TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ & KINH DOANH QUỐC TẾ
-------***--------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC LOGISTICS
TẠI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Họ và tên sinh viên
Mã sinh viên
Lớp
Khóa
Người hướng dẫn khoa học
: Hoàng Tuấn Minh
: 1111110445
: Anh 15
: 50
: PGS.TS. Trịnh Thị Thu Hương
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LOGISTICS VÀ NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG LĨNH VỰC LOGISTICS ..........................................................................3
1.1
Tổng quan về logistics .................................................................................3
1.1.1
Lịch sử hình thành logistics ..................................................................3
1.1.2
Một số khái niệm logistics .......................................................................5
1.1.3
Chức năng của logistics.........................................................................8
1.1.4
Vai trò của logistics ..............................................................................11
1.1.5
Tác dụng của logistics .........................................................................13
1.2
Nguồn nhân lực và vai trò của nguồn nhân lực ......................................16
1.2.1
Khái niệm nguồn nhân lực..................................................................16
1.2.2
Vai trò của nguồn nhân lực ................................................................18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC
LOGISTICS Ở VIỆT NAM ...................................................................................23
2.1
Thực trạng ngành logistics ở Việt Nam hiện nay ...................................23
2.1.1
Đặc điểm thị trường dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện nay ................23
2.1.2
Thực trạng ngành logistics ở Việt Nam hiện nay ..............................25
2.1.3 Nguyên nhân tính cạnh tranh của các doanh nghiệp logistics Việt
Nam còn yếu kém ..............................................................................................28
2.2
Thực trạng nguồn nhân lực phục vụ cho lĩnh vực logistics ở Việt Nam ..
.....................................................................................................................34
2.2.1 Thực trạng hiện nay về nguồn nhân lực phục vụ cho lĩnh vực
logistics ở Việt Nam ...........................................................................................34
2.2.2
Đánh giá nguồn nhân lực trong khu vực dịch vụ logistics ...............39
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG LĨNH VỰC LOGISTICS TẠI VIỆT NAM ..........................................45
3.1
Định hướng phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics ...........45
3.1.1
Quan điểm phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics .........45
3.1.2
Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics.............47
3.1.3 Yêu cầu của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực
logistics ...............................................................................................................47
3.2 Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực cung ứng dịch vụ logistics
tại Việt Nam ..........................................................................................................49
3.2.1
Giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong dài hạn ..........................49
3.2.2
Giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong trung hạn và ngắn hạn .54
KẾT LUẬN ..............................................................................................................61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................63
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
JIT
Just In Time
EOQ
Economic Order Quantity
GDP
Gross Domestics Product
MNC
Multinational Corporation
FDI
Foreign Direct Investment
UNCTAD
United Nations Conference on Trade and Development
WTO
World Trade Organization
GNP
Gross National Product
WDIS
World Development Indicators
ASEAN
Association of Southeast Asian Nations
AFTA
ASEAN Free Trade Area
CNH, HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CSCMP
Council of Supply Chain Management Professional
ISPS
International Ship and Port facility Security
IATA
International Air Transport Association
FIATA
International Federation of Freight Forwarders Associations
VLA
Vietnam Logistics Association
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
Hình 1.1: Kiểm soát dòng vận động bên trong và bên ngoài doanh nghiệp ...............5
Hình 1.2: Bốn chức năng hoạt động của doanh nghiệp ............................................10
Hình 2.1: Tỷ trọng chi phí logistics so với GDP của một số nước ...........................23
Bảng 2.1: Chỉ số năng lực logistics của các quốc gia ASEAN (Logistics
Performance Index – LPI) .........................................................................................24
Hình 2.2: Thực trạng nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics được đào tạo qua các
phương pháp khác nhau ............................................................................................36
Hình 2.3: Tỷ lệ học viên học tập về logistics qua các phương thức khác nhau ........37
Hình 3.1: Mô hình 3 nhà ...........................................................................................53
1
LỜI MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam được đánh giá là một quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh và
tương đối ổn định bậc nhất Châu Á kể từ thời kỳ đổi mới năm 1986 . Các nỗ lực của
chính phủ Việt Nam trong việc hòa nhập với nền kinh tế thế giới phải kể đến là các
hiệp định kinh tế song phương và đa phương như Việt Nam - Nhật Bản hay ASEAN
– Hàn Quốc; trở thành thành viên của khối thương mại tự do (AFTA) của ASEAN
hay gần đây nhất là gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Những nỗ lực
này đã tạo nên những sự thay đổi to lớn trong phát triển kinh tế và thương mại của
Việt Nam, thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài và tạo động lực cho sự
phát triển của các lĩnh vực trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trong lĩnh vực dịch vụ
logistics thì Việt Nam mới đang chập chững các bước khởi đầu. Các khó khăn khi
phát triển lĩnh vực dịch vụ logistics của Việt Nam phải kể đến là: khó khăn về cơ sở
hạ tầng và các trang thiết bị phục vụ logistics; hạn chế về chi phí logistics; khó khăn
về thời gian vận tải và các vấn đề liên quan đến thủ tục; khó khăn liên quan đến vấn
đề cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ Logistics; khó khăn do mạng logistics còn
nghèo nàn và cuối cùng là khó khăn từ nguồn nhân lực phục vụ cho lĩnh vực dịch
vụ này.
Mặc dù vậy, lĩnh vực logistics ở Việt Nam vẫn đóng một vai trò vô cùng quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Theo báo cáo mới nhất của Bộ Giao
thông Vận tải về thực trang và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics
tháng 12/2014 thì dịch vụ logistics chiếm 15-20% GDP, cùng với đó là sự gia tăng
nhanh qua từng năm (từ 20% đến 25%); song, do phát triển nóng nên nguồn nhân
lực cung cấp cho thị trường logistics tại Việt Nam hiện nay trở nên thiếu hụt trầm
trọng, bên cạnh đó chất lượng của đội ngũ nhân lực cũng chỉ đáp ứng được 40%
nhu cầu của thị trường. Quyết định số 175 QĐ-TTg ngày 27/1/2011 của Thủ tướng
phê duyệt “Chiến lược phát triển tổng thể khu vực dịch vụ của Việt Nam đến 2020”
đã nêu rõ “Coi logistics là yếu tố then chốt thúc đẩy phát triển sản xuất, hệ thống
phân phối các ngành dịch vụ khác và lưu thông hàng hóa” và coi yếu tố đào tạo,
giáo dục là yếu tố then chốt để dần tiến tới mục tiêu hình thành nền kinh tế tri thức
trong các giai đoạn phát triển tiếp sau. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu các giải
2
pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực cho khu vực dịch vụ logistics của Việt Nam là
cần thiết và cấp bách. Xuất phát từ thực tiễn trên, em đã chọn đề tài “Nguồn nhân
lực trong lĩnh vực Logistics tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” làm đề tài
nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của mình.
2.
Mục đích nghiên cứu
Dựa trên những phân tích về thực trạng nguồn nhân lực trong lĩnh vực dịch vụ
logistics ở Việt Nam để thấy điểm mạnh và điểm cần khắc phục đối với toàn bộ lực
lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực này; từ đó đề xuất một số giải pháp để thực
hiện phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics tại Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để đảm bảo đề tài mang tính khoa học và thực tiễn cao, trong khóa luận này
người viết đã sử dụng chủ yếu hai phương pháp cơ bản của kinh tế để có thể nhìn
nhận vấn đề một cách khái quát và thực tế nhất. Cụ thể là:
Phương pháp tổng hợp, thống kê từ các nguồn tài liệu như sách, báo,
tạp chí website,…
Phương pháp phân tích, đánh giá, so sánh, đối chiếu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics ở Việt
Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics tại Việt
Nam trong những năm gần đây.
