MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG................................................................................................2
I.
Khái quát về hoãn thi hành án dân sự:.......................................................2
1. Khái niệm................................................................................................2
2. Ý nghĩa:...................................................................................................4
II.
Nội dung quy định hoãn thi hành án dân sự...............................................4
1. Căn cứ hoãn thi hành án dân sự..............................................................4
2. Thời hạn hoãn thi hành án dân sự...........................................................6
3. Thẩm quyền và thủ tục hoãn thi hành án dân sự.....................................6
4. Hậu quả pháp lí của hoãn thi hành án dân sự:.........................................7
III.
Liên hệ thực tiễn......................................................................................8
1. Tình huống xây dựng..............................................................................8
2. Bất cập tồn tại........................................................................................11
3. Phương hướng khắc phục......................................................................13
PHẦN KẾT THÚC..............................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................16
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, việc giải
quyết vụ việc dân sự mới chỉ đóng vai trò ban đầu. Những quyền và lợi ích hợp
pháp cho đương sự chỉ thực sự được bảo vệ khi những phán quyết được nêu
trong quyết định, bản án được thực hiện. Đó chính là mục đích của việc thi hành
án. Tuy nhiên, việc thi hành án không phải lúc nào cũng diễn ra thuận lợi với sự
hợp tác của đôi bên, đó là chưa kể đến trong những trường hợp bất khả kháng
hay điều kiện thực tế không cho phép thi hành án. Do đó, pháp luật Thi hành án
dân sự đã có những quy định liên quan đến việc hoãn thi hành án dân sự. Trong
bài viết này, tôi sẽ trình bày những nội dung cơ bản về quy định hoãn thi hành án
dân dự, đồng thời đưa ra ví dụ thực tiễn nhằm chỉ ra những bất cập đang còn tồn
tại để từ đó, có hướng giải quyết kịp thời và đúng đắn.
PHẦN NỘI DUNG
I.
Khái quát về hoãn thi hành án dân sự:
1. Khái niệm
Theo Từ điển tiếng Việt “hoãn” là “chuyển thời điểm đã định để làm việc gì
đó sang thời điểm khác muộn hơn”. Trong khoa học pháp lí, hoãn thi hành án là
việc cơ quan thi hành án dân sự quyết định chưa tổ chức thi hành các bản án,
quyết định khi có căn cứ pháp luật quy định.
Cụ thể Điều 2 Luật Thi hành án dân sự đã quy định các bản án, quyết định
được thi hành bao gồm:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
Căn cứ vào BLTTDS thì thời hạn kháng cáo bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ
ngày tuyên án sơ thẩm; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
2
khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý
do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án
hoặc bản án được niêm yết. Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp
sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp là 01 tháng, kể từ ngày tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia
phiên tòa thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được
bản án.
Do đó, Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật sau 30 ngày kể từ ngày tuyên án
trong trường hợp không có kháng cáo, kháng nghị đồng thời không có người
vắng mặt. Trường hợp có người vắng mặt hoặc Kiểm sát viên không tham gia
phiên tòa thì thời gian có hiệu lực nhiều hơn 30 ngày, phụ thuộc vào ngày người
có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án hoặc bản án được
niêm yết.
b) Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án;
d) Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng
tài nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam;
đ) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh mà sau 30 ngày, kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự
nguyện thi hành, không khởi kiện tại Tòa án;
e) Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại;
g) Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.
Ngoài ra còn có những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm
được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp
thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt
3
hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại
làm việc;
b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
2. Ý nghĩa:
Quy định hoãn thi hành án là một quy định có ý nghĩa quan trọng, được xây
dựng dựa trên những nguyên tắc cơ bản của pháp luật thi hành án dân sự:
Thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện về thời gian cho những
người phải thi hành án khi gặp phải những trở ngại khách quan hay có lý
do chính đáng khiến họ không thể thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn.
Tạo điều kiện để các cơ quan nhà nước có thêm thời hạn để giải quyết và
thực hiện, hoàn tất các thủ tục pháp lý cần thiết để đảm bảo quyền, lợi ích
của các đương sự và những người có liên quan.
