Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.16 KB, 17 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Khởi tố là một trong những giai đoạn quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với hoạt
động tố tụng hình sự. Là giai đoạn đầu tiên,mở đầu cho các hoạt động tố tụng,
Khởi tố vụ án tạo điều kiện thuận lợi cho các giai đoạn tố tụng sau. Pháp luật tố
tụng hình sự cũng đã ghi nhận ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự. Theo quy định
của pháp luật hiện hành có nhiều cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
nhằm đảm bảo việc xử lí nhanh chóng và kịp thời các hành vi phạm tội, tránh bo
lọt tội phạm. Tuy nhiên, pháp luật cũng có những hạn chế nhất định khi quy định
về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Bài luận dưới đây xin trình bày về vấn đề
những hạn chế của pháp luật về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự và phương
hướng hoàn thiện pháp luật với chủ đề : thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.
Trong quá trình xây dựng bài luận, em không thể tránh khoi những sai sót nhất
định. Vì vậy, em rất mong nhận được những đánh giá và nhận xét của các thấy cô
giáo. Em xin chân thành cảm ơn!

1


GIẢI QUYẾT VẤN ĐÊ
I.

Những vấn đề chung về khởi tố vụ án hình sư
1. Khái niệm và ý nghĩa của khởi tố hình sư
a. Khái niệm khởi tố hình sư
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự. Trong đó, cơ

quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án.
Quyết định khởi tố vụ án là cơ sở pháp lí đàu tiên để thực hiện việc điều tra.
Quyết định này làm phát sinh những quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giữa các cơ
quan có thẩm quyền và những người tham gia tố tụng. Chi sau khi có quyết định


khởi tố vụ án hình sự thì những hoạt động điều tra mới được thực hiện và được áp
dụng các biện pháp ngăn chặn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp các họat động
điều tra và các biện pháp ngăn chặn được thực hiện và áp dụng trươc khi có quyết
định khởi tố vụ án hình sự. Đó là các trường hợp cần phải làm sáng to những tài
liệu đầu tiên, xác định hoàn cảnh, địa điểm xảy ra tội phạm, thu thập những vật
chứng và những tình tiết có giá trị cho việc phát hiện tội phạm thì tiến hành khám
nghiệm hiện trường, hoặc trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì được
bắt người trước khi khởi tố vụ án hình sự.
Trong giai đoạn này, cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc xác định có sự
việc xảy ra không và nếu có thì sự việc đó có dấu hiệu tội phạm hay không. Khi
xác định là có sự việc có dấu hiệu tội phạm xảy ra, cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự.

2


b. Ý nghĩa của khởi tố hình sư
- Khởi tố vụ án hình sự đảm bảo cho việc phát hiện nhanh chóng mọi
hành vi phạm tội.
Bởi vì, chỉ có thông qua những hoạt động kiểm tra, xác minh kịp thời các nguồn tin
về tội phạm mới có điều kiện làm rõ một sự việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm hay
không. Nếu hoạt động tố tụng trong giai đoạn khởi tố vụ án không được tiến hành
khẩn trương, đầy đủ sẽ có thể không phát hiện ra dấu hiệu tội phạm,dẫn đến việc ra
quyết định không khởi tố vụ án, bo lọt tội phạm.
- Khỏi tố vụ án là giai đoạn tố tụng mở đầu các hoạt động điều tra.
Khi chưa khoi tố vụ án thì chưa được phép tiến hành các hoạt động điều tra, trư
một số trường hợp đặc biệt đã nêu ở trên. Do đó, không thể xem khởi tố vụ án hình
sự như một hoạt đông trong điều tra. Rõ ràng, khởi tố vụ án được tiến hành trong
khoản thời gian nhất định, có nhiệm vụ riêng, được tiến hành bởi các chủ thể có
thẩm quyền độc lập, các hoạt động của khởi tố độc lập với các giai đoạn khác nên

nó là một giai đoạn tố tụng độc lập.
- Khởi tố vụ án hình sự tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tố tụng tiếp
theo.
Sau khi đã khởi tố vụ án hình sự, hoạt động điều tra không còn phải kiểm tra,
xác minh để xác định dấu hiệu tội phạm nữa mà chỉ tập trung vào điều tra làm rõ
các hành vi phạm tội và người thực hiện tội phạm. Rõ ràng khởi tố vụ án đã tạo
điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tố tụng tiếp theo, mà điển hình nhất là cho
hoạt đông điều tra.
- Khởi tố vụ án góp phần bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân được
pháp luật bảo hộ.
3


