiện: Một mặt, Bentham
đòi hỏi việc ban hành pháp luật phải được thực hiện bởi cơ quan lập pháp. Hình
thức của pháp luật phải là những văn bản quy phạm pháp luật. Bentham cho rằng
vai trò của pháp luật là tạo lập những quy tắc ứng xử sự ổn định của những
nguyên tắc được thừa nhận công khai. Mặt khác, Bentham còn bày tỏ quan điểm
rất thất vọng vì sự tản mạn thiếu tính hệ thống của thông luật vì nó được thể hiện
tản mạn thông qua hệ thống những án lệ của Tòa án.
Để làm rõ hơn những quan điểm của trường phái pháp luật thực chứng,
công trình đã đề cập đến quan điểm của H.L.A.Hart (1907 - 1992), ông được
xem là một trong những đại diện của trường phái pháp luật thực chứng. Hart đã
đưa ra kết luận rằng, các Thẩm phán phải sử dụng quyền tự mình cân nhắc, để
sáng tạo ra một quy định pháp luật, là một điều không thể tránh khỏi, bởi các
quy định pháp luật thành văn còn chưa rõ ràng và còn bỏ ngỏ những nội hàm
16


khái


17


niệm của điều luật. Hart cũng cho rằng việc tạo ra pháp luật của cơ quan tư pháp
trong một giới hạn vừa phải là một điều tốt, nó tạo ra tính mềm dẻo trong áp
dụng pháp luật.
Cuốn sách The Rule of Precedent (Tạm dịch: Vai trò của án lệ) của
Theodore M.Benditt [113, p.90] đã giải thích lý do tại sao các Thẩm phán lại áp
dụng án lệ trong xét xử. Nếu Thẩm phán ra các quyết định không giống với
quyết định trong án lệ của vụ án tương tự đã được xét xử thì Thẩm phán đó phải
nêu được lý do quyết định của mình. Yêu cầu về tính nhất quán trong áp dụng
pháp luật với mỗi chủ thể ra các quyết định phải được bảo đảm. Tuy nhiên, trong
pháp luật, án lệ đòi hỏi tính thể chế, không chỉ đơn thuần một cá nhân Thẩm
phán. Tính nhất quán trong áp dụng án lệ đòi hỏi Thẩm phán khác phải ra các
quyết định giống nhau khi giải quyết các vụ án có tính chất tương tự nhau. Để
thực hiện tốt yêu cầu trên, cần bảo đảm rất nhiều yếu tố liên quan. Đây cũng là
vấn đề mà Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn nghiên cứu và hoàn thiện.
Cuốn sách Precedent in the Federal Republic of Germany, in
“Interpreting Precedents A Comparative Study” (Tạm dịch: Án lệ của Cộng hòa
Liên bang Đức, trong “giải thích án lệ một nghiên cứu so sánh) của Alexy,
Robert and Ralf Dreier [85] đã trình bày quan điểm của Friedrich Carl von
Savigny (1779 - 1861) về các loại nguồn của pháp luật, trong đó có đề cập tới
vai trò hệ thống các quyết định, phán quyết của Tòa án đã có ảnh hưởng tới sự
phát triển của pháp luật ở Đức và một số nước Civil law khác trong thế kỷ thứ
XIX và XX. Cho đến nay, quan điểm của Savigny về vai trò của án lệ vẫn còn
những giá trị lý luận và thực tiễn trong việc giải thích về vai trò của án lệ trong
hệ thống pháp luật Đức. Trong cuốn sách nổi tiếng của Savigny “nhiệm vụ trong
thời đại của chúng ta với lập pháp và luật học”, ông đã đưa ra một hệ thống lý
luận trong đó những vấn đề về án lệ và việc Thẩm phán sáng tạo pháp luật đã
được tranh luận trong một thời gian dài. Tâm điểm nội dung quan điểm của

Savigny về án lệ là: Thứ nhất, pháp luật có thể được hình thành bởi sự thừa nhận
chung của cả cộng đồng; Thứ hai, Savigny quan niệm rằng không chỉ có nghị
18


