PHẦN MỞ ĐẦU
Giao kết hợp đồng dân sự (HĐDS) là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo
những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau các quyền và nghĩa vụ
dân sự. Vậy, giao kết HĐDS được pháp luật quy định như thế nào? Trình tự giao kết
HĐDS phải thực hiện như thế nào cho đúng với quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành? Vì muốn tìm hiểu những quy định của pháp luật về giao kết HĐDS nên em đã lựa
chọn đề tài: “Quy định về giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015, những
bất cập và hướng hoàn thiện.” để nghiên cứu làm bài báo cáo của mình
CHƯƠNG I
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN
1. Khái quát chung về giao kết HĐDS:
1.1 Khái niệm hợp đồng:
Hợp đồng là một khái niệm có nguồn gốc lâu đời và là một trong những chế định
quan trọng của pháp luật dân sự. Điều 388 BLDS năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
quy định khái niệm hợp đồng như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên
về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Tuy nhiên, quan hệ
pháp luật dân sự theo nghĩa rộng bao gồm cả những quan hệ về đầu tư, lao động, kinh
doanh thương mại, bảo hiểm… Theo đó, nếu trong khái niệm về hợp đồng từ “dân sự”
được đặt đằng sau hai từ “hợp đồng” và sau hai từ nghĩa vụ thì điều này dẫn đến thực tiễn
thi hành pháp luật có cách hiểu rằng những quy định của BLDS hiện hành chỉ liên quan
đến hợp đồng dân sự. Như vậy, sẽ làm hạn chế phạm vi điều chỉnh của BLDS đối với tất
cả các loại hợp đồng, bao gồm cả hợp đồng dân sự, hợp đồng lao động, hợp đồng kinh
doanh hay hợp đồng thương mại…
Điều 385 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”. So với BLDS cũ thì
BLDS năm 2015 đã bỏ cụm từ “dân sự” sau hai từ “hợp đồng”. Quy định mới về khái
niệm hợp đồng tại Điều 385 của BLDS năm 2015 là điểm mới quan trọng, đáng chú ý
không những về mặt kỹ thuật lập pháp và còn làm tăng tính khả thi, minh bạch trong thực
tiễn áp dụng, mở rộng phạm vi điều chỉnh.
Sự thỏa thuận của các bên là yếu tố bắt buộc phải có trong hợp đồng, và hợp đồng
chỉ được thiết lập khi có sự thỏa thuận, bàn bạc của các bên để đi đến sự thống nhất ý chí
chung của các bên một cách hợp pháp mà không trái với quy định của pháp luật và đạo
đức xã hội . Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp hợp đồng không có sự bàn bạc giữa các
bên mà chỉ có một bên đơn phương ấn định các điều khoản cơ bản của hợp đồng còn bên
kia chỉ chấp nhận hay không chấp nhận (các hợp đồng mẫu như hợp đồng bảo hiểm của
các công ty bảo hiểm, công ty điện nước..) và việc một bên còn lại chấp nhận không có
nghĩa là bên còn lại ép buộc, đe dọa, cưỡng bức mà vấn đề vẫn là sự tự nguyện chấp
thuận với những điều khoản trong hợp đồng mẫu.
Ngoài sự thỏa thuận của các bên thì hợp đồng cần phải đáp ứng điều kiện về việc
làm phát sinh hậu quả pháp lý (xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự
của các bên).
1.2. Khái niệm giao kết HĐDS:
Giao kết HĐDS có thể hiểu là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa các bên theo
hình thức, nội dung, nguyên tắc, trình tự nhất định được pháp luật thừa nhận nhằm xác
lập quyền, nghĩa vụ dân sự đối với nhau.
1
1.3. Bản chất của giao kết HĐDS:
Bản chất của HĐDS là sự thỏa thuận, trong đó các bên thể hiện sự bày tỏ và thống
nhất ý chí nhằm hướng tới những lợi ích nhất định. Việc giao kết HĐDS cũng được xác
lập trên cơ sở của sự thỏa thuận thống nhất ý chí giữa các bên. Quá trình giao kết HĐDS
diễn ra với hai yếu tố: sự bày tỏ ý chí (đề nghi giao kết) và sự chấp nhận ý chí (chấp nhận
đề nghị giao kết HĐDS), nhưng thực tế không phải là HĐDS nào cũng xác định được rõ
ràng hai yếu tố này. Quá tình này có thể diễn ra nhanh chóng hay kéo dài, đơn giản hay
phức tạp, diễn ra đồng thời hay tiến triển ở nhiều giai đoạn khác nhau… (phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: ý chí các bên, vào nội dung, hình thức biểu hiện của hợp đồng…). Các
bên có thể sử dụng phương thức giao kết trực tiếp (gặp nhau trao đổi, đàm phán, thương
lượng, kí kết…) hoặc phương thức giao kết gián tiếp (thông qua công văn, đơn chào
hàng, các phương tiện điện tử…) để thỏa thuận, thống nhất ý chí với toàn bộ nội dung
của hợp đồng.
Hợp đồng dân sự có nhiều loại nhưng kết quả cuối cùng của quá trình giao kết
HĐDS nói chung đều là thể hiện sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên để làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự trong quan hệ hợp đồng đó (hình
thành HĐDS). Do đó, bản chất của giao kết HĐDS là quá tình bày tỏ ý chí của các chủ
thể tham gia hợp đồng nhằm thỏa thuận, thống nhất toàn bộ nội dung, hình thức HĐDS
theo quy định của pháp luật.
1.4. Nguyên tắc giao kết hợp đồng:
Việc giao kết hợp đồng vẫn được thực hiện trên nguyên tắc cơ bản của pháp luật
dân sự theo quy định tại Điều 3 BLDS 2015. Qua đó chúng ta có thể hiểu nguyên tắc giao
kết hợp đồng cụ thể gồm hai nguyên tắc là nguyên tắc tự do và nguyên tắc trung thực
ngay thẳng.
