Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bình luận những quy định của pháp luật việt nam hiện hành trong việc giải quyết xung đột pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài nêu hướng hoàn thiệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.11 KB, 10 trang )

ĐỀ BÀI SỐ 22: Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
trong việc giải quyết xung đột pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài. Nêu
hướng hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
A-MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người đã và đang tồn tại nhiều chế độ
sở hữu khác nhau. Dựa trên các chế độ sở hữu khác nhau, chế định về quyền sở hữu
của mỗi hệ thống pháp luật cũng có những quy định khác nhau. Ngoài ra, sự khác
nhau của hệ thống pháp luật về quyển sở hữu còn do tác động bởi các yếu tố quan
trọng như: Trình độ phát triển về kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo, vị trí
địa lý,… của từng nước. Bởi vậy, việc hình thành các quan hệ sở hữu có yếu tố nước
ngoài cũng thường làm phát sinh xung đột pháp luật về quyền sở hữu. Vấn đề đặt ra
là khi Phát sinh xung đột pháp luật về quyền sở hữu thì pháp luật của các nước giải
quyết như thế nào?
B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I- KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUAN HỆ SỞ HỮU CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1. Một số khái niệm
a) Khái niệm người nước ngoài
Người nước ngoài là những người không có quốc tịch Việt Nam (mang quốc
tịch của một hay nhiều nước khác) hoặc không mang quốc tịch nước nào (người
không quốc tịch). Họ có thể sinh sống, cư trú trên lãnh thổ Việt Nam hoặc ngoài lãnh
thổ Việt Nam.
b) Khái niệm quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài
Quyền sở hữu trong tư pháp quốc tế là quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài, là
tổng hợp các quyền năng của các chủ thể được pháp luật thừa nhận trong quá trình
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Yếu tố nước ngoài trong quan hệ sở hữu được
thể hiện ở những điểm sau:


- Chủ thể tham gia quan hệ sở hữu là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài,
nhà nước nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
- Khách thể của quan hệ sở hữu là tài sản tồn tại ở nước ngoài.


- Sự kiện pháp lý làm phát sinh thay đổi chấm dứt quan hệ sở hữu xảy ra ngay ở
nước ngoài.
c) Khái niệm xung đột pháp luật về sở hữu
Mỗi một quốc gia trên thế giới có một hệ thống pháp luật của nước mình và các
hệ thống pháp luật đó khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau. Trong khoa học tư
pháp quốc tế, hiện tượng pháp luật của hai hay nhiều nước cùng có thể được dùng để
điều chỉnh một quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài được gọi là hiện tượng
xung đột pháp luật. Nói cách khác, xung đột pháp luật chỉ xảy ra khi hai hay nhiều hệ
thống pháp luật cùng đồng thời có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ pháp
luật này hay một quan hệ pháp luật khác. Khi có hiện tượng xung đột pháp luật xảy
ra, có nghĩa cùng lúc sẽ có những hệ thống luật cùng có thể điều chỉnh quan hệ đó,
điều này đòi hỏi cần phải tiến hành lựa chọn một hệ thống pháp luật thích hợp dựa
trên các quy tắc giải quyết xung đột được quy định trong luật.
Sở hữu là một phạm trù kinh tế mang yếu tố khách quan, xuất hiện và tồn tại
song song cùng với sự xuất hiện và phát triển của xã hội loài người. Con người muốn
tồn tại phải thông qua các quan hệ xã hội, tức là họ phải sống trong sự liên hệ với xã
hội và cộng đồng. Mối quan hệ xã hội giữa người với người trong quá trình chiếm
hữu và sản xuất ra của cải vật chất trong xã hội là quan hệ sở hữu. Pháp luật Việt
Nam cũng như pháp luật các quốc gia trên thế giới xác định sở hữu, quyền sở hữu là
vấn đề quan trọng nhất của pháp luật dân sự. Các quan hệ tài sản luôn xuất phát từ
quan hệ sở hữu, quan hệ sở hữu là tiền đề, xuất phát điểm cho tính hợp pháp của các
quan hệ khác. Điều 164 BLDS Việt Nam quy định: “ quyền sở hữu bao gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định
của pháp luật”.