5. Nội dung nghiên cứu:
Khóa luận gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về logistics và nguồn nhân lực trong lĩnh vực
logistics
Chương II: Thực trạng về nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics tại Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực
logistics tại Việt Nam
3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LOGISTICS VÀ
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG LĨNH VỰC LOGISTICS
1.1
Tổng quan về logistics
1.1.1
Lịch sử hình thành logistics
Logistics là một trong những số ít thuật ngữ khó dịch nhất. Cũng giống như từ
“Marketing” thì “Logistics” cũng không có bất cứ một từ đơn Tiếng Việt nào có thể
diễn đạt trọn vẹn được ý nghĩa của từ, bởi vì bao hàm nghĩa của từ này quá rộng.
Vậy logistics bắt đầu từ bao giờ và trong bối cảnh nào?
Vào đầu thế kỷ 18, khi cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu thì mục tiêu kinh
doanh lúc đó là hướng vào sản xuất. Mỗi doanh nghiệp đều tập trung khả năng vào
việc giảm chi phí sản xuất trên mỗi đơn vị sản phẩm. Đến đầu thế kỷ 19, sản xuất
bắt đầu bắt kịp với nhu cầu và các doanh nghiệp nhận thức được rằng việc bán hàng có
tầm quan trọng vô cùng to lớn. Nhưng logistics/phân phối vật chất vẫn bị giới kinh doanh
lãng quên cho đến tận sau này.
Thuật ngữ logistics đầu tiên được sử dụng trong quân đội và mang nghĩa là
"hậu cần" hoặc "tiếp vận". Trong suốt Chiến tranh Thế giới II, các lực lượng quân
đội đã sử dụng các phương thức logistics để cung cấp hàng hóa tiếp vận một cách
hiệu quả để đảm bảo rằng quân nhu được đáp ứng đúng nơi đúng lúc. Thuật ngữ
này hiện nay vẫn tiếp tục được sử dụng rộng rãi trong quân đội và các ứng dụng dạng
quân đội. Trong thời kỳ Ethiopia được cứu trợ thoát khỏi nạn đói vào những năm 80 thì
thuật ngữ này được dùng để chỉ các hoạt động cung cấp lương thực.
Rất nhiều phương thức logistics được biết đến trong Chiến tranh Thế giới II đã
tạm thời bị lãng quên trong hoạt động kinh tế thời hậu chiến tranh. Các giám đốc
marketing bắt đầu hướng sự chú ý vào việc đáp ứng nhu cầu về hàng hoá thời hậu
chiến tranh. Việc thu hẹp lợi nhuận sau cuộc khủng hoàng năm 1958 đã tạo ra một
môi trường khiến các nhà kinh doanh trên thế giới phải tìm kiếm các hệ thống kiểm
soát chi phí hiệu quả hơn. Hầu như cùng một lúc, nhiều doanh nghiệp nhận thức
rằng phân phối vật chất và logistics là những vấn đề mà họ chưa thật sự quan tâm,
dành công sức để nghiên cứu nó. Một loạt các xu hướng khác cũng đã được nhận
thức rõ và điều này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tập trung chú ý vào phân phối
sản xuất. Đó là các xu hướng sau:
4
Thứ nhất, chi phí vận tải tăng nhanh một cách chóng mặt. Với việc giá cả của
các phương thức phân phối truyền thống tăng cao thì các nhà quản trị đã nhận thức
được nhu cầu phải kiểm soát các chi phí này tốt hơn. Vào những năm 70, các chi
phí này càng trở nên quan trọng khi giá nhiên liệu tăng lên và sự khan hiếm về địa
điểm. Vận tải không còn được coi là một nhân tố ổn định trong các phương trình
của các nhà hoạch định kinh doanh. Việc quản trị cấp cao đã bao gồm các khía cạnh
logistics có liên quan đến vận tải, cả trong hoạt động và các cấp độ chính sách, do
có rất nhiều quyết định mới được đưa ra nhằm thích ứng với sự thay đổi chóng mặt
trong tất cả các lĩnh vực của vận tải.
Thứ hai, hiệu quả sản xuất đã đạt tới đỉnh điểm. Việc tạo nên sự tiết kiệm chi
phí thêm nữa trở nên hết sức khó khăn bởi vì sự tiết kiệm đã bị vắt kiệt trong sản xuất.
Mặt khác, phân phối vật chất và logistics vẫn là lĩnh vực hầu như chưa được khai phá.
Thứ ba, có sự thay đổi đáng kể trong triết lý về hàng tồn kho. Vào thời điểm
đó, các nhà bán lẻ nắm giữ xấp xỉ một nửa số lượng hàng thành phẩm trong kho còn
các nhà bán buôn và các nhà sản xuất nắm giữ phần còn lại. Trong những năm 50,
các kỹ thuật phức tạp hơn nhằm kiểm soát hàng hoá trong kho, đặc biệt là trong lĩnh
vực kinh doanh hàng tạp hoá, đã làm giảm tổng số lượng hàng hoá trong kho và làm
thay đổi tỷ lệ nắm giữ hàng hoá của các nhà bán lẻ xuống còn 10% còn các nhà
phân phối và sản xuất nắm giữ 90%.
Thứ tư, các dây chuyền sản xuất gia tăng nhanh chóng, đây là hệ quả trực tiếp
của triết lý marketing cung cấp cho mỗi khách hàng loại sản phẩm cụ thể mà họ yêu
cầu. Ví dụ, cho đến giữa những năm 50, các sản phẩm như máy đánh chữ, bóng đèn
điện, giấy vệ sinh có chức năng là chính công dụng của nó. Nhưng gần đây, sự khác
biệt của sản phẩm không còn bị giới hạn bởi sự khác biệt về cấu trúc thực tế. Một
người buôn bóng đèn điện có thể không chỉ bán bóng đèn điện vàng mà còn có thể
buôn bán những loại bóng đèn điện khác với nhiều màu sắc và chủng loại hơn, tiết
kiệm điện năng hơn sao cho phù hợp với yêu cầu của người mua hơn.
Thứ năm, công nghệ tin học đã tạo nên sự thay đổi lớn. Quản trị việc tiếp cận
logistics bao gồm một số lượng lớn chi tiết và dữ liệu. May mắn thay, các khái niệm
về phân phối vật chất và logistics đang được phát triển, cùng với đó là sự xuất hiện
của máy vi tính cho phép các khái niệm được đưa vào thực tiễn. Nếu không có sự
5
phát triển và sử dụng máy vi tính trong thời gian này, các khái niệm về logistics và
phân phối vật chất sẽ vẫn chỉ là các học thuyết ít có khả năng áp dụng vào thực tế.
Thứ sáu, việc sử dụng máy vi tính ngày càng nhiều cũng là một nhân tố, bởi vì
ngay cả khi một doanh nghiệp cụ thể nào đó không sử dụng máy vi tính thì nhà
cung cấp và khách hàng của doanh nghiệp này cũng vẫn sử dụng. Điều này đã tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp biết được một cách có hệ thống chất lượng dịch vụ
mà họ nhận được từ nhà cung cấp của mình. Dựa trên loại phân tích này, rất nhiều
doanh nghiệp đã có khả năng nhận ra được nhà cung cấp nào đã cung cấp dịch vụ
dưới mức tiêu chuẩn cho mình. Rất nhiều doanh nghiệp đã được thức tỉnh để nhận
ra được nhu cầu cần thiết phải nâng cấp hệ thống phân phối của mình. Và khi các
doanh nghiệp sản xuất chuyển sang áp dụng hệ thống JIT thì họ cũng đặt ra cho các
nhà cung cấp một yêu cầu rất chính xác về vận chuyển nguyên vật liệu.