Nói về nguyên tắc tự do của các bên ký kết hợp đồng, đây là nguyên tắc cơ bản
nhất của hợp đồng, và bao gồm các nội dung như sau: được quyền tự do định đoạt việc
tham gia hay không tham gia ký kết hợp đồng, tự do lựa chọn đối tác tham gia ký kết hợp
đồng, tự do lựa chọn bất kỳ loại hợp đồng nào mình sẽ ký kết và tự do thỏa thuận nội
dung của hợp đồng. Tuy nhiên việc thực hiện nguyên tắc tự do của các bên cũng bị giới
hạn và đòi hỏi ý chí của các bên phải phù hợp với ý chí của Nhà nước, việc thỏa thuận đó
phải không trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội thì mới có hiệu lực pháp lý.
Nguyên tắc thứ hai là nguyên tắc trung thực, ngay thẳng trong quá trình giao kết
hợp đồng và được thể hiện qua việc đòi hỏi các bên phải cung cấp cho nhau những thông
tin cần thiết, chính xác, nếu việc cố ý cung cấp thông tin không chính xác gây ra thiệt hại
cho bên kia khi thực hiện hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm bồi thường hiệt hại hay phạt
vi phạm hợp đồng (nếu như trong điều khoản của hợp đồng có thỏa thuận), cụ thể theo
như quy định tại khoản 2 Điều 408 LDS 2015 "Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà
một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được
nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi
thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng
có đối tượng không thể thực hiện được".
2. Trình tự giao kết hợp đồng dân sự:
2.1 Đề nghị giao kết hợp đồng:
Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về Đề nghị giao kết hợp đồng tại Điều 386 như
sau:
2
“1. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự
ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công
chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị).
2. Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại
giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải
bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt
hại phát sinh.”
Đề nghị giao kết hợp đồng là việc một bên thể hiện rõ ý định về việc giao kết hợp
đồng đối với bên kia. Có rất nhiều cách để thể hiện ý định giao kết hợp đồng, nhưng
không phải cách thể hiện nào cũng được coi là đề nghị giao kết hợp đồng. Dựa theo quy
định này, lời đề nghị giao kết hợp đồng phải có các dấu hiệu sau:
- Một là, bên đề nghị phải thể hiện rõ mong muốn giao kết hợp đồng;
- Hai là, nội dung lời đề nghị phải chứa đựng nội dung cơ bản của hợp đồng;
- Ba là, lời đề nghị phải hướng tới chủ thể xác định hoặc công chúng.
Điều 386 Bộ luật Dân sự 2015quy định hai loại chủ thể được đề nghị gồm: chủ thể
được xác định cụ thể hoặc là công chúng. Đây là căn cứ để xác định lời đề nghị giao kết
hợp đồng của cá nhân, doanh nghiệp quảng cáo bằng tờ rơi, trên các phương tiện thông
tin đại chúng, trên điện thoại di động hoặc trong địa chỉ Email của cá nhân nếu nội dung
quảng cáo đó chứa đựng các dấu hiệu của lời đề nghị thì tổ chức, cá nhân đã đưa ra đề
nghị giao kết hợp đồng phải chịu trách nhiệm về nội dung cam kết đó.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng phải chịu sự ràng buộc về nội dung đã đề nghị đối
với bên được đề nghị. Khi bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì đề nghị đó được
coi là đề nghị mới.
Trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề
nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời
thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu
có thiệt hại phát sinh.
2.2. Thông tin trong giao kết hợp đồng:
Thông tin trong giao kết hợp đồng được quy định tại điều 387 Bộ luật Dân sự
2015
Đây là nội dung mới nhằm quản lý chặt chẽ hơn về giao kết hợp đồng, là cơ sở để
giải quyết khi có phát sinh tranh chấp. Theo đó:
- Trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp
đồng của bên kia thì phải thông báo cho bên kia biết.
- Trường hợp một bên nhận được thông tin bí mật của bên kia trong quá trình giao
kết hợp đồng thì có trách nhiệm bảo mật thông tin và không được sử dụng thông tin đó
cho mục đích riêng của mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác.
- Bên vi phạm quy định nêu trên mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.”
2.3. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:
Tại điều 393 bộ Luật dân sự 2015 bổ sung thêm quy định về vấn đề chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng, theo đó: Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen
đã được xác lập giữa các bên
Sau khi nhận được đề nghị giao kết hợp đồng, bên được đề nghị có thể trả lời chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng nếu như đồng ý toàn bộ nội dung, trong trường hợp bên
được đề nghị không đồng ý một trong số điều khoản của hợp đồng mà bên đề nghị đưa ra
thì có thể yêu cầu chỉnh sửa lại và gửi về bên đề nghị, lúc này bên đề nghị ban đầu đã trở
3
thành bên được đề nghị mới, bên được đề nghị trở thành bên đề nghị và nội dung chỉnh
sửa được xem là đề ghị giao kết hợp đồng mới. Ngoài ra theo quy định tại Điều 394
BLDS 2015 thì khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ
có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó, nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận
được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên
chậm trả lời, tuy nhiên trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý
do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo
chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay
không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị.
Trường hợp bên đề nghị chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi sau khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng
thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung giao kết gắn liền với
nhân thân bên đề nghị. Hoặc trường hợp bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp
đồng nhưng sau đó chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp
nội dung giao kết gắn liền với nhân thân bên được đề nghị, nội dung này đã được BLDS
2015 thừa nhận theo quy định tại Điều 395, 396 BLDS 2015 .
3. Hình thức và nội dung của hợp đồng
3.1 Hình thức hợp đồng:
Hình thức của hợp đồng là phương tiện để ghi nhận, lưu trữ, chuyển tải nội dung
của hợp đồng, bao gồm các điều khoản mà các bên đã cùng nhau thống nhất cam kết.
Hình thức hợp đồng thường rất đa dạng và theo quy định tại Khoản 1 Điều 119 BLDS
2015 thì hình thức hợp đồng có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng
hành vi cụ thể.