Vậy xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu tài sản là một tình thế (trạng thái)
nhất định mà hai hay nhiều hệ thống pháp luật đều có thể điều chỉnh quan hệ sở hữu
về tài sản. Trong các quan hệ tư pháp quốc tế, việc hình thành các quan hệ sở hữu có
yếu tố nước ngoài đồng thời làm phát sinh xung đột, khi đó cần phải có một hệ thống

pháp luật cụ thể để giải quyết.
2. Phương pháp giải quyết các xung đột pháp luật
Giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài, theo
kinh nghiệm và thực tiễn tư pháp của nhiều nước cho thấy, được tiến hành trên cơ sở
sự kết hợp hai phương pháp cơ bản là phương pháp xung đột và phương pháp thực
chất.
a. Phương pháp xung đột
Phương pháp xung đột trong Tư pháp quốc tế là phương pháp được hình thành
khá sớm, được hình thành và xây dựng trên nền tảng hệ thống quy phạm xung đột
của quốc gia và hệ thống quy phạm xung đột trong điều ước quốc tế. Điều này có
nghĩa là cơ quan có thẩm quyền giải quyết phải chọn pháp luật của nước này hay
nước kia liên đới tới các yếu tố nước ngoài để xác định quyền và ngĩa vụ giữa các
bên đương sự. Công việc tiến hành lựa chọn hệ thống pháp luật nước nào dựa trên
những quy phạm xung đột. Quy phạm xung đột về quan hệ sở hữu tài sản là quy
phạm ấn định luật pháp nước nào cần áp dụng để giải quyết quan hệ sở hữu tài sản có
yếu tố nước ngoài trong một tình huống thực tế.
b. Phương pháp thực chất
Phương pháp thực chất được xây dựng dựa trên hệ thống các quy phạm thực
chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, điều này có nghĩa là nó trực tiếp
phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên tham gia. Pháp luật điều chỉnh
quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài bằng quy phạm thực chất, tức là quy định người
nước ngoài có quyền sở hữu những loại tài sản gì, cho phép họ sử dụng quyền (chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt) đối với tài sản ra sao.


3. Giải quyết xung đột pháp luật ở các nước trên thế giới
Mặc dù vẫn còn tồn tại nhiều điểm khác biệt, nhưng pháp luật của đa số các
nước hiện nay trên thế giới đều thống nhất áp dụng một nguyên tắc chung nhằm giải
quyết xung đột pháp luật về sở hữu đó là việc áp dụng pháp luật nơi có tài sản.
Luật nơi có tài sản không những quy định nội dung của quyền sở hữu mà còn ấn

định cả điều kiện phát sinh, chấm dứt và chuyển dịch quyền sở hữu. Nội dung này
được quy định trong pháp luật của nhiều nước. Theo khoản 1 Điều 24 Luật về Tư
pháp quốc tế của Ba Lan thì “quyền sở hữu và các quyền tài sản chịu sự điều chỉnh
của pháp luật nơi có tài sản”.
Pháp luật của nước nơi có tài sản giữ vai trò nhất định trong việc xác định quyền
sở hữu đối với tài sản đang trên đường vận chuyển – tài sản quá cảnh qua nhiều quốc
gia. Việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản (hàng hóa) đang trên đường vận
chuyển là vấn đề phức tạp đã và đang được tư pháp quốc tế của các nước quan tâm
giải quyết.
Nguyên tắc áp dụng pháp luật nước nơi có tài sản đóng vai trò trọng yếu trong
việc giải quyết xung đột pháp luật về sở hữu có yếu tố nước ngoài. Hệ thuộc luật của
nơi có tài sản cũng không được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ sở hữu phát sinh
trong một số lĩnh vực như:
- Các quan hệ sở hữu đối với đối tượng của sở hữu trí tuệ
- Các quan hệ về tài sản của pháp nhân nước ngoài khi pháp nhân đó bị giải thể
- Các quan hệ về tài sản liên quan đến tài sản của quốc gia đang ở nước ngoài
- Các quan hệ tài sản liên quan đến các đối tượng của các đạo luật về quốc hữu
hóa.


II- BÌNH LUẬN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
HÀNH TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ SỞ HỮU CÓ
YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1. Quy phạm xung đột
Như đã phân tích ở trên, đa số các nước hiện nay đều thống nhất áp dụng
nguyên tắc chung để giải quyết quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài (như là tài sản
đó có là đối tượng của quyền sở hữu hay không, xác định các quyền tài sản, xác định
sự phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu,…) đó là việc áp dụng pháp luật nơi có
tài sản. Luật nơi có tài sản (Lex rei sitae) được hiểu là vật (tài sản) hiện đang tồn tại ở
nước nào thì luật của nước đó áp dụng đối với tài sản đó.