1.1.2
Một số khái niệm logistics
Bất cứ khi nào có sự thay đổi lớn trong một lĩnh vực thì các thuật ngữ và định
nghĩa cũng thay đổi theo. Logistics cũng không nằm ngoài quy luật đó. Các thuật
ngữ như : logistics kinh doanh, phân phối vật chất, quản lý nguyên vật liệu, kỹ thuật
phân phối, quản trị logistics... đều là các thuật ngữ được sử dụng để diễn đạt cùng
một chủ đề, đó là cái mà chúng ta gọi là logistics. Logistics diễn tả toàn bộ quá trình
nguyên vật liệu và sản phẩm đi vào, qua và đi ra khỏi doanh nghiệp.
Hình 1.1: Kiểm soát dòng vận động bên trong và bên ngoài doanh nghiệp
Nguyên vật liệu
Nhà bán lẻ
K.
H
À
N
Quá trình
sản xuất
Nhà
máy
G
Quản trị nguyên vật liệu
Kho
chứa
thành
phẩm
Nhà
bán
buôn
Phân phối vật chất
Logistics kinh doanh
Nguồn: tác giả tự tổng hợp
Vậy logistics là gì? Đây là một khái niệm còn mới mẻ đối với phần lớn người
Việt Nam tuy nhiên trên thế giới thuật ngữ logistics đã xuất hiện từ lâu. Lúc mới
6
đầu du nhập vào Việt Nam, nhiều người cho rằng logistics là hậu cần hay tiếp nhận
hoặc tổ chức dịch vụ cung ứng…Tuy nhiên những thuật ngữ đó chưa phán ánh một
cách đầy đủ và đúng đắn bản chất của logistics. Do vậy cũng giống như thuật ngữ
“Marketing”, cách tốt nhất là giữ nguyên thuật ngữ này và bổ sung chúng vào tiếng
Việt.
Logistics được đưa ra lần đầu tiên với tư cách là một thuật ngữ bởi một nhà
quân sự người Thuỵ Sỹ Baron Antonie Henry. Trong tác phẩm “Tổng kết lịch sử
quân sự” xuất bản năm 1838, ông này lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ logistics với ý
nghĩa là nghệ thuật điều chuyển quân đội. Từ điển bách khoa Webster cũng định
nghĩa logistics là: “một nhánh của khoa học quân sự thực hiện các hoạt động thu
thập, bảo quản và vận chuyển nguyên liệu, nhân sự và phương tiện”.
Theo hội đồng quản trị logistics Mỹ- 1988: “Logistics là quá trình lên
kế hoạch, thực hiện và kiểm soát hiệu quả, tiết kiệm chi phí của dòng lưu chuyển và
lưu trữ nguyên vật liệu, hàng tồn, thành phẩm và các thông tin liên quan từ điểm
xuất xứ đến điểm tiêu thụ, nhằm mục đích thoả mãn những yêu cầu của khách
hàng”.
Theo Hội đồng Quản lý dịch vụ Logistics (CLM) quốc tế (Hội đồng
này thiết lập các nguyên tắc, thể lệ, nội dung mà các DN cung cấp dịch vụ Logistics
các nước thường áp dụng và chịu quy chế của Hội đồng này) “Logistics là một phần
của quá trình cung cấp dây chuyền bao gồm lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm
soát hiệu quả, lưu thông hiệu quả và lưu giữ các loại hàng hoá, dịch vụ và có liên
quan đến thông tin từ điểm cung cấp cơ bản đến các điểm tiêu thụ để đáp ứng các
nhu cầu của khách hàng”
Theo quan điểm “5 đúng” (5 rights) thì: “logistics là quá trình cung
cấp đúng sản phẩm đến đúng vị trí, vào đúng thời điểm với điều kiện và chi phí phù
hợp cho khách hàng tiêu dùng sản phẩm”.
Theo Logistics and Supply Chain Management của MA Shuo (World
Maritime University, 1999) thì: “logistics là quá trình tối ưu hoá về vị trí, lưu trữ và
chu chuyển các tài nguyên/yếu tố đầu vào từ điểm xuất phát đầu tiên là nhà cung
cấp, qua nhà sản xuất, người bán buôn, bán lẻ, đến tay người tiêu dùng cuối cùng,
thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế”.
7
Luật Thương Mại Việt Nam năm 2005 không đưa ra khái niệm
“logistics” mà đưa ra khái niệm “dịch vụ logistics” như sau: “Dịch vụ logistics là
hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công
đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các
thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng
hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng
để hưởng thù lao” (Điều 233- Luật Thương mại Việt Nam năm 2005)
Theo định các nghĩa này, thì logistics không phải là một hoạt động đơn lẻ mà
là một quá trình gồm một chuỗi các hoạt động có liên quan, được thực hiện khoa
học và có tác động qua lại lẫn nhau. Logistics gồm hoạt động xây dựng chiến lược
cũng như thực hiện chiến lược. Logistics không chỉ đơn thuần liên quan đến nguyên
nhiên vật liệu mà còn liên quan tới tất cả nguồn tài nguyên, các yếu tố đầu vào như
vốn, nhân lực, vật lực cũng như thông tin, bí quyết công nghệ, dịch vụ.... Đây là
những yếu tố cần thiết để tạo nên sản phẩm hay dịch vụ phù hợp với yêu cầu của
người tiêu dùng. Logistics bao trùm cả hai cấp độ hoạch định và tổ chức. Cấp độ
thứ nhất các vấn đề được đặt ra là phải lấy nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành
phẩm, dịch vụ…ở đâu? Vào khi nào? Và vận chuyển chúng đi đâu? Cấp độ thứ hai
là việc làm thế nào để đưa được nguồn tài nguyên, các yêu tố đầu vào từ điểm đầu
đến điểm cuối dây chuyện cung ứng.
Qua các khái niệm trên, ta thấy rằng tuy có sự khác nhau về từ ngữ và cách
diễn đạt, nhưng các tác giả đều cho rằng: logistics là hoạt động quản lý dòng lưu
chuyển của nguyên vật liệu từ khâu mua sắm qua quá trình lưu kho, sản xuất ra sản
phẩm và phân phối đến tay người tiêu dùng. Mục đích là giảm tối đa chi phí phát
sinh hoặc sẽ phát sinh với một thời gian ngắn nhất trong quá trình vận động của
nguyên vật liệu phục vụ sản xuất cũng như phân phối hàng hoá một cách kịp thời
(Just in time).
8
1.1.3
Chức năng của logistics
1.1.3.1. Logistics có chức năng là một dịch vụ
Logistics có chức năng là một dịch vụ. Nó tồn tại để cung cấp dịch vụ cho
doanh nghiệp hoặc cho khách hàng của doanh nghiệp. Dịch vụ, đối với cả doanh
nghiệp hay khách hàng, đều được cung cấp thông qua việc tập trung các yếu tố khác
nhau, mà các yếu tố này lại được tập hợp dưới sự điều hành của logistics. Dịch vụ
logistics trong doanh nghiệp chú trọng đến các yếu tố về quản trị nguyên vật liệu,
lưu kho trong nhà máy và phân phối vật chất. Tuy nhiên, nó không chỉ bị hạn chế
trong các dịch vụ hữu hạn này. Ngược lại, bản chất của các chức năng cơ bản này
chỉ ra các mức độ khác nhau của việc nhấn mạnh vào các yếu tố khác của logistics.