Hình thức giao kết hợp đồng bằng văn bản là việc các bên giao kết hợp đồng
thống nhất về quyền và nghĩa vụ hợp đồng bằng văn bản. Các bên thỏa thuận với nhau về
những nội dung chính mà mình đã cam kết và người đại diện của các bên phải ký vào
hợp đồng, tuy nhiên vẫn có một số trường hợp việc giao kết hợp đồng bằng văn bản phải
được công chứng chứng thực hoặc đăng ký sở hữu theo như quy định thì mới có giá trị
theo như quy định tại khoản 2 Điều 119 BLSD "Trường hợp luật quy định giao dịch dân
sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân
theo quy định đó", chính vì vậy hình thức này thường mang tính xác thực cao hơn so với
hình thức giao kết hợp đồng bằng lời nói. Tuy nhiên cần lưu ý đối với việc một số hợp
đồng được quy định phải áp dụng hình thức giao kết bằng văn bản phải có công chứng
chứng thực hoặc đăng ký bảo đảm thì phải áp dụng đúng hình thức, nếu vi phạm về hình
thức thì hợp đồng được xem là vô hiệu, theo quy định tại Điều 129 BLDS 2015 "Giao
dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu". Hình thức
giao kết hợp đồng bằng văn bản thường được áp dụng trong các trường hợp như là hợp
đồng có giá trị lớn, những hợp đồng mà việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên có
4
thể diễn ra trong một khoản thời gian dài không cùng lúc với việc giao kết, hoặc là khi
các bên chưa đạt được độ tin cậy nhất định.
Hình thức giao kết hợp đồng thứ ba là việc giao kết hợp đồng bằng hành vi cụ thể,
là việc hai bên không có thỏa thuận bằng văn bản cũng như thỏa thuận bằng miệng. Việc
giao kết hợp đồng được minh chứng bằng các hành vi như bên bán tiến hành giao hàng
hoặc bên mua tiến hành trả tiền. Đây cũng là hình thức hợp đồng mang lại nhiều rủi ro,
do đó trên thực tế các thương nhân ít sử dụng. Ngoài ra có thể hiểu việc giao kết hợp
đồng được thực hiện thông qua hành vi cụ thể của bên được đề nghị giao kết hợp đồng
khi hành vi đó được thực hiện theo đúng quy ước định trước của bên đề nghị giao kết mà
không nhất thiết phải có sự hiện diện đồng thời của tất cả các bên, cũng không cần dùng
đến lời nói hoặc kí văn bản, cũng không có sự phân định rõ ràng giữa đề nghị giao kết và
chấp nhận giao kết trong giao kết hợp đồng bằng hành vi cụ thể. Cũng khó xác định cụ
thể đối tượng được đề nghị giao kết trong trường hợp này (Ví dụ: Việc trưng bày sản
phẩm và niêm yết giá tại siêu thị có thể coi là sự chào hàng hay đề nghị giao kết hợp
đồng với bất kì bên nào có khả năng). Các bên trong giao kết hợp đồng bằng hành vi cụ
thể không có sự trực tiếp trao đổi, thỏa thuận thậm chí là không biết bên giao kết hợp
đồng với mình là chủ thể nào. Gần như thời điểm giao kết hợp đồng cũng là thời điểm
hợp đồng được thực hiện (Ví dụ như người tiêu dùng sẽ đưa tiền vào máy bán hàng tự
động, sau đó nhận hàng).
3.2 Nội dung của hợp đồng:
Nội dung của hợp đồng là sự tổng hợp các điều khoản mà các bên tham gia giao
kết hợp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác định quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể
của các bên trong hợp đồng,
- Ngoài các nội dung hợp đồng đã được quy định tại BLDS 2005, BLDS 2015 bổ sung về
nội dung hợp đồng là “phương thức giải quyết tranh chấp”.
Bên đề nghị giao kết HĐDS phải đưa ra nội dung đề nghị giao kết với những điều
khoản của hợp đồng một cách cụ thể và rõ ràng để bên kia có thể hình dung ra được
HĐDS sẽ được giao kết với nội dung như thế nào, có thể tham gia giao kết HĐDS đó
được hay không ?
BLDS 2015 chưa có quy định cụ thể nội dung của đề nghị giao kết HĐDS và Luật
Thương mại năm 2005 cũng không quy định nội dung của “chào hàng là một đề nghị
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa”. Thực tế cho thấy, đề nghị giao kết hợp đồng và
một số hành vi như: lời mời làm chào hàng, báo giá, quảng cáo, trưng bày, giới thiệu
hàng hóa, dịch vụ… rất khó phân biệt mà hậu quả pháp lý của đề nghị giao kết HĐDS có
ý nghĩa rất quan trọng đối với bên đề nghị giao kết nên rất cần phải xác định nội dung của
đề nghị giao kết HĐDS. Thứ nhất, đề nghị giao kết HĐDS phải thể hiện rõ ý định giao
kết hợp đồng của bên đề nghị giao kết HĐDS. Ví dụ: Bên đề nghị giao kết phải thể hiện
rõ nội dung mình muốn bán nhà ở (giao kết hợp đồng mua bán nhà nở) hoặc muốn cho
thuê nhà ở (hợp đồng thuê nhà ở) với chủ thể khác…
Đề nghị giao kết hợp đồng phải có các nội dung chủ yếu của loại HĐ DS mà các
bên muốn xác lập: Đề nghị giao kết HĐDS do bên đề nghị chủ động đưa ra nội dung
(chưa phải là HĐDS), nhưng họ phải thể hiện rõ những nội dung chủ yếu của HĐDS mà
bên đề nghị dự kiến sẽ giao kết để các chủ thể khác biết được và tham gia giao kết hợp
đồng (đề nghị giao kết hợp đồng chứa các nội dung của hợp đồng tương lai). Yêu cầu này
5
có nghĩa là đề nghị giao kết HĐDS phải có đầy đủ nội dung chủ yếu của loại HĐDS để
cho phép bên nhận được đề nghị biết được rằng, để giao kết hợp đồng chỉ cần họ thể hiện
sự đồng ý của mình với đề nghị giao kết thì HĐDS được giao kết.