Bộ luật dân sự Việt Nam cũng dựa trên nguyên tắc chung này để giải quyết xung
đột về quan hệ sở hữu tại sản, quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 766 BLDS Việt Nam
năm 2005: “Việc xác lập, chấm dứt quyền sở hữu, nội dung quyền sở hữu đối với tài
sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó, trừ trường hợp quy
định tại khoản 2 và khoản 4 Điều này”.
Như vậy, không phụ thuộc vào đối tượng của quan hệ sở hữu là động sản hay
bất động sản, quyền sở hữu và các quyền tài sản khác sẽ do luật nơi có tài sản điều
chỉnh. Xét về mặt lý luận, Điều 766 BLDS 2005 điều chỉnh quan hệ sở hữu tài sản có
yếu tố nước ngoài bằng phương pháp xung đột, lấy hệ thuộc luật nơi có vật làm căn
cứ phát sinh quyền sở hữu tài sản, cũng như nội dung quyền sở hữu tài sản có yếu tố
nước ngoài. Đương nhiên, trong trường hợp tài sản – đối tượng của quyền sở hữu –
có tại Việt Nam, thì việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản đó phải tuân theo pháp
luật Việt Nam, không phụ thuộc vào yếu tố quốc tịch, nơi cư trú của chủ sở hữu.
Về vấn đề xung đột về định danh tài sản: Để giải quyết vấn đề xung đột pháp
luật về quyền sở hữu đối với tài sản trong đó có bất động sản, pháp luật của hầu hết
các quốc gia đều ghi nhận nguyên tắc áp dụng luật của nước nơi có tài sản. Tuy
nhiên, hai khái niệm “động sản” và “bất động sản” không phải là đã được hiểu một


cách thống nhất trong hệ thống pháp luật hiện nay của thế giới. Từ đây phát sinh quy
phạm xung đột trong vấn đề định danh tài sản. Việc xác định tài sản là động sản hay
bất động sản là tiền đề cho việc giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu có yếu
tố nước ngoài. Pháp luật của đa số các nước trong đạo luật và các điều ước quốc tế
thường ghi nhận luật nơi có tài sản là hệ thuộc để giải quyết xung đột về định danh
tài sản. Bộ luật dân sự Việt Nam cũng quy định: “Việc phân biệt tài sản là động sản
hay bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản”.
Để bảo vệ quyền lợi của người thủ đắc trung thực (người chiếm hữu không có
căn cứ pháp luật nhưng ngay tình) trước yêu cầu đòi lại tài sản từ phía chủ sở hữu
của chúng, pháp luật của các nước thường áp dụng pháp luật của nước hiện đang có
tài sản hoặc pháp luật của nước nơi có tài sản vào thời điểm thụ đắc. Theo Khoản 1

Điều 766 Bộ luật dân sự 2005 có thể áp dụng pháp luật của nước nơi có tài sản tranh
chấp để bảo vệ người thủ đắc trung thực. Tuy nhiên có thể thấy ngay trong khoản 1
Điều 766 quy định trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc này. Đó chính là khoản 2 về
quyền sở hữu đối với động sản và khoản 4 về quyền sở hữu đối với tàu bay dân dụng
và tàu biển tại Việt Nam.
- Theo quy định của Bộ luật dân sự thì quyền sở hữu “đối với động sản đang
trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi có động sản được
chuyển đến, nếu không có thỏa thuận khác”. Như vậy, pháp luật Việt Nam áp dụng hệ
thuộc luật của nước nơi có tài sản được chuyển đến. Lý do để các nước lựa chọn hệ
thuộc luật nơi có động sản được chuyển đi là bởi vì hầu hết các nước này đều là
những nước có nền kinh tế cũng như việc xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài phát
triển, khi quy định như thế, các nước này đã tính đến lợi ích mà họ có thể đạt được
trong quan hệ hợp đồng. Còn đối với Việt Nam, trong tương lai nước ta vẫn là một
nước có tỉ lệ nhập khẩu cao hơn xuất khẩu, vì thế nếu quy định lựa chọn luật nước
người bán để áp dụng sẽ gây nhiều bất lợi cho cá nhân, cơ quan tổ chức ở trong nước.