Bên cạnh việc tạo điều kiện cho người phải thi hành án thì việc hoãn thi
hành án cũng giúp người nhận được tài sản có thêm thời gian trong việc
nhận tài sản nhưng vì những lý do nhất định mà họ chưa thể nhận được,
giúp đảm bảo quyền và lợi ích của họ.
Ngoài ra, việc hoãn thi hành án còn thể hiện sự tôn trọng sự thỏa thuận
giữa các bên trong quá trình thi hành án dân sự.
II.
Nội dung quy định hoãn thi hành án dân sự
1. Căn cứ hoãn thi hành án dân sự
Căn cứ vào Điều 48 Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi, bổ sung 2014,
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án trong các
trường hợp sau đây:
a) Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp
huyện trở lên; bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định
của Tòa án;
4
b) Chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do
chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện được
nghĩa vụ theo bản án, quyết định;
c) Đương sự đồng ý hoãn thi hành án; việc đồng ý hoãn phải lập thành văn
bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của đương sự; trong thời gian hoãn thi hành
án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án, trừ
trường hợp đương sự có thỏa thuận khác;
Ở 2 trong 3 trường hợp trên, cơ sở hoãn thi hành án xuất phát từ những
nguyên nhân khách quan khiến cho người phải thi hành án không thể thực hiện
được việc thi hành án một cách bình thường, khiến cho quyền của bên được thi
hành án bị ảnh hưởng. Trong trường hợp còn lại, pháp luật đã thể hiện sự tôn
trọng thỏa thuận của các bên, tôn trọng quyền tự định đoạt của các cá nhân.
d) Tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo quy định
tại Điều 74 và Điều 75 của Luật này; tài sản được kê biên theo Điều 90 của Luật
này nhưng sau khi giảm giá theo quy định mà giá trị bằng hoặc thấp hơn chi phí
và nghĩa vụ được bảo đảm;
Điều 74, 75 Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi, bổ sung 2014 quy định
về những trường hợp thi hành án đối với tài sản là tài sản chung và tài sang tranh
chấp. Việc giải quyết loại tài sẩn này khá phức tạp bởi nó có liên quan đến quyền
lợi của người thứ ba trong quan hệ thi hành án. Còn đối với tài sản được kê biên
theo Điều 90, khi được kê biên, những tài sản này đã đủ để đảm bảo cho người
phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ của mình, tuy nhiên, do nguyên nhân khách
quan mà những tài sản này mất/ giảm giá trị khiến cho việc thi hành án không
được đảm bảo. Cho nên, hoãn thi hành án trong trường hợp này là điều cần thiết
nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên.
5
đ) Việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải thích
bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự theo quy
định tại điểm b khoản 2 Điều 170 và khoản 2 Điều 179 của Luật này;
Việc chờ đợi cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết định và trả lời
kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự về bản án, quyết định nhằm đảm bảo
cho cơ quan thi hành án dân sự xác định đúng quyền và nghĩa vụ của các bên;
tránh trường hợp hiểu sai/ không đúng bản án khiến cho quyền và nghĩa vụ của
một trong các bên thi hành án bị thiệt hại.
Ngoài ra, tại Điều 48 Luật thi hành án dân sự còn quy định trường hợp hoãn
thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết
định. Quy định trên nhằm đảm bảo trong quá trình xem xét kháng nghị bản án,
quyết định, việc thi hành án được hoãn nhằm làm giảm, tránh thiệt hại nếu bản
án, quyết định được ra trái pháp luật.
2. Thời hạn hoãn thi hành án dân sự
Thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị
bản án, quyết định không quá 03 tháng, kể từ ngày ra văn bản yêu cầu hoãn thi
hành án; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải
chịu lãi suất chậm thi hành án.
Đối với các trường hợp khác, thời hạn hoãn thi hành án cho đến khi lí do của
việc hoãn không còn nữa.