Nội dung chủ yếu của HĐDS là những điều khoản mà không thể thiếu được đối
với từng loại hợp đồng; Nếu không thỏa thuận được những điều khoản đó thì HĐDS
không thể giao kết được. Tuy nhiên, BLDS 2015 hiện nay không quy định về nội dung
“chủ yếu” của HĐDS mà chỉ quy định tại khoản 2 điều 398: Hợp đồng có thể có nội dung
sau đây: Đối tượng của hợp đồng; Số lượng, chất lượng; Giá, phương thức thanh toán;
Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; Quyền, nghĩa vụ của các bên;
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Phương thức giải quyết tranh chấp. Quy định này chỉ
mang tính chất liệt kê các nội dung thường gặp trong hợp đồng chứ không phải quy định
về nội dung chủ yếu của hợp đồng (Nội dung chủ yếu là những nội dung mà thiếu nó hợp
đồng không thể được coi là giao kết). Ví dụ: Các quy định về thời hạn, địa điểm, phương
thức thực hiện … nếu không có thỏa thuận thì cũng đã có quy định của pháp luật. Như
vậy, việc xác định nội dung chủ yếu của HĐDS cũng như nội dung của đề nghị giao kết
HĐDS trên thực tế cũng rất khó khăn và phức tạp.
Thứ nhất, đối tượng của hợp đồng là điều khoản cơ bản của mọi hợp đồng. Đây là
điều khoản bắt buộc phải có trong hợp đồng dân sự, đồng thời các bên phải thỏa thuận cụ
thể về điều khoản này. Nếu các bên không thỏa thuận về đối tượng của hợp đồng thì hợp
đồng không thể được hình thành. Trong các loại hợp đồng dân sự thông dụng mà BLDS
quy định, nếu dựa vào đối tượng thì được phân chia thành hai nhóm: một là, các hợp
đồng có đối tượng là tài sản; hai là, các hợp đồng có đối tượng là công việc.
Thứ hai, số lượng và chất lượng là các yếu tố thuộc về đối tượng của hợp
đồng. Trên thực tế, chỉ có số lượng mới là điều khoản cơ bản của hợp đồng, bởi nếu các
bên giao kết hợp đồng không thỏa thuận về số lượng của đối tượng thì không thể xác
định chính xác về đối tượng của hợp đồng, còn về chất lượng của đối tượng thì trong
nhiều trường hợp, nó không được coi là điều khoản cơ bản vì có thể xác định được theo
chất lượng trung bình của đối tượng cùng loại trên thị trường tại thời điểm và địa điểm
giao kết hợp đồng.
Thứ ba, giá cả không phải là điều khoản bắt buộc đối với mọi trường hợp. Bởi vì,
trên thực tế, khi các bên không thỏa thuận về giá của đối tượng thì giá của đối tượng vẫn
có thể được xác định dựa vào giá thị trường của đối tượng cùng loại. Quy định về giá chỉ
bắt buộc trong những trường hợp đặc biệt liên quan đến các loại sản phẩm, hàng hóa, các
loại dịch vụ phải niêm yết giá để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Ví dụ cụ thể như
trường hợp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ thì giá chuyển nhượng được xem là điều
khoản bắt buộc.
Thứ tư, phương thức thanh toán cũng không phải là điều khoản bắt buộc của mọi
hợp đồng. Các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận để đưa ra phương thức thanh toán cho phù
hợp với nhu cầu và khả năng của mỗi bên. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận về
phương thức thanh toán thì áp dụng quy định riêng đối với từng loại hợp đồng hoặc áp
dụng quy định chung về phương thức thực hiện của từng loại nghĩa vụ dân sự trong
BLDS.
6
Thứ năm, thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng cũng không phải là
điều khoản bắt buộc các bên phải thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu các bên không thỏa
thuận về thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng thì thời hạn, địa điểm,
phương thức thực hiện hợp đồng được xác định theo quy định riêng đối với từng loại hợp
đồng hoặc quy định chung về thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện nghĩa vụ dân sự
trong BLDS.
Thứ sáu, về quyền và nghĩa vụ của các bên thì thông thường, đối với mỗi loại hợp
đồng thì pháp luật đều quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên. Tuy nhiên, khi
giao kết hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ cụ thể của mỗi
bên hoặc áp dụng các quy định của pháp luật về vấn đề này. Trong trường hợp các bên
không thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ của các bên thì các quy định của pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong loại hợp đồng tương ứng vẫn được coi là mặc nhiên
có giá trị.
Thứ bảy là về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, các bên giao kết hợp đồng có thể
thỏa thuận về việc xác định trách nhiệm dân sự khi có vi phạm hợp đồng. Sự thỏa thuận
này có thể là về vấn đề phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại hoặc một loại trách nhiệm
khác. Tuy nhiên, nếu các bên không có thỏa thuận thì các quy định của pháp luật về trách
nhiệm do vi phạm từng loại hợp đồng nói riêng và các quy định về trách nhiệm dân sự do
vi phạm nghĩa vụ nói chung vẫn mặc nhiên được áp dụng.
Cuối cùng là về phương thức giải quyết tranh chấp thì xét về bản chất, quan hệ
pháp luật về hợp đồng được hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận và thống nhất ý chí của
các bên tham gia giao kết nên khi tham gia giao kết hợp đồng, các bên được quyền tự
định đoạt tất cả các vấn đề liên quan đến hình thức, nội dung, thậm chí là cả phương thức
giải quyết tranh chấp. Phương thức giải quyết tranh chấp được ưu tiên hàng đầu luôn là
thương lượng và hòa giải giữa các bên. Tòa án chỉ có quyền giải quyết tranh chấp hợp
đồng khi các bên có yêu cầu và chỉ được giải quyết trong phạm vi yêu cầu. Đây là điểm
mới so với BLDS 2005.