Ví dụ như:
Một trong ba chức năng cơ bản là quản trị nguyên vật liệu, chuyển
giao lưu kho nội bộ và phân phối vật chất đều trực tiếp dẫn tới yêu cầu phải lưu
kho. Nguyên vật liệu cho sản xuất bao giờ cũng được cung ứng nhiều hơn so với
mức cầu, và sự dư thừa này cần phải được kiểm soát và dự báo trước. Quá trình sản
xuất, bất kể là trong một doanh nghiệp hay trong các doanh nghiệp phân tán trong
một vùng địa lý cũng cần phải được kiểm soát, tính toán và được tiến hành thông
qua kỹ thuật chuyển giao lưu kho nội bộ. Các sản phẩm, trừ trong trường hợp doanh
nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng, được sản xuất ra đều vượt quá cầu và phần thừa
đó được lưu trong kho. Việc lưu kho cũng đòi hỏi phải dự trữ sẵn và kiểm soát các
phụ tùng thay thế nhằm duy trì hoạt động sản xuất.
Sự xuất hiện của vấn đề lưu kho đã làm nảy sinh nhu cầu phải xây
dựng nhà xưởng. Nhà kho và phòng chứa cần phải được cung cấp để lưu trữ và
kiểm soát nguyên liệu phục vụ sản xuất, sản phẩm và các thiết bị cần lưu kho khác
mà doanh nghiệp cần đến.
Thiết bị sản xuất tất yếu sẽ bị hỏng hóc, vì vậy chúng cần được đem
đến cho dịch vụ sửa chữa trong thời gian sớm nhất có thể. Điều này đã tạo nên nhu
cầu phải thiết lập khả năng bảo dưỡng, sửa chữa và nhà xưởng cần thiết phục vụ
cho việc bảo dưỡng.
Lực lượng lao động tham gia vào sản xuất phải được đào tạo vận hành
các thiết bị sản xuất. Nhân viên bảo dưỡng cũng phải được đào tạo để phát triển khả
9
năng sửa chữa đối với cùng một loại máy móc thiết bị. Ngược lại, trách nhiệm vận
hành và bảo dưỡng đòi hỏi phải sử dụng các tài liệu kỹ thuật, dụng cụ, thiết bị hỗ
trợ và kiểm tra.
Từ những diễn giải trên, ta thấy một doanh nghiệp trong điều kiện hoạt động
bình thường sẽ cần tới sự hỗ trợ từ các yếu tố logistics. Một yếu tố logistics cụ thể,
ví dụ như việc bảo dưỡng và sửa chữa thiết bị sản xuất, sẽ được cung cấp từ một
nhà chuyên nghiệp chứ không phải từ trong doanh nghiệp. Tuy nhiên điều này cũng
không thể làm mất đi nhu cầu cho dịch vụ này, mà chỉ đơn giản là nó được cung cấp
từ một nguồn bên ngoài doanh nghiệp. Nhưng trách nhiệm đối với chất lượng của
sự hỗ trợ này lại là trách nhiệm của logistics trong doanh nghiệp.
1.1.3.2. Logistics có chức năng hỗ trợ
Logistics có chức năng hỗ trợ, thể hiện ở điểm nó tồn tại chỉ để cung cấp sự hỗ
trợ cho các bộ phận khác của doanh nghiệp. Logistics hỗ trợ quá trình sản xuất (là
logistics hoạt động), nó còn hỗ trợ cho sản phẩm sau khi được chuyển quyền sở hữu
từ người sản xuất sang người tiêu dùng (là logistics hệ thống). Điều này không có
nghĩa là quá trình sản xuất không bao gồm các yếu tố của logistics hệ thống hay là
hoạt động hỗ trợ sau khi chuyển giao quyền sở hữu không bao gồm các yếu tố của
logistics hoạt động. Trên thực tế, các khía cạnh logistics được liên kết với nhau và
được sắp xếp tuần tự, kết hợp chặt chẽ với nhau.
Xem xét một ví dụ là người ta ngày càng sử dụng nhiều robot trong quá trình
sản xuất. Những công nghệ tiên tiến này đòi hỏi công nhân phải được đào tạo để
phát triển các kỹ năng cần thiết để vận hành và sửa chữa các robot. Công việc sửa
chữa lại đòi hỏi phải có tài liệu kỹ thuật đặc biệt, dụng cụ đặc biệt và thiết bị kiểm
tra, thậm chí là cả một nhà máy sửa chữa. Tất cả những cái này đều là các yếu tố
của hệ thống logistics. Xem xét ở khía cạnh khác, coi như nhà máy sửa chữa được
dùng để cung cấp sự hỗ trợ tiếp sau việc chuyển giao quyền sở hữu. Để sửa chữa có
hiệu quả thì nhà máy đó phải duy trì một kho chứa phụ tùng thay thế, và kho này
phải được nhập hàng thường xuyên khi các phụ tùng thay thế được sử dụng trong
quá trình sửa chữa. Sự di chuyển của phụ tùng thay thế vào trong nhà máy và hệ
quả của nó là việc lưu trữ hàng hoá cho đến khi cần dùng để sửa chữa đã tạo nên
các yếu tố của logistics hoạt động. Sự liên kết tự nhiên của logistics đã cho thấy
10
những lý luận cho rằng logistics hoạt động đối lập với logistics hệ thống là không
đúng. Do vậy, chỉ có một loại logisitcs với các yếu tố như vận tải (việc di chuyển
nguyên vật liệu, hàng hoá), kho bãi, phụ tùng thay thế, nhân sự và đào tạo nhân sự,
tài liệu, thiết bị kiểm tra và hỗ trợ, nhà xưởng. Một doanh nghiệp có thể kết hợp bất
kỳ yếu tố logistics nào với nhau hay tất cả các yếu tố logistics tuỳ theo cấp độ yêu
cầu của doanh nghiệp mình.
Hình 1.2: Bốn chức năng hoạt động của doanh nghiệp
Giám đốc
Sản xuất
Tài chính
Marketing
Mua vào
Kế toán
Quảng cáo
Lưu kho
Đầu tư
Bán hàng
Logistics
Sản xuất
Nguồn: tác giả tự tổng hợp
Theo hình 1.2, logistics hỗ trợ cho các chức năng khác của doanh nghiệp. Sản
xuất được logistics hỗ trợ thông qua quản lý mua vào và lưu trữ nguyên vật liệu đi
vào trong doanh nghiệp, quản lý bán thành phẩm di chuyển trong doanh nghiệp.
Marketing được logistics hỗ trợ thông qua quản lý việc di chuyển và lưu trữ hàng
thành phẩm. Logistics hỗ trợ sản xuất và marketing có thể sẽ dẫn đến yêu cầu phải
đào tạo nhân lực, dự trữ phụ tùng thay thế hay bất kỳ một yếu tố nào khác nữa của
logistics. Ví dụ, việc sản xuất có thể làm phát sinh nhu cầu phải đào tạo người lao
động để vận hành và sửa chữa máy móc trong quá trình sản xuất. Mặt khác,
marketing lại đòi hỏi phải đào tạo khách hàng để họ biết cách sử dụng sản phẩm của
doanh nghiệp. Logistics cũng có thể đóng vai trò liên kết với chức năng tài chính để
giải quyết bất kỳ xung đột nào phát sinh giữa các chức năng của doanh nghiệp do
doanh nghiệp có quá nhiều mục tiêu phải hoàn thành cùng một lúc.
