Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Phân tích quy luật thay thế các kiểu nhà nước 8đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.62 KB, 8 trang )

MỤC LỤC
A. Lời mở đầu.........................................................................................................2
B. Nội dung.............................................................................................................2
I. Khái niệm kiểu nhà nước:...............................................................................2
II.

Quy luật thay thế các kiểu nhà nước:..........................................................3

1.

Sự thay thế mang tính tất yếu khách quan:.................................................3

2.

Kiểu nhà nước sau tiến bộ hơn kiểu nhà nước trước:.................................3

3.

Kiểu nhà nước sau có sự kế thừa kiểu nhà nước trước:.............................3

4.

Sự thay thế thông qua một cuộc cách mạng xã hội:...................................4

III. Biểu hiện của quy luật thay thế các kiểu nhà nước qua các giai đoạn
trong lịch sử:..........................................................................................................4
1.

Từ kiểu nhà nước chủ nô đến kiểu nhà nước phong kiến:.........................4

2.



Từ kiểu nhà nước phong kiến đến kiểu nhà nước tư sản:...........................5

3.

Từ kiểu nhà nước tư sản đến kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa:..................6

C. Kết luận..............................................................................................................7

1


A. Lời mở đầu
Sự thay thế các kiểu Nhà nước này bằng một kiểu Nhà nước khác là một quá
trình lịch sử tự nhiên, phát triển lâu dài và liên tục; là bộ phận của sự phát triển xã
hội. Một trong những biểu hiện cơ bản của sự phát triển xã hội đó là quy luật thay
thế các kiểu nhà nước. Đây là con đường tất yếu mà xã hội phải trải qua để đạt tới
sự hoàn thiện và tốt đẹp hơn. Chính bởi vậy mà quy luật thay thế các kiểu nhà nước
có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lý luận nhà nước và pháp luật. Điều này được
thể hiện rất rõ thông qua học thuyết Mác - Lênin về các hình thái kinh tế - xã hội
của C. Mác.
Nhằm góp phần làm rõ hơn về sự thay thế các kiểu nhà nước trong lịch sử
loài người, chúng em xin chọn đề tài: "Phân tích quy luật thay thế các kiểu nhà
nước".
B. Nội dung
I.

Khái niệm kiểu nhà nước:
“Kiểu nhà nước” là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc thù của


nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại và phát triển của
nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Học thuyết Mác – Lênin về các hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận để
phân chia các nhà nước trong lịch sử ra thành từng kiểu. Theo đó, xã hội loài người
từ khi có giai cấp cho đến ngày nay đã tồn tại bốn hình thái kinh tế - xã hội là:
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa và tương ứng
với chúng là bốn kiểu nhà nước: chủ nô, phong kiến, tư sản và xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình tồn tại, phát triển và suy vong, mỗi kiểu nhà nước có những
đặc điểm riêng về bản chất, chức năng, song quá trình thay thế các kiểu nhà nước

2


đều phải tuân theo những quy luật nhất định và quy luật ấy phải phù hợp với quy
luật phát triển của xã hội.
II.

Quy luật thay thế các kiểu nhà nước:
1. Sự thay thế mang tính tất yếu khách quan:
Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng một kiểu nhà nước khác là một quy luật

tất yếu và khách quan trong sự phát triển của xã hội. Nó tất yếu khách quan bởi nó
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người, nó phụ thuộc vào sự phát triển
của kinh tế và xã hội, bắt nguồn từ sự thay đổi về điều kiện kinh tế - xã hội. Mỗi
một phương thức sản xuất – đại diện cho một hình thái kinh tế - xã hội, bao gồm
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong quá trình phát triển của xã hội, lực
lượng sản xuất có vai trò tiên phong và quan hệ sản xuất phản ánh trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nào
đó, nó trở nên mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, nghĩa là quan hệ sản xuất không
còn phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất nữa, quan hệ sản xuất trở

thành xiềng xích đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lúc này, nhu cầu tất
yếu của xã hội là phải thay thế quan hệ sản xuất đã lạc hậu bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ mới. Và khi đó sẽ
hình thành một phương thức sản xuất mới – đại diện cho một hình thái kinh tế - xã
hội mới, tương ứng với nó là một kiểu nhà nước mới ra đời. Quy luật thay thế kiểu
nhà nước phù hợp với quy luật về sự phát triển và thay thế của hình thái kinh tế - xã
hội. Đó là tính tất yếu khách quan của quy luật thay thế kiểu nhà nước.
2. Kiểu nhà nước sau tiến bộ hơn kiểu nhà nước trước:
Kiểu nhà nước sau bao giờ cũng tiến bộ và hoàn thiện hơn kiểu nhà nước
trước, bởi vì không chỉ nó dựa trên phương thức sản xuất với lực lượng sản xuất
phát triển ở trình độ cao hơn và quan hệ sản xuất mới mà nó còn có khả năng thúc
đẩy sự phát triển của phương thức sản xuất đó. Nhà nước mới hình thành sẽ phù
hợp và tiến bộ hơn, kiểu nhà nước sau cũng sẽ hoàn thiện hơn kiểu nhà nước trước.
3. Kiểu nhà nước sau có sự kế thừa kiểu nhà nước trước:
3