3.3 Địa điểm giao kết hợp đồng:
Theo quy định tại Điều 399 bộ luật dân sự 2015 về Địa điểm giao kết hợp đồng:
“Địa điểm giao kết hợp đồng do các bên thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận thì địa
điểm giao kết hợp đồng là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đã đưa ra
đề nghị giao kết hợp đồng.“
Căn cứ vào quy định trên ta thấy Bộ luật Dân sự 2015 tôn trọng quyền tự do ý chí
của các bên trong việc xác định địa điểm giao kết hợp đồng. Các bên có thể thỏa thuận về
địa điểm giao kết hợp đồng là bất kỳ nơi nào. Nếu các bên không có thỏa thuận thì địa
điểm, giao kết hợp đồng được xác định theo nơi cư trú hoặc trụ sở chính của bên đưa ra
lời đề nghị giao kết hợp đồng.
7
Nơi cư trú được xác định theo quy định tại Điều 12 Luật Cư trú năm 2006 sửa đổi
năm 2013: “Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh
sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú“.
Trụ sở chính là địa điểm liên lạc, giao dịch trong quyết định thành lập, đăng ký
hoạt động của doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức.
Các bên tham gia hợp đồng nếu không có thỏa thuận về địa điểm giao kết thì có
thể xác định địa điểm căn cứ vào quy định về nơi cư trú và cách xác định trụ sở chính
như trên. Mặc dù địa điểm giao kết hợp đồng không phải là yếu tố bắt buộc phải được thể
hiện trong hợp đồng. Tuy nhiên, việc xác định địa điểm giao kết hợp đồng lại có những ý
nghĩa quan trọng như: là căn cứ để xác định giá của tài sản trong hợp đồng mua bán khi
các bên không có thỏa thuận, xác định giá của dịch vụ trong trường hợp các bên không
thỏa thuận về giá của dịch vụ, …
3.4 Thời điểm giao kết hợp đồng:
Tại Khoản 1 điều 388 trong BLDS 2015 có quy định: Thời điểm đề nghị giao kết
hợp đồng có hiệu lực được xác định như sau: Do bên đề nghị ấn định. Nếu bên đề nghị
không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận
được đề nghị đó, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Ở đây, BLDS năm 2015
đã bổ sung thêm chế định loại trừ “Trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”, phù
hợp với thực tiễn áp dụng ở nước ta. Và quy định như vậy là để tránh mâu thuẫn giữa các
đạo luật khác, đồng thời ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành.
Chế định chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng: Theo Điều 391 trong BLDS 2015,
thì việc đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong trường hợp sau đây: Bên được đề nghị
chấp nhận giao kết hợp đồng; Bên được đề nghị trả lời không chấp nhận; Hết thời hạn trả
lời chấp nhận; Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực; Khi thông
báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực; Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên được đề
nghị trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời. Như vậy, ở chế định này đã bổ bổ sung
thêm trường hợp: Bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng. Và việc bổ sung quy
định này vừa đúng về mặt lý luận và phù hợp với thực tiễn áp dụng.
Im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng: Theo quy định tại Điều 393 của BLDS
2015, sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên.
Đây là quy định làm rõ hơn trường hợp nào thì im lặng được coi là chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng và trường hợp im lặng nào thi không. Với việc bổ sung nội dung này
đã hạn chế những tranh chấp phát sinh từ sự im lặng.
Về chế định nội dung hợp đồng: Theo Điều 398 của BLDS 2015 thì các bên trong
hợp đồng có quyền thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng. Hợp đồng có thể có các nội
dung sau đây: Đối tượng của hợp đồng; Số lượng, chất lượng; Giá, phương thức thanh
toán; Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; Quyền, nghĩa vụ của các bên;
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Phương thức giải quyết tranh chấp. Như vậy, trong
BLDS mới đã bổ sung thêm quy định: “Các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về
nội dung trong hợp đồng”. Đây được xem là bổ sung thêm phương thức giải quyết tranh
chấp.
Thời điểm giao kết hợp đồng: Theo Điều 400 trong BLDS 2015, trường hợp các
bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì
8
thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn đó. Thời điểm giao kết
hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức
chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản. Quy định này đã bổ sung thời điểm giao kết
hợp đồng bằng hình thức chấp nhận khác. Và quy định như vậy sẽ rõ ràng, dễ vận dụng
và hạn chế xảy ra tranh chấp từ chế định “sự im lặng” khi giao kết. Đồng thời, phù hợp
thực tiễn áp dụng với việc bổ sung thêm quy định những hình thức khác được thể hiện
trên văn bản.
3.5 Hiệu lực của hợp đồng:
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 401 BLDS 2015 có quy định "Hợp đồng được
giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc luật liên quan có quy định khác".
Tuy nhiên cũng theo quy định tại Khoản 1 Điều 401 BLDS 2015 thì vẫn có một số
trường hợp ngoại lệ là hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm khác sau thời điểm giao kết
hợp đồng nhưng không thể có trước hợp đồng, và hiệu lực của hợp đồng có thể được tính
theo sự thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định khác của luật có liên quan .
Việc hợp đồng có hiệu lực theo thỏa thuận của các bên được thực hiện theo
nguyên tắc tự do của các bên và xuất phát từ việc pháp luật tôn trọng sự tự do thỏa thuận
đó. Các bên có quyền tự do thỏa thuận nội dung giao kết hợp đồng nên cũng có quyền
thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là một thời điểm khác so với thời điểm
giao kết, tuy nhiên việc thỏa thuận này cũng phải phù hợp với quy định pháp luật và
không trái với bản chất của hợp đồng. Ví dụ như đối với hợp đồng thuê tài sản các bên có
thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm khác sau khi các bên ký
hợp đồng và thời điểm đó có thể là thời điểm các bên tiến hành thuê tài sản của nhau.
Trong một số trường hợp nhất định pháp luật có quy định riêng về thời điểm phát
sinh hiệu lực. Cụ thể như theo quy định tại Khoản 3 Điều 188 luật đất đai 2013 quy định
" Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp
quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất
đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính" và theo quy định tại Khoản 2
Điều 458 BLDS 2015 cũng quy định " Đối với động sản mà luật có quy định đăng ký
quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký”....