11
1.1.4
Vai trò của logistics
Từ những điều trình bày ở trên cho thấy logistics là một chức năng kinh tế có
ảnh hương sâu rộng đến toàn bộ doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế mở.
Trong thời đại mới ngày nay người ta luôn mong muốn những dịch vụ hoàn hảo và
điều đó sẽ đạt được khi phát triển logistics.
1.1.4.1. Vai trò của logistics với các doanh nghiệp
Logistics tồn tại tất yếu trong các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường,
doanh nghiệp được quyền tự chủ chọn nguồn cung cấp nguyên liệu, công nghệ và
thị trường, kênh phân phối. Khi thực hiện quyền tự chủ này, doanh nghiệp phải tổ
chức quá trình vận chuyển, cung ứng máy móc, nguyên vật liệu cho quá trình sản
xuất (logistics đầu vào) và tổ chức quá trình quản lý, dự trữ, phân phối và tiêu thụ
sản phẩm (logistics đầu ra).
Logistics giúp doanh nghiệp tối ưu hóa hiệu quả chung của toàn bộ hệ thống
thay vì tối ưu hóa cục bộ mà không tính đến hiệu quả chung.
Logistics có vai trò giảm chi phí và nâng cao hiệu quả tài chính cho doanh
nghiệp trong việc xác định vị trí, thời gian tối ưu của các tài nguyên đầu vào, sản
phẩm thông qua hàng loạt hoạt động kinh tế như tìm kiếm và duy trì nguồn cung
cấp nguyên liệu với giá cả thấp hơn, thiết kế mô hình cung ứng tối ưu hơn sao cho
giảm thiểu chi phí vận chuyển và phân phối, giảm thời gian, khối lượng hàng tồn
kho nguyên liệu và sản phẩm (nghĩa là giảm lượng vốn lưu động và tăng số vòng
quay vốn), loại bỏ tác động giảm giá trị theo thời gian của tồn kho, đặt hàng nguyên
liệu vào thời điểm thích hợp với khối lượng hàng tối ưu EOQ (Economic Order
Quantity). Vì vậy, quản trị logistics tốt trở thành một yếu tố quan trọng trong việc
nâng cao lợi thế cạnh tranh về chi phí của các công ty trên thị trường.
Ngoài ra, sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã mở
rộng khả năng dịch vụ khách hàng của logistics, gia tăng sự hài lòng và giá trị cung
cấp cho khách hàng (thông qua dịch vụ cộng thêm và cam kết của doanh nghiệp),
qua đó tăng doanh thu và lợi nhuận. Trên phương diện này, logistics là một công cụ
để đạt được lợi thế cạnh tranh lâu dài về khác biệt hóa và tập trung.
Quản lý thông tin tốt trong logistics đem lại khả năng phản ứng nhanh hơn với
nhu cầu, giúp doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường. Ví dụ như nhờ ứng dụng công
12
nghệ thông tin vào hệ thống đặt hàng, sản xuất và phân phối hàng thời trang, công
ty The Limited (Mỹ) đã giảm chu trình từ đặt hàng đến khi trưng bày trên các cửa
hàng ở Mỹ xuống còn 60 ngày trong khi thời gian này ở các công ty khác là 180
ngày, đem lại khả năng tung ra sản phẩm trước các đối thủ, đáp ứng nhu cầu thời
trang mới tốt hơn.
1.1.4.2. Vai trò của logistics đối với nền kinh tế
Trình độ phát triển và chi phí logistics tác động trực tiếp đến khả năng hội
nhập nhanh và hiệu quả của một nền kinh tế. Tăng chất lượng và giảm chi phí
logistics có vai trò nâng cao khả năng tiếp cận của các nguồn lực trong nước với thị
trường quốc tế và thu hút các nguồn lực quốc tế vào trong nước, nhờ đó gia tăng
kim ngạch ngoại thương, đầu tư, du lịch, GDP và thu nhập đầu người. Chi phí
logistics (khoảng cách kinh tế) tác động đến ngoại thương theo quan hệ: “khối
lượng hàng hóa lưu chuyển giữa hai nước tỷ lệ thuận với tích số của tiềm năng kinh
tế của hai nước và tỷ lệ nghịch với khoảng cách kinh tế giữa hai nước đó”. Điều này
giải thích khoảng cách địa lý từ Thái Lan đến Mỹ xa hơn Việt Nam nhưng khối
lượng xuất nhập khẩu giữa Thái Lan và Mỹ lớn hơn vì tiềm năng kinh tế của Thái
Lan lớn hơn và khoảng cách kinh tế nhỏ hơn so với Việt Nam. Theo nghiên cứu của
Hummels (1999) thì lượng hóa tác động thúc đẩy xuất khẩu của logistics ước tính
khi các nhà xuất khẩu được giảm chi phí vận tải đi 1% sẽ tăng kim ngạch xuất khẩu
từ 5% đế 8%. Trong khi đó, tỷ lệ kim ngạch ngoại thương với GDP tăng 1% thì thu
nhập đầu người tăng ít nhất là 0,5% theo Frankel và Romer (1999). Vì vậy giảm chi
phí logistics có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược thúc đẩy xuất khẩu và tăng
trưởng kinh tế của các quốc gia.
Trong quá trình hội nhập, quốc gia có chi phí logistics thấp và hiệu quả
logistics cao sẽ có lợi thế cạnh tranh quốc tế cao hơn. Hiệu quả logistics trên quy
mô nền kinh tế là tỷ trọng chi phí logistics trong khối lượng hàng hóa và dịch vụ
được thực hiện, nâng cao hiệu quả logistics phản ánh hiệu quả sử dụng các nguồn
tài nguyên cho logistics được nâng lên. Nghiên cứu của Limao và Venables (2001)
cho thấy sự khác biệt trong chất lượng kết cấu hạ tầng giao thông chiếm đến 40%
trong sự chênh lệch chi phí vận tải đối với các nước giáp biển và 60% đối với các
nước không tiếp giáp biển. Redding and Venables (2002) ước tính sự chênh lệch về
13
thu nhập đầu người giữa các quốc gia 70% là do sự phân bố địa lý thị trường và khả
năng tiếp cận các nhà cung cấp, chỉ riêng khả năng tiếp cận với đường bờ biển tốt
hơn đã làm tăng thu nhập thêm 20%.
Về đầu tư quốc tế, trình độ và chi phí logistics của quốc gia là căn cứ quan
trọng trong chiến lược đầu tư của các công ty đa quốc gia (MNC), các MNC sẽ ưu
tiên lựa chọn các quốc gia có dịch vụ logistics phát triển, hệ thống vận tải, phân
phối nhanh chóng, thuận lợi và chi phí thấp hơn. Do đó phát triển dịch vụ logistics
và hệ thống vận tải, phân phối đóng vai trò là chất xúc tác thu hút FDI.