Sự thay thế các kiểu nhà nước còn diễn ra theo quy luật kế thừa. Tính kế thừa
được hiểu theo ý nghĩa: Nhà nước mới không ra đời từ hư vô mà được ra đời từ
trong lòng nhà nước cũ. Kiểu nhà nước mới không phủ định "sạch trơn", không vứt
bỏ hoàn toàn bản chất của nhà nước trước đó. Sự thay thế có tính kế thừa này là
hoàn toàn phù hợp với diễn biến lịch sử cũng như rất ăn khớp với quy luật vận
động phát triển của sự vật hiện tượng trong giới tự nhiên. Trong quá trình nhà nước
cũ tồn tại, nó đã tích lũy cho bản thân những "lượng" nhất định để sau đó tạo điều
kiện cho chất biến đổi, hình thành nên nhà nước mới trên nền có sẵn của nhà nước
cũ .
4. Sự thay thế thông qua một cuộc cách mạng xã hội:
Sự thay thế kiểu nhà nước cũ bằng kiểu nhà nước mới chỉ có thể được thực
hiện thông qua cách mạng xã hội, bởi lẽ giai cấp thống trị cũ đại diện cho quan hệ
sản xuất cũ, không bao giờ tự nguyện rời bỏ những đặc quyền, đặc lợi mình đang

có, vì thế giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ phải tập hợp lực
lượng, tiến hành đấu tranh để lật đổ chính quyền của giai cấp hay lực lượng cũ và
thiết lập chính quyền hay lực lượng thống trị mới. Kiểu nhà nước mới ra đời nghĩa
là quyền lực nhà nước đã chuyển giao từ giai cấp này sang tay giai cấp khác, do
vậy bản chất và vai trò xã hội của nhà nước mới cũng thay đổi so với nhà nước
trước đó.
III.

Biểu hiện của quy luật thay thế các kiểu nhà nước qua các giai đoạn trong
lịch sử:
1. Từ kiểu nhà nước chủ nô đến kiểu nhà nước phong kiến:
Vào giai đoạn cuối của chế độ chiếm hữu nô lê, quan hệ sản xuất chế độ sở

hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ, cộng với sự bóc lột sức lao động
của nô lệ đã trở nên kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn giữa
giai cấp chủ nô và nô lệ ngày càng trở nên gay gắt, dẫn đến nhiều cuộc nổi dậy của
nô lệ. Một số chủ nô có tư tưởng tiến bộ cũng đã tự giải phóng nô lệ của mình. Tuy
nhiên lúc đó chưa có tài sản riêng nên các “nô lệ tự do” phải đi làm thuê cho chủ nô
4


theo hình thức lĩnh canh. Chế độ phong kiến dần dần thay thế chế độ chiếm hữu nô
lệ; nhà nước phong kiến thay thế nhà nước chủ nô. Nhìn chung sự ra đời của các
nhà nước phong kiến châu Âu và một số nhà nước châu Á dựa trên sự tan rã của
nhà nước chủ nô.
Khác hẳn với quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ, trong quan hệ sản xuất
phong kiến, người nông dân đã có sở hữu riêng, mặc dù đó là sở hữu nhỏ và còn
tương đối bấp bênh. Ngay cả khi lĩnh canh ruộng đất của địa chủ phong kiến để
canh tác thì nông dân vẫn được hưởng một phần nhất định sản phẩm lao động do
mình làm ra, được sở hữu đối với nhà cửa, công cụ lao động, ruộng đất (thường với

số lượng ít). Địa chủ phong kiến không có quyền định đoạt tính mạng của người
nông dân như trong chế độ chiếm hữu nô lệ. Điều này thể hiện sự tiến bộ hơn hẳn
của quan hệ sản xuất phong kiến so với quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ.
2. Từ kiểu nhà nước phong kiến đến kiểu nhà nước tư sản:
Sau hơn một nghìn năm tồn tại, nhà nước phong kiến bắt đầu lâm vào khủng
hoảng toàn diện. Nhà nước phong kiến với chế độ quân chủ chuyên chế chỉ phù
hợp với phương thức sản xuất phong kiến - phương thức sản xuất có đặc điểm cơ
bản là nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp.
Do sự phát triển kinh tế hàng hóa thị trường đầu TK XVI – TK XVII làm cho
các đô thị hình thành nhanh chóng. Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao
động đòi hỏi con người phải có quyền bình đẳng, tự do kinh doanh, được đảm bảo
quyền tư hữu tư sản. Tuy nhiên, chế độ phong kiến hà khắc đã cản trở sự hình thành
và phát triển của các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản ra đời mới, các cuộc dân chủ tư sản liên
tiếp nổ ra, lật đổ nhà nước phong kiến, thiết lập nhà nước tư sản, mở đường cho
kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển.
Không giống với phương thức sản xuất của nhà nước phong kiến, kinh tế
nông nghiệp chiếm ưu thế, vì thế hai giai cấp cơ bản trong xã hội là địa chủ và
nông dân. Thì trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, công nghiệp, thương
5