Nếu không thựuc hiện các hoạt đông điều tra, xác minh nguồn tin về tội phạm
mà tiến hành ngay các hoạt động điều tra và áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố
tụng sẽ dẫn đến nhiều trường hợp sau một thời gian điều tra không xác định được
dấu hiệu của tội phạm, không chứng minh được người bị áp dụng biện pháp cuóng
chế có hành vi nguy hiểm cho xã hội nên phải đình chỉ tố tụng thì người này đã bị
xâm phạm quyền tự do thân thể. Để xác định dấu hiệu của tội phạm trong giai đoạn
khởi tố không áp dụng biện pháp cưỡng chế, nên đảm bảo quyền tự do dân chủ của
công dân.
2. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sư .
Theo quy định tại khoản 2 điều 100 BLTTHS 2003 về căn cứ khoi tố vụ án hình sự
thì có các cơ quan sau đây có thẩm quyền khởi tố tụng hình sự:
a. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sư của cơ quan điều tra
Theo quy định tại pháp lệnh Tổ chức điều tra vụ án hình sự 2004 thì cơ quan
điều tra bao gồm: cơ quan điều tra trong Công an nhân dân ( gồm cơ quan cảnh sát
điều tra và cơ quan an ninh điều tra trong Công an nhân dân) , cơ quan điều tra
trong Quân đội nhân dân ( gồm cơ quan điều tra hình sự và cơ quan an ninh điều
tra trong Quân đội nhân dân) và cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối

cao.
- Cơ quan Cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân
Cơ quan Cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân có thẩm quyền khởi tố các
vụ án hình sự về các tội phạm quy định tư chương XII đến chương XXII của Bộ
luật Hình sự 1999, trư các tội phạm thuộc thẩm quyền khởi tố của Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và cơ quan an ninh điều tra trong Công an nhân
dân. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an cấp huyện có thẩm quyền khởi tố các vụ án
4


hình sự về các tội phạm thuộc thẩm quyền của cơ quan cảnh sát điều tra khi các tội
phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa an nhân dân cấp huyện, tức là bao gồm
các tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng trư các tội phạm quy
định tại các điểm a, b, c khoản 1 điều 170 BLTTHS 2003 về Thẩm quyền xét xử
của tòa án nhân dân các cấp. Cơ quan cảnh sát điều tra công an nhân dân cấp tỉnh
khởi tố các vụ án hình sự về các tội phạm thuộc thẩm quyền của cơ quan cảnh sát
điều tra khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan cánh sát điều tra công an
nhân dân cấp huyện nhưng thấy cần trực tiếp điều tra. Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ
công an khởi tố các vụ án hình sự đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm
quyền của cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp tỉnh nhưng thấy cần phải trực tiếp
điều tra.
- Cơ quan an ninh điều tra trong Công an nhân dân
Cơ quan an ninh điều tra trong Công an nhân dân khởi tố các vụ án hình sự về
các tội phạm quy định tại chương XI, chương XXIV và các tọi phạm quy định tại
các điều 180, 181, 221, 222, 223, 230, 231, 232, 236, 263, 264, 274 và 275 của Bộ
luật hình sự năm 1999. Những tội phạm trên đều thuộc thẩm quyền khởi tố của cơ
quan an ninh điều tra trong công an nhân dân cấp tỉnh. Cơ quan an ninh điều tra Bộ
công an chỉ khởi tố vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp
thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan an ninh điều tra công an cấp tỉnh nhưng nếu

thấy cần trực tiếp điều tra.
- Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội nhân dân.
Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội nhân dân có thẩm quyền khoi tố các vụ
án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương tư chương XII đến chương
XXIII của bộ luật hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
5