Như vậy, từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và
nghĩa vụ đối với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo
thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Và quy định này là nhẳm đảm
bảo việc thực hiện hợp đồng của các bên, đồng thời rõ ràng hơn trong việc thay đổi nội
dung hợp đồng (tức là phải có sự thỏa thuận giữa các bên).
CHƯƠNG II
BẤT CẬP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
Pháp luật của Việt Nam, đặc biệt là BLDS 2015 đã có quy định về giao kết HĐDS,
tạo cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế các chủ thể, nhất là các
hợp đồng được cá nhân giao kết với nhau bằng lời nói thì thường thực hiện theo thói
9
quen mà ít quan tâm đến quy định của pháp luật, chỉ khi nào việc thực hiện hợp đồng gặp
khó khăn, trở ngại mới tìm hiểu xem pháp luật quy định vấn đề đó như thế nào?
1.Những bất cập:
Theo Báo cáo tổng kểt hàng năm của Ngành Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát có
nêu số liệu về các vụ việc dân sự (bao gồm : các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động) được thụ lý, giải quyết, nhưng không có
số liệu đánh giá riêng về giải quyết tranh chấp HĐDS cũng như giao kết HĐDS. Qua tìm
hiểu thực tế giải quyết các vụ việc tranh chấp về hợp đồng dân sự của Tòa án và Viện
kiểm sát cho thấy các bên chủ yếu tranh chấp về các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh
trong quá trình thực hiện hợp đồng; Còn tranh chấp trong quá trình giao kêt hợp đồng rất
ít và nếu có thì các bên chủ yếu tranh chấp về khoản tiền đặt cọc để đảm bảo giao kết HĐ
DS.
1.1. Về giao kết HĐDS trong trường hợp một người có nhiều tư cách chủ thể:
Giao kết HĐDS là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa các bên với nhau để xác
lập HĐ DS. Tuy nhiên, trên thực tế có trường hợp một người lại mang nhiều tư cách chủ
thế khác nhau, khi ấy họ có được giao kết HĐDS với chính họ hay không
Để trả lời cho câu hỏi trên, xem xét ví dụ sau :
Tháng 10/2017, ông Nguyễn Gia Hoàng, sinh năm 1980 và vợ là Trịnh Ngọc Yến,
sinh năm 1984, thường trú tại phường 1, thành phố X đến phòng công chứng làm thủ tục
tặng cho con trai là Nguyễn Văn Hà, sinh năm 2013 (hiện đang ở cùng với bố mẹ) toàn
bộ quyền sử dụng đất 35,6 mét vuông đất ở và tài sản gắn liền với đất là nhà ba tầng
cùng vật kiến trúc khác tại phường 1 Thành phố X (có Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và là tài sản chung của vợ chồng). Trong trường hợp này chủ thể giao kết hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất sẽ như thế nào?
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các
bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được
tặng cho mà không theo yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho mà không yêu cầu đền
bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận (Điều 457 BLDS 2015). Cháu Nguyễn Văn Hà
mới hơn 4 tuổi (chưa đủ 6 tuổi) không có năng lực hành vi dân sự nên trong hợp đồng
tặng cho phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện (khoản 2 Điêu 21 BLDS
2015). Như vậy, ông Nguyễn Gia Hoàng và vợ là Trịnh Ngọc Yến sẽ cùng đứng tên ở cả
hai bên của hợp đồng với hai tư cách khác nhau để giao kết hợp đồng (là bên tặng cho tài
sản và đại diện theo pháp luật của cháu Nguyễn Văn Hà là bên được tặng cho tài sản).
Quan điểm thứ hai cho rằng : Ông Nguyễn Gia Hoàng và vợ là Trịnh Ngọc Yến
không thể cùng đứng tên ở cả hai bên của hợp đồng với hai tư cách khác nhau để giao kết
hợp đồng (là bên tặng cho tài sản và đại diện theo pháp luật của cháu Nguyễn Văn Hà là
bên được tặng cho tài sản) vì như vậy là họ đã giao kết với chính họ thì không thể xác lập
HĐDS được. Như vậy, cần phải có người đại diện khác, hoặc người giám hộ khác để giao
kết hợp đồng này.
Quan điểm thứ ba cho rằng : Riêng đối với hợp đồng mà chỉ mang lại lợi ích cho
bên được đề nghị (như hợp đồng tặng cho tài sản) thì người không đủ năng lực hành vi
dân sự vẫn có thể tham gia giao kết với bên được tặng cho. Bởi lẽ theo hợp đồng này bên
được tặng cho chỉ được hưởng tài sản chứ không phải thực hiện bất cứ nghĩa vụ nào.
Bản thân tôi đồng ý với quan điểm thứ ba, bở lẽ trên thực tế, khi bố mẹ tặng cho
con mình (dưới 6 tuổi) những tài sản là đồ dùng sinh hoạt hằng ngày cũng không cần
phải có người đại diện khác, hoặc giám hộ khác. Tuy nhiên, pháp luật cũng cần phải có
quy định hướng dẫn cụ thể việc giao kết hợp đồng dân sự trong trường hợp mà một người
10
có nhiều tư cách chủ thể để bảo đảm áp dụng thống nhất trong thực tế. Ví dụ như trường
hợp giám đốc doanh nghiệp trực tiếp kí kết hợp đồng thuê tài sản (máy móc, nhà làm trụ
sở... ) mà tài sản đó là của chính cá nhân họ.
1.2. Về hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng bằng văn bản :
Pháp luật không quy định cụ thể về hình thức của đề nghi giao kết hợp đồng và
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng dân sự. Khoản 4 Điều 400 BLDS 2015 có quy
định : “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng kí vào văn
bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản”. Theo quy định này
có thể hiểu là: Đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng với hình thức
bằng văn bản bắt buộc phải có chữ ký của các bên được hay không? Trên thực tế, đối với
những hợp đồng giao kết bằng văn bản thường phải có chữ ký (hoặc điểm chỉ) của các
bên ; Đối với chủ thể giao kết HĐDS là tổ chức, pháp nhân thì đề nghị giao kết, chấp
nhận đề nghị giao kết HĐDS thường có chữ kí, có đóng dấu.