Dịch vụ logistics là một ngành kinh tế riêng, có giá trị gia tăng cao, giúp tăng
thu ngoại tệ và xuất khẩu dịch vụ, đóng góp vào thu nhập quốc dân và góp phần
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Sự phát triển của dịch vụ logistics thúc đẩy sự đa
dạng và kết hợp giữa các loại hình vận tải dẫn đến chi phí giảm dần do tính kinh tế
quy mô (đặc điểm của dịch vụ vận tải là vốn đầu tư và chi phí cố định lớn, nên tính
kinh tế theo quy mô phát huy rất rõ nét), hệ thống giao thông cũng phát triển vượt
bậc về quy mô và chất lượng phục vụ. Tốc độ tăng trưởng của hệ thống vận tải và
dịch vụ logistics có ý nghĩa đảm bảo cho sự tăng trưởng bền vững của một quốc gia
thông qua đáp ứng nhu cầu vận chuyển gia tăng của hàng hóa và hành khách. Nhiều
chuyên gia logistics cho rằng việc tự do hóa cung cấp các dịch vụ cảng biển và điều
tiết lực thị trường trong ngành vận tải biển có thể làm giảm chi phí vận tải hàng hải
đến một phần ba. Sự phát triển vượt bậc của Singapore và Hong Kong nhờ đầu tư
vào hệ thống vận tải và các dịch vụ logistics đã kích thích tăng trưởng xuất khẩu và
GDP là một minh chứng sinh động.
1.1.5
Tác dụng của logistics
Dịch vụ logistics góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí
trong quá trình sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp
Theo thống kê của một số tổ chức nghiên cứu về logistics cũng như Viện
nghiên cứu logistics của Mỹ cho biết, chi phí cho hoạt động logistics chiếm tới
khoảng 10-13% GDP ở các nước phát triển, con số này ở các nước đang phát triển
thì cao hơn khoảng 15-20%. Theo thống kê của một nghiên cứu, hoạt động logistics
trên thị trường Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ bình quân là 33%/1 năm và ở
Brazil là 20%/1 năm. Điều này cho thấy chi phí cho logistics là rất lớn. Vì vậy việc
14
hình thành và phát triển logistics sẽ rất rộng mở và tiềm năng. Với việc hình thành
và phát triển dịch vụ logistics, sẽ giúp các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh
tế quốc dân giảm được chi phí trong chuỗi logistics, làm cho quá trình sản xuất kinh
doanh đơn giản hơn và đạt hiệu quả hơn. Giảm chi phí trong sản xuất, quá trình sản
xuất kinh doanh tinh giản, hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng cao góp phần
tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Thực tế những năm qua tại
các nước Châu Âu – những quốc gia phát triển thì chi phí logistics đã giảm xuống
rất nhiều và còn có xu hướng giảm nữa trong các năm tới.
Dịch vụ logistics có tác dụng tiết kiệm và giảm chi phí trong hoạt
động lưu thông phân phối
Giá cả hàng hóa trên thị trường chính bằng giá cả ở nơi sản xuất cộng với chi
phí lưu thông. Chi phí lưu thông hàng hóa, chủ yếu là phí vận tải chiếm một tỷ lệ
không nhỏ và là bộ phận cấu thành giá cả hàng hóa trên thị trường, đặc biệt là hàng
hóa trong buôn bán quốc tế. Vận tải là yếu tố quan trọng của lưu thông. Karl Marx
đã từng nói “Lưu thông có ý nghĩa là hành trình thực tế của hàng hóa trong không
gian được giải quyết bằng vận tải”. Vận tải có nhiệm vụ đưa hàng hóa đến nơi tiêu
dùng và tạo khả năng để thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa. Trong
buôn bán quốc tế, chi phí vận tải chiếm tỷ trọng khá lớn, theo số liệu thống kê của
UNCTAD thì chi phí vận tải đường biển chiếm trung bình 10-15% giá FOB, hay 89% giá CIF. Mà vận tải là yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống logistics cho nên
dịch vụ logistics ngày càng hoàn thiện và phát triển sẽ tiết kiệm cho phí vận tải và
các chi phí khác phát sinh trong quá trình lưu thông dẫn đến tiết kiệm và giảm chi
phí lưu thông. Nếu tính cả chi phí vận tải, tổng chi phí logistics (bao gồm đóng gói,
lưu kho, vận tải, quản lý,…) ước tính chiếm tới 20% tổng chi phí sản xuất ở các
nước phát triển, trong khi đó nếu chỉ tính riêng chi phí vận tải có thể chiếm tới 40%
giá trị xuất khẩu của một số nước không có đường bờ biển.
Dịch vụ logistics góp phần gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh
nghiệp vận tải giao nhận
Dịch vụ logistics là loại hình dịch vụ có quy mô mở rộng và phức tạp hơn
nhiều so với hoạt động vận tải giao nhận thuần túy. Trước kia, người kinh doanh
dịch vụ vận tải giao nhận chỉ cung cấp cho khách hàng những dịch vụ đơn giản,
15
thuần túy và đơn lẻ. Ngày nay, do sự phát triển của sản xuất, lưu thông, các chi tiết
của một sản phẩm có thể do nhiều quốc gia cung ứng và ngược lại một loại sản
phẩm của doanh nghiệp có thể tiêu thụ tại nhiều quốc gia, nhiều thị trường khác
nhau, vì vậy dịch vụ mà khách hàng yêu cầu từ người kinh doanh vận tải giao nhận
phải đa dạng và phong phú. Người vận tải giao nhận ngày nay đã triển khai cung
cấp các dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế của khách hàng. Họ trở thành người
cung cấp dịch vụ logistics (logistics service provider – forwarder). Rõ ràng, dịch vụ
logistics đã góp phần làm gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải
giao nhận.
Theo kinh nghiệm ở những nước phát triển cho thấy, thông qua việc sử dụng
dịch vụ logistics trọn gói, các doanh nghiệp sản xuất có thể rút ngắn thời gian từ lúc
nhận đơn hàng cho đến lúc giao sản phẩm cho khách hàng từ 5-6 tháng xuống còn 2
tháng. Kinh doanh dịch vụ này có tỷ suất lợi nhuận cao gấp 3-4 lần sản xuất và gấp
từ 1-2 lần các dịch vụ ngoại thương khác.
Logistics phát triển góp phần mở rộng thị trường trong buôn bán
quốc tế.
Sản xuất có mục đích là phục vụ tiêu dùng, cho nên trong sản xuất kinh doanh,
vấn đề thị trường luôn là vấn đề quan trọng và luôn được các nhà sản xuất và kinh
doanh quan tâm. Các nhà sản xuất kinh doanh muốn chiếm lĩnh và mở rộng thị
trường cho sản phẩm của mình phải cần sự hỗ trợ của dịch vụ logistics. Dịch vụ
logistics có tác dụng như chiếc cầu nối trong việc chuyển dịch hàng hóa trên các
tuyến đường mới đến các thị trường mới đúng yêu cầu về thời gian và địa điểm đặt
ra. Dịch vụ logistics phát triển có tác dụng rất lớn trong việc khai thác và mở rộng
thị trường kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Dịch vụ logistics phát triển góp phần giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu
chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh quốc tế
Trên thực tế, một giao dịch trong buôn bán quốc tế thường phải tiêu tốn các
loại giấy tờ, chứng từ. Theo ước tính của Liên Hợp Quốc, chi phí về giấy tờ để phục
vụ mọi mặt giao dịch thương mại trên thế giới hàng năm đã vượt quá 420 tỷ USD.
Theo tính toán của các chuyên gia, riêng các loại giấy tờ, chứng từ rườm rà hàng
năm khoản chi phí tiêu tốn cho nó cũng chiếm tới hơn 10% kim ngạch mậu dịch
16
quốc tế, ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động buôn bán quốc tế. Logistics đã cung
cấp các dịch vụ đa dạng trọn gói đã có tác dụng giảm rất nhiều các chi phí cho giấy
tờ, chứng từ trong buôn bán quốc tế. Dịch vụ vận tải đa phương thức do người kinh
doanh dịch vụ logistics cung cấp đã loại bỏ đi rất nhiều chi phí cho giấy tờ thủ tục,
nâng cấp và chuẩn hóa chứng từ cũng như giảm khối lượng công việc văn phòng
trong lưu thông hàng hóa, từ đó nâng cao hiệu quả buôn bán và giao dịch quốc tế.