quân sự trư các tội phạm thuộc thẩm quyền khởi tố của cơ quan điều tra Viện kiểm
sát quân sự trung ương. Nếu các tội phạm trên thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án
quân sự khu vực thì sẽ do cơ quan điều tra hình sự khu vực khởi tố; nếu thuộc thẩm
quyền xét xử của tòa án quân sự quân khu và tương đương hoặc trong trường hợp
thấy cần xét xử trực tiếp các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan điều
tra hình sự khu vực thì do cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương khởi
tố. Cơ quan điều tra hình sự Bộ quốv phòng khởi tố các vụ án hình sự về tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra
hình sự quân khu và tương đương nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra.
- Cơ quan an ninh điều tra trong quân đội nhân dân.
Cơ quan an ninh điều tra trong quân đội nhân dân khởi tố các vụ án hình sự về
tội phạm được quy định tại chương XI và chương XXIV của Bộ luật hình sự khi
các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự. Cơ quan an ninh điều
tra quân khu và tương đương khởi tố các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án
quân sự quân khu và tương đương. Cơ quan an ninh điều tra Bộ quốc phòng khởi
tố các vụ án về tội đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, xét thấy cần phải trực tiếp điều
tra thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan an ninh điều tra quân khu và tương
đương.
- Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao khởi tố các vụ án hình sự
về một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ
thuộc các cơ quan tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án

nhân dân. Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương khởi tố vụ án về một
số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc

6


các cơ quan tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xủa của tòa án quân
sự.
b. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sư của viện kiểm sát
Viện kiểm sát có thẩm quyền khoi tố trong hai trường hợp, đó là:
- Viện kiếm sát hủy bo quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan
điều tra, cơ quan khác của Quân đội nhân dân, công an nhân dân, đơn vị bộ
đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển.
Khi các quyết định không khởi tố vụ án của các cơ quan nêu trên là không có căn
cứ, không tuân theo quy định tại điều 107 BLTTHS thì viện kiểm sát hủy bo quyết
định không khởi tố đó và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
- Trường hợp thứ hai, viện kiểm sát khoi tố vụ án khi có yêu cầu khởi tố của
hội đồng xét xử.
Trong quá trình xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm
tội mới cần phải điều tra thì Hội đồng xét xử yêu cầu viện kiểm sát khởi tố vụ án.
dựa trên yêu cầu đó, Viện kiểm sát xem xét và ra quyết định khởi tố vụ án.
Đồng thời, theo quy định tại khoản 3 điều 112 BLTTHS thì Viện kiểm sát trong
quá trình Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra có quyển
khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của điều tra viên có dấu hiệu tội phạm.
c. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sư của Tòa án
Theo quy định tại khoản 1 điều 104 BLTTHS, nếu trong quá trình xét xử tại
phiên tòa mà Hội đồng thẩm phán phát hiện ra có tội phạm, người phạm tội mới
cần phải điều tra thì hoặc là ra quyết định khởi tố hoặc là yêu cầu viện kiểm sát

7



khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi tố vụ án sẽ được gủi cho Viện kiểm sát để
xem xét , quyết định việc điều tra.
d. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sư của đơn vị bộ đội biên phòng,
Hải quan, Kiểm lâm, lưc lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác
của Công an nhân dân và Quân đội nhân dân.
- Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của đơn vị bộ đội biên phòng
Bộ đội biên phòng khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình
mà phát hiện tội phạm quy định tại Chương XI và các điều 119, 120, 153, 154,
172, 180, 181, 188, 192, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 236, 263, 264, 273, 274
và 275 của Bộ luật hình sự xảy ra trong khu vực biên giới trên đất liền, bờ biển,
hải đảo và trên các vùng biển do Bộ đội biên phòng quản lý thì có quyền ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự.
- Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của cơ quan hải quan
Cơ quan Hải quan khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình mà
phát hiện tội phạm quy định tại Điều 153 và Điều 154 của Bộ luật hình sự thì có
thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.
- Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của cơ quan Kiểm lâm
Cơ quan Kiểm lâm khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình mà
phát hiện tội phạm quy định tại các điều 175, 189, 190, 191, 240 và 272 của Bộ
luật hình sự thì thực hiện việc khởi tố vụ án hình sự.
- Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của lực lượng Cảnh sát biển
Lực lượng Cảnh sát biển có thẩm quyển khởi tố vụ án hình sự nếu khi thực hiện
nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình mà phát hiện tội phạm quy định tại
Chương XI và các điều 153, 154, 172, 183, 188, 194, 195, 196, 212, 213, 221, 223,
8