Theo quy định tại Điều 48 Luật Công chứng năm 2014 thì việc điểm chỉ được thay
thế việc ký trong văn bản công chứng trong các trường hợp người yêu cầu công chứng,
người làm chứng không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký; Hoặc theo đề nghị của
người yêu cầu công chứng; Hoặc công chứng viên thấy cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho
người yêu cầu công chứng. Thực tế, khi giao kết HĐDS (trước khi thực hiện việc chứng
nhận hợp đồng) nhiều công chứng viên thường yêu cầu chủ thể là cá nhân vừa ký vừa
điểm chỉ (mặc dù họ không bị khuyết tật và biết ký) để bảo vệ quyền lợi của các bên.
Như vậy, đề nghi giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng với hình
thức văn bản có đầy đủ các nội dung của hợp đồng và nội dung của hợp đồng nhưng
không có chữ ký, hoặc có chữ ký nhưng không đóng dấu đối với pháp nhân, hoặc không
có chữ ký nhưng có điểm chỉ ... thì có giá trị pháp lý ràng buộc các bên hay không cũng
cần phải được quy định cụ thể để đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể, hạn chế các tranh
chấp có thể phát sinh.
1.3. Về thời hạn trả lời chấp nhận giao kết HĐDS quy định chưa đảm bảo tính
thống nhất:
Chúng ta cùng xem xét vụ việc sau : Ngày 01/11/2017, Công ty trách nhiệm hữu
hạn Hải Hoàng, có trụ sở tại Quận I, gửi đề nghị giao kết HĐDS cho Công ty cổ phần xây
dựng và kinh doanh nhà Phước Thịnh có trụ sở tại Quận Gò Vấp với nội dung : bán 100
tấn thép cây xây dựng, kích cỡ D8 – D22, chất lượng loại 1, xuât xứ lô hàng là Việt Nam;
giá bán : 9.500.000 VNĐ/tấn (chưa bao gồm VAT), thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển
khoản ; điều kiện giao hàng là giao hàng trên phương tiện của bên mua; nếu Công ty cổ
phần xây dựng và kinh doanh nhà Phước Thịnh đồng ý mua thì trả lời bằng văn bản trước
ngày 15/11/2017. Ngày 12/11/2017, Công ty cổ phần xây dựng và kinh doanh nhà Phước
Thịnh chấp nhận đề nghị giao kết với nội dung nêu trên (theo dấu bưu điện), nhưng đến
ngày 17/11/2017 Công ty trách nhiệm hữu hạn Hải Hoàng mới nhận được. Như vậy,
trong trường hợp này chấp nhận đề nghị giao kết HĐDS có được công nhận hay không ?
Khoản 1 Điêu 394 BLDS 2015 có quy định: “1. Khi bên đề nghị có ấn định thời
hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó;
nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp
nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời ......”.
Như vậy, trả lời chấp nhận đề nghị của Công ty cổ phần xây dựng và kinh doanh
nhà Phước Thịnh được thực hiện trong thời gian đã nêu trong đề nghị giao kết nên có
hiệu lực; Nhưng Công ty trách nhiệm hữu hạn Hải Hoàng lại nhận được trả lời chấp nhận
11
đề nghị giao kết chậm 3 ngày nên được coi là một đề nghị mới của Công ty cổ phần xây
dựng và kinh doanh nhà Phước Thịnh đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn Hải Hoàng.
Đây là điểm quy định không thống nhất của khoản 1 Điều 394 BLDS 2015, khi đồng thời
quy định việc trả lời chấp nhận có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đã được ấn
định – tức là khi trả lời chấp nhận được gửi đi đã có hiệu lực lại vừa quy định bên đề nghị
giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì lời chấp nhận này được
coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời – tức là trả lời chấp nhận đề nghị có hiệu lực và
được công nhận khi bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời trong thời hạn ấn
định.
2. Hướng hoàn thiện:
Việc hoàn thiện pháp luật về giao kết HĐDS ở Việt Nam phải tạo ra bước chuyển
biến căn bản để điều chỉnh các quan hệ dân sự phát sinh trong quá trình giao kết hợp
đồng giữa các chủ thể theo hướng tạo thuận lợi và bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các
chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng. Trong phạm vi bài viết của mình, tôi xin nêu ra
một số kiến nghị, đề ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết HĐDS
ở Việt Nam trong thời gian tới như sau:
2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật quy định về giao kết HĐDS theo hướng Bộ luật Dân sự
là đạo luật chung điều chỉnh về giao kết hợp đồng trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh,
thương mại, lao động:
Ngoài ra, các quy định chung trong BLDS cần có thêm các quy định có tính chất
riêng về giao tiếp hợp đồng chỉ áp dụng cho loại hợp đồng cụ thể thì sẽ quy định trong
các văn bản pháp luật chuyên ngành như: Bộ luật Lao động; Luật thương mại; Luật
chứng khoán... Như vậy sẽ đảm bảo phù hợp với thực tế cũng như tính ổn định cao của
pháp luật.
2.2. Quy định nguyên tắc giao kết HĐDS bảo đảm tính thống nhất và tránh trùng lặp:
Việc giao kết HĐDS phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản đã được quy định tại
Phần thứ nhất “Những quy định chung của Bộ luật Dân sự, đồng thời nên giữ lại nguyên
tắc giao kết hợp đồng quy định tai điều 389 BLDS 2005:
“Việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
1). Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội;
2). Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.”
Việc giữ lại các nguyên tắc này phù hợp với thực tế cũng như tính ổn định cao của
pháp luật mà các bên vẫn phải tuân theo khi giao kết HĐDS. Đặc biệt là việc tự do giao
kết hợp đồng nhưng “không được trái pháp luật, đạo đức xã hội” cũng như được thay thể
bởi giới hạn “không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội” bảo đảm
sự chính xác và tính thống nhất trong Bộ luật Dân sự.