Ngoài ra, cùng với việc phát triển logistics điện tử (electronic logistics) sẽ tạo
ra cuộc cách mạng trong dịch vụ vận tải và logistics, chi phí cho giấy tờ, chứng từ
trong lưu thông hàng hóa càng được giảm tới mức tối đa, chất lượng dịch vụ
logistics ngày càng được nâng cao sẽ thu hẹp hơn nữa cản trở về mặt không gian và
thời gian trong dòng lưu chuyển nguyên vật liệu và hàng hóa. Các quốc gia sẽ xích
lại gần nhau hơn trong hoạt động sản xuất và lưu thông.
1.2
Nguồn nhân lực và vai trò của nguồn nhân lực
1.2.1
Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực với tư cách là toàn bộ khả năng lao động xã hội của một quốc
gia nói chung hay từng địa phương, từng tổ chức. Hiện nay tất cả các quốc gia trên
thế giới, đều đặt vấn đề về con người và nguồn nhân lực là trung tâm, là linh hồn
trong chiến lược phát triển đất nước, kinh tế và xã hội. Nguồn nhân lực đã là điểm
cốt yếu nhất của nội lực của mỗi đất nước. Vậy mà cho đến nay, đã có khá nhiều
các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực. Tuy nhiên, vấn đề nguồn nhân lực là
rất phức tạp, nên các quan niệm chưa thống nhất. Dưới đây là một số quan điểm và
định nghĩa về nguồn nhân lực:
Theo thuyết lao động xã hội, thì nguồn nhân lực được phân thành hai
nghĩa: nghĩa rộng của nguồn nhân lực là nơi cung cấp sức lao động cho sản xuất xã
hội còn nghĩa hẹp của nguồn nhân lực là khả năng lao động xã hội, gồm các nhóm
dân cư trong độ tuổi lao động tham gia vào quá trình sản xuất xã hội là tổng thể các
yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động.
Theo lý luận Mác – Lê Nin, thì nguồn nhân lực được xem xét như là
một thành tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, là phương tiện để phát triển kinh
tế, xã hội. Nguồn nhân lực được coi như một nhu cầu tất yếu cùng với các nguồn
lực khác cho sự phát triển của đất nước. Bởi con người là vốn quý nhất, là mục tiêu
17
và động lực cho mọi sự phát triển xã hội, đầu tư cho con người càng nhiều càng có
hiệu quả và thu hồi vốn khá cao so với đầu tư vào các lĩnh lực khác, cho nên hầu hết
các nước trên thế giới đều chú trọng phát triển nguồn nhân lực làm cơ bản.
Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng nguồn nhân
lực là toàn bộ vốn con người gồm thể lực, trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp mà mỗi cá
nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá trình sản xuất kinh doanh hay một
hoạt động nào đó. Ở đây nguồn nhân lực được coi như một nguồn bên cạnh các loại
vốn vật chất khác và đầu tư cho con người được đặt lên hàng đầu trên các loại đầu
tư khác, có thể nói đây là cơ sở vững chắc cho sự phát triển lâu dài, bền vững của
mỗi quốc gia.
Theo các quan điểm của các nhà khoa học Việt Nam: Nguồn nhân lực
được hiểu là dân số và chất lượng con người; bao gồm cả thể chất và tinh thần, trí
tuệ và sức khoẻ, năng lực và phẩm chất, thái độ,... Theo đó nguồn nhân lực là tổng
thể sức dự trữ, những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động
của con người trong việc cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, đã
thống nhất cách tiếp cận coi nguồn nhân lực chính là nguồn lao động bao gồm
những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động,
có khả năng lao động nhưng chưa làm việc do đang trong tình trạng thất nghiệp,
đang đi học, đang đảm đương nội trợ trong gia đình và kể cả không có nhu cầu làm
việc trong thời điểm hiện tại.
Nhìn chung, tiếp cận ở mỗi góc độ khác nhau, thì có những quan niệm khác
nhau về nguồn nhân lực, nhưng về cơ bản các quan niệm đều thống nhất khi nói về
nguồn nhân lực đó là nguồn lực của con người.
Như vậy, “nguồn nhân lực là tổng hòa thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ
lực lượng lao động xã hội của một quốc gia; trong đó kết tinh truyền thống và kinh
nghiệm lao động sáng tạo của dân tộc trong lịch sử, được vận dụng để sản xuất ra
của cải vật chất và tinh thần cho xã hội”. Có thể nói nguồn nhân lực là số lượng dân
số, đặc biệt là dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động cùng với cơ cấu
chất lượng của nó; trình độ dân trí gồm trình độ văn hoá, trí tuệ, năng lực tư duy,
tích luỹ kinh nghiệm văn hoá dân tộc, thế giới; trình độ tay nghề; thể chất con người
gồm các yếu tố về sức khoẻ, độ bền, sức dẻo dai, chiều cao, cân nặng, phát triển cân
18
đối tinh thần và thể chất; về phong cách lao động của con người gồm ý thức kỷ luật
lao động, tinh thần trách nhiệm với công việc, lòng yêu nước, yêu lao động, lao
động cần cù, có kỹ thuật, có năng suất cao.
1.2.2
Vai trò của nguồn nhân lực
1.2.2.1. Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng qui mô và sản lượng của nền kinh tế so với
thời kỳ trước đó, thường đo bằng sự gia tăng của các chỉ số như GDP và GNP. Tăng
trưởng kinh tế của một quốc gia có mối tương quan chặt chẽ với vốn vật chất và
nguồn lực con người. Năm 1994, Paul Krugman đã đưa ra mức đóng góp của nguồn
nhân lực trong tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ cất cánh của các nước châu Âu
(1850 đến nửa đầu thế kỷ 20), của Mỹ (1890 đến đầu thế kỷ 20) và Nhật Bản (1950
- 1970) thì tăng trưởng kinh tế dựa vào vốn là 34,4% và vốn con người đóng góp
65,6%; Điều đó chứng tỏ rằng nguồn nhân lực là yếu tố rất quan trọng mà mỗi quốc
gia đều phải tính đến.
Theo báo cáo WDIS của WB năm 2000 phân tích các nền kinh tế Đông Nam
Á, 60% tốc độ tăng trưởng thực của nền kinh tế là do đóng góp của tích luỹ, vốn vật
chất và vốn con người. Trong 60% đó, vốn vật chất đóng góp từ 33-49%, còn lại 51
- 65% là phần đóng góp của vốn con người (qua chỉ số về trình độ giáo dục).
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới chứng minh rằng, để đạt được sự tăng
trưởng kinh tế cao và ổn định, nhất thiết phải nâng cao chất lượng đội ngũ lao động
kỹ thuật. Chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao chính là tiền đề thành công của
các nước công nghiệp mới ở châu Á. Kinh nghiệm cho thấy, chưa có một quốc gia
phát triển nào đạt tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao trước khi hoàn thành phổ cập giáo
dục phổ thông. Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore... và các quốc gia có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao trong những thập niên 70 - 80 đã hoàn thành phổ cập giáo dục
tiểu học trước khi các nền kinh tế đó bước vào thời kỳ phát triển mạnh.