- Trong việc xác định đối với tàu bay dân dụng và tàu biển tại Việt Nam thì
nguyên tắc luật nơi có tài sản dường như cũng không được áp dụng mà phải tuân
theo pháp luật về hàng không dân dụng và pháp luật về hàng hải của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Khoản 1 Điều 4 Luật hàng không dân dụng Việt Nam 2006 quy định: “Pháp
luật của quốc gia đăng ký quốc tịch tàu bay được áp dụng đối với quan hệ xã hội
phát sinh trong tàu bay đang bay và áp dụng để xác định các quyền đối với tàu bay”.
Điều 3 của Bộ luật hàng hải Việt Nam quy định: “Điều 3. Nguyên tắc áp dụng
pháp luật khi có xung đột pháp luật
1. Trong trường hợp quan hệ pháp luật liên quan đến quyền sở hữu tài sản trên tàu
biển, hợp đồng cho thuê tàu biển, hợp đồng thuê thuyền viên, hợp đồng vận chuyển
hành khách và hành lý, phân chia tiền công cứu hộ giữa chủ tàu cứu hộ và thuyền bộ
của tàu cứu hộ, trục vớt tài sản chìm đắm ở biển cả, các vụ việc xảy ra trên tàu biển

khi tàu đang ở biển cả thì áp dụng pháp luật của quốc gia mà tàu biển mang cờ quốc
tịch.”
Như vậy, đối với quan hệ sở hữu và quan hệ tài sản trong lĩnh vực hàng không
dân dụng và hàng hải quốc tế, hệ thuộc luật nơi có tài sản không được áp dụng mà
thay vào đó là hệ thuộc luật quốc kì (lex banderae) hoặc luật nơi đăng kí (lex libri).
- Thực tiễn ở các quốc gia cũng như ở Việt Nam cho thấy, khi xác định quyền
sở hữu đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ cũng không áp dụng hệ thuộc
luật nơi có tài sản là bởi quyền sở hữu trí tuệ có tính đặc thù về mặt lãnh thổ. Tức là
quyền sở hữu trí tuệ phát sinh trên quốc gia nào thì được bảo hộ theo pháp luật quốc
gia đó, không đương nhiên bảo hộ ở nước ngoài, nếu các quốc gia đó không kí kết
các điều ước quốc tế về vấn đề này.
- Đối với quyền sở hữu tài sản của pháp nhân nước ngoài trong trường hợp bị
giải thể không áp dụng hệ thuộc luật nơi có vật bởi trong trường hợp pháp nhân giải
thể thì quyền sở hữu của pháp nhân vẫn được đảm bảo.


- Đối với tài sản thuộc đối tượng của đạo luật về quốc hữu hóa hoặc tư nhân
hóa, theo thực tiễn của nhiều nước cũng cho thấy, thường không áp dụng luật nơi có
tài sản để xác định quyền sở hữu đối với tài sản đó. Bởi trong nhiều trường hợp
những tài sản này ở nước ngoài vào thời điểm phát sinh hiệu lực của đạo luật quốc
hữu hóa hoặc tư nhân hóa.
- Các quan hệ tài sản liên quan đến tài sản của quốc gia đang ở nước ngoài: so
với các chủ thể khác khi tham gia quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài, thì Nhà nước
là một hệ thống cơ quan quyền lực có quy chế pháp lý đặc biệt có quyền được miễn
trừ tư pháp, không một cơ quan nào có quyền xét xử nhà nước. Quyền miễu trừ này
bao gồm cả miễn trừ đối với tài sản. Tài sản của Nhà nước không thể bị bắt giữ để
đảm bảo cho việc xét xử hoặc là đối tượng bị bắt giữ để thi hành bản án, quyết định
của tòa án nước ngoài.
Có thể nói, trong Bộ luật dân sự 2005 thì hệ thuộc luật nơi có tài sản là hệ thuộc
luật chủ yếu được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về sở hữu tuy nhiên đây

không phải hệ thuộc luật duy nhất để giải quyết vấn đề này.
2. Quy phạm thực chất
Pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài được quy định
cụ thể tại các văn bản pháp luật của nước ta kể cả văn bản pháp luật có giá trị cao
nhất đó là hiến pháp 1992, ngoài ra còn được quy định tại Bộ luật dân sự 2005, nghị
định 138/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 15/11/2006 quy định chi tiết thi
hành các quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, Luật
nhà ở 2005, Luật đầu tư…Điều này cho thấy tầm quan trọng của vấn đề đảm bảo
quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài khi xảy ra xung đột, cụ thể như sau:
- Hiến pháp 1992: tại Điều 25: “Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân
nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam,
pháp luật và thông lệ quốc tế bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và
các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu


tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá” và Điều 81: “Người nước ngoài cư trú ở Việt
Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, được Nhà nước bảo hộ tính
mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam”.
- Bộ luật dân sự 2005: quy định tại điều 759 và 766 như sau: “1. Các quy định
của pháp luật dân sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được áp dụng đối với
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”
và “1. Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung
quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản
đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều này”.
Nhìn chung, những quy định về quan hệ sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài tại
Việt Nam hiện nay so với trước đây đã có nhiều điểm tiến bộ, phù hợp với sự phát
triển về kinh tế xã hội cũng như sự hợp tác giao lưu quốc tế giữa các quốc gia trên
thế giới. Quyền sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng như người Việt
Nam định cư ở nước ngoài đã được pháp luật Việt Nam bảo hộ.
III- HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG

VIỆC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ QUAN HỆ SỞ HỮU CÓ YẾU
TỐ NƯỚC NGOÀI
1. Một số hạn chế
Đối với quy phạm xung đột: Hệ thống các quy phạm xung đột nằm rải rác ở các
văn bản pháp luật khác nhau, từ luật cho đến văn bản dưới luật, pháp luật quốc gia
cũng như điều ước quốc tế.Việc quy định như vậy sẽ dẫn đến tình trạng chồng chéo,
lặp lại.
Đối với quy phạm thực chất: Vấn đề sở hữu bất động sản, pháp luật điều chỉnh
chưa đầy đủ cũng như chính sách tạo điều kiện cho đối tượng thuê hoặc mua và sở
hữu nhà ở vẫn chưa thông thoáng nên dẫn tới việc mua bán bất động sản trái pháp
luật, gây ra nhiều tranh chấp, khiếu kiện phức tạp. Điều này đã tạo ra nhiều bất lợi,
không kiểm soát được tình hình mua bán bất động sản gây bất ổn cho nền kinh tế


cũng như mất ổn định về an ninh, trật tự xã hội. Hơn nữa chưa có sự tách bạch về
một số tài sản, từ đó khó xác định hệ thuộc luật cần áp dụng. Về hôn nhân gia đình,
vẫn chưa có sự hài hòa các quy định của Luật hôn nhân và gia đình về tài sản của
người Việt Nam và người nước ngoài khi xác lập quan hệ hôn nhân.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện
a) Đối với quy phạm xung đột: Hệ thống quy phạm xung đột cần phải được quy định
cụ thể, rõ ràng tại một văn bản pháp luật nhất định để tránh sự chồng chéo, lặp lại,
hơn nữa cần phải đưa ra giải pháp cụ thể để xử lí những vẫn đề phát sinh trong tư
pháp quốc tế.
b) Đối với quy phạm thực chất:
Cần xác định hệ thuộc luật áp dụng phù hợp cho từng quan hệ sở hữu có yếu tố
nước ngoài của cá nhân, pháp nhân, Nhà nước. Cần tách bạch một số loại tài sản với
nguyên tắc sở hữu khác nhau từ đó áp dụng hệ thuộc luật tương ứng với mỗi loại tài
sản đó. Quy đinh chung như Điều 766 Bộ luật dân sự hiện nay là rất khó vận dụng.
Cần bảo đảm sự hài hòa giữa các quy định của luật Hôn nhân và gia đình về
quan hệ tài sản giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài khi tham gia quan hệ

hôn nhân, với nguyên tắc công nhận quyền sở hữu tài sản.
C- KẾT LUẬN
Phương pháp xung đột và phương pháp thực chất là hai phương pháp quan
trọng để giải quyết xung đột pháp luật. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và
những hạn chế nhất định, tuy nhiên phương pháp xung đột vẫn thể hiện được sự ưu
việt hơn hẳn bởi tính nhanh chóng, cụ thể trong việc áp dụng luật điều chỉnh một
quan hệ pháp luật. Pháp luật Việt Nam cần không ngừng củng cố và hoàn thiện hơn
trong việc đưa ra một phương pháp giải quyết xung đột khách quan, hợp lí nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho các tổ chức cá nhân trong nước cũng như nước ngoài tham
gia vào các quan hệ pháp luật tư pháp, góp phần thúc đẩy nền kinh tế- xã hội đất
nước ngày càng phát triển.



×