230, 231, 232, 236, 238, 273 và 274 của Bộ luật hình sự xảy ra trên các vùng biển

và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do lực lượng Cảnh
sát biển quản lý.
- Các cơ quan khác của lực lượng cảnh sát trong Công an nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong khi làm nhiệm vụ của
mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra
của Cơ quan cảnh sát điều tra thì có quyền khởi tố vụ án hình sự
- Cơ quan khác của lực lượng an ninh trong Công an nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong khi làm nhiệm vụ của
mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra
của Cơ quan an ninh điều tra trong công an nhân dân thì có thẩm quyền khởi
tố vụ án hình sự.
- Cơ quan khác trong quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra trong khi làm nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có
đấu hiệu tội phạm đến mực phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì khởi tố vụ
án hình sự.
II.
Những hạn chế của pháp luật về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sư
và phương hướng hoàn thiện.
1. Quy định của pháp luật có sự chồng chéo về thẩm quyền khởi tố vu
án hình sự.
a. Hạn chế của pháp luật
Cơ quan cảnh sát điều tra công an nhân dân cấp tỉnh khởi tố các vụ án hình
sự về các tội phạm thuộc thẩm quyền của cơ quan cảnh sát điều tra khi các tội
phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Và theo quy định
tại khoản 2 điều 170 BLTTHS thì tòa án nhân dân tỉnh có thẩm quyền xét xử
những tội phạm không thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện, trong đó
có việc xét xử các tội định tại điều 221, 222, 223, 263 của Bộ luật hình sự. Cùng
với đó, pháp luật cũng quy định Cơ quan an ninh điều tra trong Công an nhân dân
9



cấp tỉnh cũng có thẩm quuyền xét xử các tội phạm thuộc các quy định này. Như
vậy, nếu có một sự việc có dấu hiệu tội phạm thuộc các điều 221, 222, 223, 263
của Bộ luật hình sự thì có tới 2 cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án đó là Cơ quan
cảnh sát điều tra công an nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan an ninh điều tra trong Công
an nhân dân cấp tỉnh. Và hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Điều này sẽ làm cho các cơ quan nói trên lúng túng khi áp dụng các quy định của
pháp luật về thẩm quyền khởi tố, dẫn đến tình trạng có quan này đẩy trách nhiệm
khởi tố cho cơ quan kia, kéo dài thời gian xử lí tội phạm.
b. Phương hướng hoàn thiện
Để tránh sự chồng chéo trong thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự như đã nêu
ở trên, pháp luật tố tụng hình sự cần phân định rõ những trường hợp thuộc các điều
221, 222, 223, 263 của Bộ luật hình sự thuộc thẩm quyền khởi tố về cơ quan nào,
hoặc nếu không phải có những quy định hướng dẫn trong trường hợp cụ thể nào thì
thuộc thẩm quyền khởi tố của cơ quan nào.
2. Một số quy định chưa có hướng dẫn rõ ràng, cu thể gây ra những
khó khăn nhất định khi áp dung trên thực tế.
a. Hạn chế của pháp luật
Các quy định của pháp luật về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự trong
BLTTHS, pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự 2004 (sửa đổi 2009) và các văn bản
hướng dẫn thi hành chưa có những quy định cụ thể trong việc xác định thế nào là
“vụ án về tội đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, xét thấy cần phải trực tiếp điều tra”.
Khi áp dụng quy định về thẩm quyền khởi tố trong trường hợp này các cơ quan có
thẩm quyền cũng hết sức lúng túng, trường hợp nào thì cần thiết lấy lên trực tiếp
điều tra. Hiện nay, các vụ án phức tạp và cơ quan điều tra cấp trên cần phải trực
tiếp điều tra được hiểu là các vụ án mà có hành vi phạm tội liên quan tới nhiều cấp,
10


nhiều ngành, được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau hay là có liên quan tới những