viện (cơ quan lập pháp) mà những Thẩm phán cũng có quyền đại diện cho nhân
dân để tạo ra pháp luật. Để đơn giản hóa luật do Thẩm phán tạo ra từ các án lệ
Savigny gọi là luật thực hành, luật thực tiễn.
Savigny và các học trò của ông theo trường phái lịch sử pháp luật đã
nghiên cứu những vấn đề lý luận về án lệ trong đó, ủng hộ việc Thẩm phán có
quyền sáng tạo pháp luật phù hợp với bối cảnh của Đức trong thế kỷ thứ XIX và
XX. Hệ thống những quan điểm này đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới khoa học Luật
học ở Đức.
Cuốn sách French Legal Method (Tạm dịch: Phương pháp luật của Pháp)
của nhà luật học người Pháp, Eva Steiner [97, p.76]. Eva Steiner đã xoay quanh
sự tranh luận về việc thừa nhận án lệ ở Pháp. Eva Steiner cho rằng việc tìm hiểu
liệu rằng án lệ ở Pháp có phải là một nguồn luật hay không là một chủ đề không
thể thiếu trong các nghiên cứu luật học, nó đồng nghĩa với các vấn đề đặt ra từ
sự thừa nhận luật được hình thành trên cơ sở án lệ “case-law” ở Pháp. Thế nào là
mối quan hệ giữa luật do cơ quan lập pháp ban hành và sự sáng tạo luật bởi
Thẩm phán trong hệ thống pháp luật ở Pháp. Eva Steiner đã đặt vấn đề, liệu rằng
có giới hạn nào cho việc Thẩm phán làm luật. Lý luận của Eva Steiner về án lệ
nhấn mạnh ở một số vấn đề như; Thứ nhất, vị trí của án lệ trong hệ thống pháp
luật Pháp; Thứ hai, yếu tố tạo ra tính thuyết phục của án lệ, mối quan hệ giữa án
lệ và luật thành văn; Thứ ba, tính hợp pháp của án lệ.
Như vậy, theo học thuyết về phân chia quyền lực ở Pháp, xét về khía cạnh
vị trí của án lệ trong pháp luật Pháp, Thẩm phán không có quyền ban hành pháp
luật, nếu Thẩm phán thực hiện quyền này thì đã xâm phạm đến quyền lực của cơ
quan lập pháp.
Eva Steiner cho rằng có một số yếu tố tạo ra mức độ hiệu lực đối với án lệ

như: Tính thứ bậc của Tòa án đã tuyên bản án; sự tách khỏi hướng xét xử các vụ
việc trước đó; sự tuyên bố của nguyên tắc chung áp dụng liên quan đến hàng loạt
các án lệ trước đó được viện dẫn bởi Tòa án đã đưa ra quyết định được coi là án
lệ. Theo Eva Steiner, quan điểm chủ đạo về mối quan hệ giữa án lệ và luật do cơ
19


quan lập pháp ban hành thì luật do cơ quan lập pháp ban hành sẽ có hiệu lực cao
hơn. Tuy nhiên, chúng ta nên có cái nhìn biện chứng về mối quan hệ này. Hai
dạng nguồn luật này trong hệ thống pháp luật sẽ hỗ trợ nhau trong mỗi lĩnh vực
pháp luật [97, p.76].
Ngoài những quan điểm lý luận của Eva Steiner về án lệ, có một số công
trình ở Pháp đã phân chia án lệ thành hai loại: Án lệ là giải pháp cho một vấn đề
cụ thể và án lệ của việc giải thích pháp luật.
1.1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về tiêu chí, đặc điểm, nguyên tắc xây
dựng và áp dụng án lệ
Bài viết “Chế độ liên quan đến án lệ của Hàn Quốc” của Yoonmin Rah
được trình bày tại Hội thảo về án lệ được tổ chức tại Đà Nẵng năm 2015, khẳng
định: Hàn Quốc là một quốc gia thuộc hệ thống luật Châu Âu lục địa. Về nguyên
tắc, luật thành văn là nguồn luật nhưng ngoài luật thành văn, án lệ có được coi là
nguồn luật hay không. Điều này có nghĩa là vấn đề án lệ có hiệu lực pháp lý bắt
buộc đối với những vụ án tương tự sau này hay không đang được bàn luận theo
hướng học thuật tại Hàn Quốc.
Về vấn đề án lệ có phải là nguồn luật hay không thì theo bài viết, tại Hàn
Quốc cũng có hai trường phái khác nhau. Thuyết khẳng định cho rằng, án lệ
được đặt tương đương với thông luật nên có thể coi là nguồn luật. Nhưng vẫn
theo Thuyết này, có ý kiến lại cho rằng, án lệ tương đương với nguồn luật là do
nó có chức năng hình thành nên luật, bổ sung những điểm còn thiếu sót của luật
thành văn, có ý kiến cho rằng phán quyết của Tòa án cấp dưới trái với án lệ thì
khả năng bị hủy án sẽ rất cao do vậy án lệ có thể xem là nguồn luật vì có sức ảnh

hưởng mạnh mẽ đến Tòa án cấp dưới về mặt thực tế. Thuyết phủ định có quan
điểm trái ngược, họ cho rằng án lệ không phải là nguồn luật là bởi vì, án lệ có
hiệu lực bắt buộc trên thực tế đối với những vụ án tương tự nhưng nó cũng chỉ là
kết quả của việc áp dụng luật đối với vụ án cụ thể và không thể coi án lệ là luật.
Điều 8 Luật tổ chức Tòa án Hàn Quốc quy định “Nhận định trong xét xử của
Tòa án cấp trên sẽ ràng buộc cấp dưới đối với vụ án đó”. Điều này có nghĩa
20


án lệ

21


×