1.2.2.2. Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến phát triển lực lượng sản xuất
Các Mác là người đầu tiên có công phát hiện ra quy luật phát triển của xã hội
loại người. Để tồn tại, trước hết con người cần phải ăn, ở, mặc, đi lại,... trước khi
tham gia hoạt động chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo,…Tức là con người
phải lao động để thoả mãn nhu cầu của mình. Lao động của con người là lao động
19
theo phương thức sản xuất vật chất nhất định, là sự thống nhất biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất được cấu thành bởi người
lao động, tư liệu sản xuất và dự báo khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Con người tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là một nhân tố của lực
lượng sản xuất nhưng lao động của con người là lao động sáng tạo. Thông qua hoạt
động lao động sản xuất, con người không ngừng làm giàu cho trí tuệ của mình để
chế tạo ra những công nghệ mới.
Hiện nay, khoa học công nghệ đã có những tác động mạnh mẽ, nhanh chóng
vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Sự phát triển và ứng dụng khoa học
công nghệ, tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần, rút cuộc đều là do sự sáng tạo
của con người, do con người có trình độ cao phát minh, sáng tạo.
Như vậy, nguồn nhân lực là nguồn lực đặc biệt với những người lao động có
trình độ chuyên môn cao, nó là điều kiện hàng đầu thúc đẩy khoa học công nghệ
phát triển; trí tuệ của con người được chuyển hoá thành công nghệ và chính con
người áp dụng công nghệ đó vào quá trình sản xuất để làm cho các nguồn lực khác
được sử dụng một cách hiệu quả hơn. Nguồn nhân lực là động lực có sức mạnh to
lớn thúc đẩy khoa học công nghệ phát triển, là yếu tố quyết định phát triển lực
lượng sản xuất.
1.2.2.3. Nguồn nhân lực là động lực để phát triển kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức (Knowledge Economy) ra đời và phát triển với những tên gọi
khác nhau như: kinh tế dựa trên tri thức kinh tế mới, kinh tế thông tin, kinh tế hậu
công nghiệp, kinh tế mạng, kinh tế số,... Đây là một nền kinh tế gắn liền với công
nghệ cao trong đó tri thức được sử dụng để sản sinh ra lợi tức kinh tế cao, là nền
kinh tế sử dụng có hiệu quả tri thức cho phát triển kinh tế, xã hội. Kinh tế tri thức là
nền kinh tế, trong đó việc sáng tạo ra, truyền thông, quảng bá nhanh để đưa vào ứng
dụng tri thức là động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, tạo ra của cải vật chất, tạo
ra việc làm cho tất cả các ngành kinh tế.
Trong cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, máy móc thay thế lao động cơ
bắp của con người; còn cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại ngày nay,
máy tính giúp con người lao động trí óc và nhân gấp bội sức mạnh trí tuệ, sức sáng
tạo. Tri thức trở thành nguồn vốn vô hình lớn nhất quan trọng hơn cả các nguồn lực
20
phát triển khác. Lực lượng sản xuất của xã hội đang chuyển từ việc dựa chủ yếu vào
tài nguyên thiên nhiên sang dựa chủ yếu vào năng lực trí tuệ của con người, đúng
như Các Mác đã từng dự báo: “Một khi lao động dưới hình thái trực tiếp của nó
không còn là nguồn của cải vĩ đại nữa thì thời gian lao động không còn là thước đo
giá trị nữa. Lao động thặng dư của quần chúng công nhân không còn là điều kiện để
phát triển của cải phổ biến, cũng giống như sự không lao động của một số ít người
không còn là điều kiện cho sự phát triển những sức mạnh phổ biến của đầu óc con
người nữa”.
Thực tiễn đã chứng minh rằng, nguồn gốc giàu có của một quốc gia chính là
tri thức và chỉ có con người mới có khả năng nắm giữ tri thức và sản sinh tri thức.
Nhiều nước lúc đầu cũng là nước nông nghiệp như Hàn Quốc, Phần Lan, Thái
Lan..., nhưng đã năng động tranh thủ thời cơ đi thẳng vào kinh tế tri thức, chỉ hơn
hai thập niên các nước này đã trở thành nước công nghiệp hiện đại có nền kinh tế tri
thức trình độ cao, từng bước vươn lên mạnh mẽ.
Để có nền kinh tế tri thức đòi hỏi xã hội phải có nền khoa học, công nghệ và
giáo dục, đào tạo rất phát triển; trình độ văn hoá và nghề nghiệp của người lao động
rất cao, xã hội có khả năng sáng tạo tri thức mới... Như Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định: “Phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa
học, công nghệ; xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công nghệ, trước hết là
công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ tự động nâng cao năng lực nghiên
cứu, ứng dụng gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”.
Một thực tế cho thấy, sức sản xuất của xã hội đang chuyển dịch mạnh mẽ từ
dựa chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên và vốn sang dựa vào chủ yếu vào năng lực
trí tuệ của con người. Do vậy, để hiện thực hóa nền kinh tế tri thức phải đặc biệt coi
trọng việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả.
Muốn vậy phải cải cách triệt để nền giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế, nhằm
đào tạo những con người năng động sáng tạo, thích nghi với sự phát triển, tạo cơ hội
để tiếp cận kinh tế tri thức.
1.2.2.4. Nguồn nhân lực là yếu tố thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
tăng thu nhập cho người lao động
21
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành của nền kinh tế với vị trí, tỷ
trọng và mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Cơ cấu kinh tế chủ yếu gồm cơ cấu
ngành, vùng, quy mô, trình độ kỹ thuật, công nghệ, thành phần kinh tế, trình độ xã
hội hoá sản xuất,... Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: "Phát triển kinh tế nhanh, có
hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng
CNH, HĐH".
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi cấu trúc của nền kinh tế dựa
trên cơ sở phát huy những lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của đất nước trong
điều kiện cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế, nó là
quá trình tiếp tục phát triển phân công lao động xã hội.
Nguồn nhân lực đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế và thu nhập quốc
dân qua kỹ năng và khả năng sản xuất của người lao động. Người có học vấn cao có
cơ hội tìm được việc làm tốt hơn và ít khi bị thất nghiệp. Nghiên cứu của Krueger
và Lindahl cho thấy, nếu trình độ học vấn cao hơn thì thu nhập trung bình một năm
tăng từ 5-15%. Nghiên cứu của Becker trước đó cũng công bố kết quả tương tự
nhưng ông cũng chỉ rõ giữa những người cùng trình độ, thu nhập trung bình có thể
khác nhau tuỳ theo giới tính và chủng tộc.
Kết quả nghiên cứu của Ngân hàng thế giới cho thấy, giáo dục phổ thông có
vai trò rất quan trọng đối với mức tăng thu nhập và tăng trưởng kinh tế. Thực tiễn từ
Uganđa, nơi có nền giáo dục tiểu học từ lớp 1 đến lớp 7 cũng khẳng định điều đó.
Ví dụ, một nông trại có công nhân có trình độ lớp 4 thì sản lượng của nông trại tăng
7%, công nhân có trình độ lớp 7 thì sản lượng nông trại tăng 13% so với những
nông trại không có ai đi học (theo Birdsall (1995), xem xét lại vấn đề bất bình đẳng
và tăng trưởng).
Chất lượng nguồn nhân lực càng cao càng thúc đẩy nhanh quá trình hình thành
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng hiện đại cả về quy mô và
cường độ. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động càng tiến bộ càng đòi hỏi khả năng thích
ứng cao hơn của nguồn nhân lực cả về trình độ học vấn, trí tuệ, năng lực sáng tạo,
trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp,…