thẩm phán, kiểm sát viên, sĩ quan công an, cán bộ chủ chốt ở cấp dưới, người có uy
tín... trong những trường hợp này, việc cơ quan cấp trên trực tiếp điều tra sẽ đảm
bảo được tính khách quan, độc lập trong quá trình điều tra và thông qua đó đảm
bảo tính pháp chế trong tiến hành tố tụng. Xét thấy việc pháp luật tố tụng hình sự
quy định những trường hợ trên là hợp lí, tuy nhiên cần phải có những hướng dẫn
cụ thể hơn để dễ dàng áp dụng trong thực tiễn.
b. Phương hướng khắc phuc
Các cơ quan có thẩm quyên cần nhanh chóng xây dựng và ban hành văn bản
hướng dẫn thi hành các quy định cụ thể hơn pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự và
cụ thể là trong trường hợp “vụ án về tội đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, xét thấy
cần phải trực tiếp điều tra” theo hướng làm rõ trong trường hợp nào cơ quan điều
tra cấp trên thì được lấy lên để trực tiếp điều tra.
3. Những hạn chế của pháp luật trong thẩm quyền khởi tố của Viện
kiểm sát.
a. Hạn chế của pháp luật
Khoản 1 Điều 104 và Điều 109 BLTTHS hiện hành quy định viện kiểm sát
có quyền khởi tố vụ án trong hai trường hợp là: khi kiểm sát khởi tố vụ án mà có
căn cứ để huỷ bo quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra, cơ quan hải
quan, bộ đội biên phòng, cơ quan kiểm lâm,lực lượng cảnh sát biển, các cơ quan
khác trong công an nhân dân, quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra và trong trường hợp hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ
án. Việc quy định viện kiểm sát chỉ khởi tố vụ án hình sự trong hai trường hợp nói
trên là hoàn toàn hợp lí. Bởi lẽ, quy định như vậy là phù hợp với chức năng kiểm
sát của Viện kiểm sát. Với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, bao gồm hoạt
11


động của các cơ quan điều tra, cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra và hoạt động xét xử của toà án, viện kiểm sát có khả năng và chỉ
có khả năng xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm thông qua công tác

kiểm sát cụ thể này, để tư đó ra quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không
khởi tố vụ án hình sự được chính xác. Theo khoản 1 Điều 112 BLTTHS khi thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ án
hình sự, Quy định này dễ dẫn đến hiểu lầm là khi thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra, nếu phát hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm bất kì, viện kiểm
sát có trách nhiệm và quyền hạn ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Điều này mâu
thuẫn với quy định về quyền khởi tố vụ án của viện kiểm sát tại Điều 104
BLTTHS. Đồng thời, tại khoản 3 Điều 112 BLTTHS về quyền khởi tố vụ án của
viện kiểm sát trong trường hợp phát hiện hành vi của điều tra viên có dấu hiệu tội
phạm là mâu thuẫn với quy định tại Điều 104 BLTTHS, quy định như vậy có thể
hiểu đây là trường hợp thứ ba viện kiểm sát được khởi tố ngoài hai trường hợp đã
được quy định tại Điều 104 BLTTHS. Hơn nữa, không phải mọi hành vi vi phạm
pháp luật của điều tra viên đều xuất phát tư việc họ là người tiến hành tố tụng trong
vụ án hoặc liên quan đến vụ án mà họ đang thụ lí, điều tra làm ảnh hưởng đến việc
giải quyết đúng đắn vụ án mà còn có thể liên qua đến lĩnh vực khác và với mục
đích khác. Hành vi của điều tra viên có thể có dấu hiệu của tội phạm xâm phạm
hoạt động tư pháp hoặc không có dấu hiệu này. Nếu hành vi của điều tra viên có
dấu hiệu của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thì việc khởi tố thuộc thẩm
quyền của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; trường hợp không
có dấu hiệu này thì thẩm quyền khởi tố thuộc về cơ quan có thẩm quyền kháctheo
quy định của BLTTHS. Vì vậy, việc quy định chung chung như vậy là không hợp
lí.
b. Phương hướng hoàn thiện
12


Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 112 theo hướng viện kiểm sát
chỉ khởi tố vụ án đối với các trường hợp quy định tại Điều 104. Nếu sửa như vậy
thì khoản 1 Điều 112 sẽ có nội dung là: khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Bộ
luật này quy định, khởi tố bị can; yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi

quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 112 BLTTHS như sau: “yêu cầu thủ
trưởng cơ quan điều tra thay đổi điều tra viên vi phạm pháp luật theo quy định của
Bộ luật này; nếu hành vi của điều tra viên có dấu hiệu tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp thì yêu cầu Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao khởi
tố về hình sự; trường hợp hành vi của điều tra viên có dấu hiệu tội phạm khác thì
yêu cầu cơ quan điều tra có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này khởi tố về
hình sự”.
4. Những hạn chế của pháp luật TTHS về thẩm quyền khởi tố của tòa
án.
a. Những hạn chế của quy định pháp luật
Điều 104 BLTTHS năm 2003 quy định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
của hội đồng xét xử tại đoạn 3 khoản 1 cho phép có sự lựa chọn: hội đồng xét xử ra
quyết định khởi tố hoặc yêu cầu viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc
xét xử tại phiên toà mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải
điều tra. Trên thực tế, muốn ra được quyết định khởi tố vụ án hình sự cần phải tiến
hành hoạt động kiểm tra, xác minh các thông tin về tội phạm; cũng phải được thảo
luận tại phòng nghị án, thông qua bằng biểu quyết đa sốvà phải lập thành văn bản.
Hơn nữa, giả sử hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tội
phạm và người phạm tội mới phát hiện tại phiên toà thì theo quy định tại khoản 3
Điều 104 BLTTHS, vụ án đã khởi tố đó có được điều tra hay không lại do viện
kiểm sát quyết định. Trong trường hợp quyết định khởi tố vụ án hình sự của hội
13


đồng xét xử không có căn cứ, viện kiểm sát kháng nghị lên toà án cấp trên, toà án
cấp trên phải xét lại quyết định này theo thủ tục luật định. Trường hợp toà án cấp
trên chấp nhận kháng nghị của viện kiểm sát thì quyết định khởi tố vụ án của hội
đồng xét xử sẽ bị huỷ bo. Điều đó tất nhiên sẽ ảnh hưởng tới uy tín của hội đồng
xét xử đã ra quyết định, nhất là uy tín cá nhân của thẩm phán chủ toạ phiên toà và

là điều không thành viên nào của hội đồng xét xử mong muốn. Ngược lại, nếu toà
án cấp trên không chấp nhận kháng nghị của viện kiểm sát,việc có điều tra vụ án,
có truy tố bị can ra toà án để xét xử hay không vẫn có thể bị viện kiểm sát chi phối
bởi hoạt động kiểm sát điều tra và hoạt động thực hành quyền công tố nhà nước. Vì
vậy dẫn đến tình trạng hội đồng xét xử sẽ yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án để
tránh những nhiệm vụ, thủ tục phiền hà và trách nhiệm khi thực hiện quyền khởi tố
vụ án.
b. Phương hướng khắc phuc
Xin đề xuất sửa đổi đoạn 3 khoản 1 Điều 104 BLTTHS như sau: “Trong
trường hợp qua việc xét xử vụ án tại phiên toà mà phát hiện được tội phạm hoặc
người phạm tội mới cần phải điều tra, hội đồng xét xử yêu cầu viện kiểm sát ra
quyết định khởi tố vụ án”
Việc sửa đổi quy định tại khoản 1 điều 104 BLTTHS như trên sẽ giúp cho
Hội đồng thẩm phán có được những phản ứng tích cực đối với việc phát hiện ra
những tội pham, người phạm tội mới, đảm bảo được tính pháp chế trong tố tụng
hình sự, góp phần vào việc nhanh chóng phát hiện và xử lí kịp thời các hành vi
phạm tội và người phạm tội. Đồng thời, hạn chế được những hoạt động không cần
thiết trong thủ tục và phát huy được vai trò của Viện kiểm sát.

14


KẾT LUẬN
Như vậy, viêc phân định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự trong các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự đã góp phần to lớn vào việc giải quyết nhanh chong, kịp
thời các hành vi phạm tội và tránh được việc bo lọt tội phạm. Vì vậy, với những

15



phương hướng hoàn thiện pháp luật ở trên, mong rằng các quy định của pháp luật
sẽ phát huy hơn nữa vai trò của mình và dễ dàng áp dụng trên thực tế

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học luật hà nội, giaó trình luật tố tụng hình sự việt nam, 2006,
nxb. Công an nhân dân
2. Bộ luật tố tụng hình sự 2003
3. Pháp lênh về tổ chức điều tra hình sự 2004
16


4. Bài viết : “thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của viện kiểm sát và tòa án”
của TS. Vũ Gia Lâm trên tạp chí luật học số 8/2010.

17



×