Như vậy, trong số các trường hợp phải hoãn thi hành án, chỉ có hoãn thi hành
án theo yêu cầu của người có kháng nghị mới có thời hạn, còn những trường hợp
còn lại chỉ chấm dứt khi điều kiện gây cản trở không còn; thậm chí, việc hoãn thi
hành án có thể kéo dài vô hạn nếu lý do của việc hoãn không chấm dứt.
3. Thẩm quyền và thủ tục hoãn thi hành án dân sự
Theo điều 48 luật Thi hành án dân sự về hoãn thi hành án:
6
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án có thẩm
quyền ra quyết định hoãn thi hành án.
Khi có căn cứ hoãn thi hành án, chấp hành viên chịu trách nhiệm thi hành án
đề nghị Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án.
Thời hạn ra quyết định hoãn thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày có
căn cứ hoãn thi hành án quy định tại khoản 1 Điều 48.
Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
đối với bản án, quyết định của Tòa án chỉ được yêu cầu hoãn thi hành án một lần
để xem xét kháng nghị nhằm tránh hậu quả không thể khắc phục được. Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án khi nhận được
yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị ít nhất 24 giờ
trước thời điểm cưỡng chế thi hành án đã được ấn định trong quyết định cưỡng
chế. Trường hợp cơ quan thi hành án nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của
người có thẩm quyền kháng nghị ít hơn 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế đã
được ấn định trong quyết định cưỡng chế thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự có quyền quyết định hoãn thi hành án khi xét thấy cần thiết.
Trường hợp vụ việc đã được thi hành một phần hoặc đã được thi hành xong
thì cơ quan thi hành án dân sự phải có văn bản thông báo ngay cho người yêu
cầu hoãn thi hành án.
4. Hậu quả pháp lí của hoãn thi hành án dân sự:
Thứ nhất, sau khi có quyết định hoãn thi hành án, các hoạt động thi hành án
dân sự được tạm ngừng lại.
Thứ hai, trường hợp vụ việc đã được thi hành một phần hoặc đã được thi
hành xong thì cơ quan thi hành án dân sự phải có văn bản thông báo ngay cho
người yêu cầu hoãn thi hành án.
Thứ ba, trong thời gian hoãn thi hành án, người phải thi hàn án không phải
chịu lãi suất chậm thi hành án.
7
Thứ tư, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi căn cứ hoãn thi hành án
không còn, hết thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền
kháng nghị hoặc nhận được văn bản trả lời của người có thẩm quyền kháng nghị
về việc không có căn cứ kháng nghị thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự
phải ra quyết định tiếp tục thi hành án.
III.
Liên hệ thực tiễn
1. Tình huống xây dựng
Ông Nguyễn Thanh T được công ty Toàn Thế Giới cam kết sẽ trả lại vốn cho
ông là 06 nền nhà giá trị 3 tỷ đồng. Do không thực hiện đúng theo cam kết, ông
T đã kiện ra tòa. Sau quá trình xét xử, Tòa phúc thẩm TANDTC xử phúc thẩm ra
bản án phúc thẩm số 50/2016 ngày 12-2-2016 sửa án sơ thẩm, tuyên buộc công
ty cổ phần Toàn Thế Giới phải trả cho ông T 3 tỷ đồng. Trong bản án ghi rõ “nếu
Toàn Thế Giới chậm thi hành án (trả tiền) thì phải chịu thêm lãi suất do Ngân
hàng Nhà nước qui định”. Do không thấy công ty thực hiện nghĩa vụ, ông T có
gửi đơn yêu cầu thi hành án và ngày 08-4-2016, Cục thi hành án dân sự tỉnh X ra
“Quyết định thi hành án theo yêu cầu” số 226/QĐ-THA, yêu cầu công ty Toàn
Thế Giới thi hành bản án dân sự phúc thẩm số 50/2009/DS-PT nói trên.