mại, dịch vụ, khoa học kỹ thuật công nghệ…chiếm ưu thế, vì thế các giai cấp và
thành phần trong xã hội tư bản là giai cấp tư sản và công nhân, nông dân, thương
nhân cùng với các nhà khoa học.
Nhà nước tư sản ra đời là kết quả của cuộc cách mạng tư sản, là quy luật tất
yếu khách quan của lịch sử với sự ra đời của nhà nước tư sản các đặc quyền, đặc lợi
của giai cấp quý tộc phong kiến đã bị loại bỏ, giai cấp tư sản tuyên bố các quyền
bình đẳng, tự do, nhân quyền… Nhà nước tư sản mới tiến bộ hơn nhà nước rất
nhiều so với nhà nước phong kiến trước đó mà nó đã thủ tiêu.

3. Từ kiểu nhà nước tư sản đến kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội
loài người tính đến thời điểm hiện nay. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
mang tính tất yếu khách quan phù hợp với quy luật vận động và phát triển của xã
hội. Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những tiền đề
kinh tế, xã hội và chính trị xuất hiện trong lòng xã hội tư sản.
Vào cuối thế kỉ 19, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ tính trì trệ,
kìm hãm sự phát triển của xã hội, không phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất đã phát triển đến mức xã hội hóa cao, mâu thuẫn giữa quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất ngày càng gay gắt đòi hỏi phải có một
cuộc cách mạng xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, xác lập mối quan hệ sản
xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất, đó chính là quan hệ sản xuất dựa trên chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất – quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đây là tiền đề
cho sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Về mặt xã hội, do mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản và
những người lao động khác ngày càng gay gắt. Giai cấp vô sản ngày càng lớn mạnh
cả về số lượng và chất lượng, dưới sự lãnh đạo của chính đảng của mình, giai cấp
vô sản đã ý thức được vai trò và sứ mệnh lịch sử của mình, đã liên minh với các
giai tầng nhân dân lao động khác trong xã hội để tiến hành cuộc cách mạng giành
chính quyền, lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, giải phóng mình và các tầng
6


lớp nhân dân lao động khác khỏi áp bức bóc lột, thiết lập nhà nước kiểu mới – nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới có bản chất khác với kiểu nhà
nước bóc lột. Cơ sở kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân là
giai cấp lãnh đạo nhà nước và xã hội, quyền lực nhà nước thuộc về giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là bộ máy để thực hiện

quyền làm chủ của nhân dân lao động, tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân
dân, bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Nhân dân là chủ thể của
quyền lực nhà nước, nhân dân có quyền ứng cử hoặc bầu cử ra những người có đủ
năng lực, trình độ để tham gia vào bộ máy nhà nước đáp ứng mọi nhu cầu và
nguyện vọng của nhân dân. Có thể nói, nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước
có bản chất dân chủ, nhân đạo và nhân văn sâu sắc.
C. Kết luận
Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng kiểu nhà nước khác không phải diễn ra
một cách tức thời, nó là một quá trình lâu dài bởi nó được thực hiện thông qua cách
mạng xã hội là cuộc cách mạng có tính trường kỳ và cũng là một quá trình có tính
kế tiếp. Do vậy trong thực tế tồn tại những thời kỳ quá độ chuyển tiếp từ kiểu Nhà
nước này sang kiểu Nhà nước khác ( ví dụ: Việt Nam trải qua thời kỳ dài quá độ từ
cách mạng dân tộc dân chủ sang cách mạng xã hội chủ nghĩa).
Sự thay thế kiểu nhà nước là quy luật lịch sử mang tính tất yếu khách quan,
song do hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà nhiều nhà nước trên thế giới không diễn ra
theo tuần tự thay thế hết kiểu nhà nước này đến kiểu nhà nước khác mà bỏ qua một
hoặc những kiểu nhà nước nhất định (ví dụ: Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua giai đoạn phát triển của kiểu nhà nước tư sản; nước Mỹ không trải qua giai
đoạn phát triển của kiểu nhà nước phong kiến).
7


8



×