2.3. Quy định cụ thể hình thức, nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng để bảo đảm thuận tiện cho các bên trong quá trình giao kết hợp
đồng:
+ Về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tại khoản 2 điều 393 BLDS 2015: Theo
tôi, BLDS có thể quy định chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo hướng khái quát là:
“Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên” nên
bỏ cụm từ “ hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên”. Vì quy định này dễ phát
sinh tranh chấp giữa các bên tham gia giao kết.
12
Bộ luật dân sự cũng cần quy định chấp nhận đề nghi giao kết hợp đồng với hình
thức văn bản bắt buộc phải có chữ kí hoặc điểm chỉ của chủ thể giao kết hợp đồng.
Đối với chủ thể giao kết HĐDS là tổ chức, pháp nhân thì đề nghị giao kết, chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng có chữ kí của người có thẩm quyền và có đóng dấu của tổ
chức, pháp nhân đó.
+Về nội dung đề nghị giao kết hợp đồng: Theo tôi, nội dung của đề nghị giao kết
hợp đồng cần có ba yếu tố chính:
(1) Đề nghị giao kết HĐDS phải thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng của bên đề
nghị giao kết hợp đồng;
(2) Phải có các nội dung chủ yếu của loại hợp đồng mà các bên muốn xác lập;
(3) Phải thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng của bên đề nghị giao kết với chủ thể
khác đã được xác định cụ thể.
Ngoài ra, nội dung đề nghi giao kết HĐDS có thể xác định rõ thời hạn trả lời chấp
nhận đề nghị giao kết. Bộ luật Dân sự cũng cần quy định cụ thể cách thức xác định thời
hạn trả lời chấp nhận đề nghị giao kết thì không được ấn định rõ trong đề nghị theo
hướng: Đề nghị giao kết phải được chấp nhận trong khoảng thời gian hợp lý tùy từng
trường hợp, có xem xét đến tốc độ truyền tin mà bên đề nghị dùng; Hoặc theo hướng quy
định rõ số ngày (15 ngày hoặc 30 ngày) hoặc giao cho Tòa án xác định cụ thể khi giải
quyết vụ việc tranh chấp.
Bộ luật Dân sự cũng cần quy định cụ thể về nội dung đề nghị giao kết hợp đồng
trong trường hợp không xác định rõ nội dung của đề nghị giao kết trong trường hợp hứa
thưởng và thi có giải, trong đó người công khai hứa thưởng, người tổ chức cuộc thi có
giải không hướng tới chủ thể xác định cụ thể (hoặc trong các trường hợp tương tự) thì
được coi là đề nghị giao kết hợp đồng đặc biệt hay đề nghị giao kết hợp đồng công cộng.
+Về nội dung chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng: Các quy định về hợp đồng trong Bộ
luật Dân sự là quy định chung nhất áp dụng được cho tất cả các loại hợp đồng trong đó có
lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Do đó, cũng cần nghiên cứu và quy định rõ đối với
trường hợp trả lời có sửa đổi, bổ sung nhưng không ảnh hưởng nhiều đến các nội dung
trong đề nghị giao kết hợp đồng thì được coi là sự chấp nhận, trừ khi bên đề nghị giao kết
không đồng ý. Theo tôi, trả lời đề nghị giao kết hợp đồng có sửa đổi, bổ sung nhưng
không ảnh hưởng nhiều đến các nội dung trong đề nghị giao kết hợp đồng như: Sửa đổi
kết cấu điều khoản hợp đồng; Nêu rõ pháp luật áp dụng khi có tranh chấp... mà được bên
đề nghị giao kết hợp đồng đồng ý thì có thể coi là chấp nhận đề nghị giao kết. Như vậy,
sẽ phù hợp với quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại vốn rất năng
động, linh hoạt và thông lệ quốc tế.
Bộ luật Dân sự cần bổ sung một điều quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của
các bên giao kết hợp đồng. Các bên có nghĩa vụ cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp
thời trong quá trình giao kết hợp đồng. Cũng cần có quy định bên đề nghị giao kết có
nghĩa vụ thông báo không chậm trễ cho bên được đề nghị biết họ đã không nhận được trả
lời chấp nhận đề nghị trong hạn nên đề nghị giao kết hợp đồng bị hủy bỏ; Quy định bên
được đề nghị giao kết có nghĩa vụ thông báo kịp thời bằng phương tiện truyền tin nhanh
nhất để bên đề nghị giao kết hợp đồng biết trước khi bên đề nghị giao kết nhận được văn
bản chính thức theo đường bưu điện...
Cuối cùng cần bỏ sung cụ thể quy định về giao kết HĐDS trong trường hợp một
người có nhiều tư cách chủ thể:
13
Giao kết HĐDS là quá trình bày tỏ, thống nhất ý chí giữa các bên với nhau để xác
lập HĐ DS. Tuy nhiên, trên thực tế có trường hợp một người lại mang nhiều tư cách chủ
thế khác nhau, khi ấy họ có được giao kết HĐDS với chính họ hay không
KẾT LUẬN:
Việc hoàn thiện pháp luật về giao kết HĐDS ở Việt Nam phải tạo ra bước chuyển biến
căn bản để điều chỉnh các quan hệ dân sự phát sinh trong quá trình giao kết hợp đồng
giữa các chủ thể theo hướng tạo thuận lợi và bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các chủ thể
khi tham gia quan hệ hợp đồng. Trong phạm vi bài viết của mình, tôi đã nêu ra một số bất
cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết HĐDS ở Việt Nam trong thời gian tới.
Trên đây là toàn bộ ý kiến của em về đề tài: “Quy định về giao kết hợp đồng trong
bộ luật dân sự 2015-Những bất cập và hướng hoàn thiện”, vì nhận thức còn hạn chế nên
khi tiếp cận vấn đề không tránh khỏi những sái sót. Kính mong nhận được sự bổ sung,
đánh giá của các thầy, cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
14