Ngày 19-11-2016 Cục thi hành án dân sự tỉnh X ra “Quyết định cưỡng chế
thi hành án” kê biên tài sản (06 nền nhà) vào ngày 30-11-2016 của công ty Toàn
Thế Giới (để bán đấu giá). đối với công ty Toàn Thế Giới. Ngày 23-11-2016,
công văn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu Cục trưởng cục thi hành án
dân sự tỉnh X ra quyết định hoãn thi hành bản án dân sự phúc thẩm nêu trên
trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được công văn với lý do: bà Ng. (một cổ
đông trong công ty Toàn Thế Giới) đã có đơn khiếu nại Bản án dân sự phúc thẩm
số 50/2016/DS-PT.
Hết thời hạn hoãn thi hành án, ông T vẫn tiếp tục không nhận được hồi âm từ
phía công ty Toàn Thế Giới về việc trả lại số tiền cho mình và không có quyết
8
định tiếp tục thi hành án từ phía cơ quan thi hành án. Do vậy, ông T lại phải gửi
đơn yêu cầu thi hành án đến cơ quan có thẩm quyền.
Đến ngày 4-7-2017, ông T nhận được Công văn số 13/VKSTC-V5 của Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao với nội dung: hoãn thi hành án tiếp 03 tháng nữa để có
thời gian xem xét đơn của Toàn Thế Giới. Việc hoãn thi hành án này khiến cho
ông T vô cùng mệt mỏi vì phải chờ đợi xử lý thi hành án trong một thời gian dài
mà không có kết quả.
Giải quyết tình huống:
Trong tình huống nêu trên, có hai lần Viện kiểm sát nhân dân tối cao ra công
văn với nội dung hoãn thi hành án để có thời gian xem xét đơn đề nghị từ phía bị
đơn. Do vậy, ta sẽ xét lần lượt từng lần hoãn thi hành án dân sự.
Lần thứ nhất
Công văn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao vào ngày 23-11-2016 yêu cầu
Cục trưởng cục thi hành án dân sự tỉnh X ra quyết định hoãn thi hành bản án dân
sự phúc thẩm nêu trên trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được công văn với
lý do: bà Ng. (một cổ đông trong công ty Toàn Thế Giới) đã có đơn khiếu nại
Bản án dân sự phúc thẩm số 50/2016/DS-PT.
Căn cứ theo Khoản 2, Điều 48, Luật thi hành án 2008, sửa đổi, bổ sung 2014:
“Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án khi
nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị ít
nhất 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế thi hành án đã được ấn định trong quyết
định cưỡng chế...” thì việc hoãn thi hành án lần thứ nhất là đúng theo quy định
của pháp luật bởi:
Thứ nhất, người có thẩm quyền kháng nghị trong trường hợp này là Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Cụ thể, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã gửi công
văn đến để yêu cầu Cục trưởng cục thi hành án dân sự tỉnh X ra quyết định hoãn
9
thi hành bản án dân sự phúc thẩm vì có bà Ng. đã có đơn khiếu nại Bản án dân
sự phúc thẩm số 50/2016/DS-PT.
Thứ hai, về thời hạn yêu cầu hoãn thi hành án. Ngày 19-11-2016 Cục thi
hành án dân sự tỉnh X ra “Quyết định cưỡng chế thi hành án” kê biên tài sản (06
nền nhà) vào ngày 30-11-2016 của công ty Toàn Thế Giới (để bán đấu giá).. Còn
công văn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao được ra vào ngày 23-11-2016, tức
là 07 ngày trước thời điểm cưỡng chế thi hành án đã được ấn định trong quyết
định cưỡng chế. Thời hạn yêu cầu hoãn thi hành án theo quy định của pháp luật
là ít nhất 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế thi hành án đã được ấn định trong
quyết định cưỡng chế. So với 24 giờ (02 ngày) công văn yêu cầu hoãn thi hành
án của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ra đảm bảo đúng thời gian theo quy
định.
Thêm nữa, về thời hạn hoãn thi hành án theo công văn của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao cũng đáp ứng đúng theo quy định của pháp luật tại đoạn 4 của
khoản 2 Điều 48, Luật thi hành án hiện hành: “Thời hạn hoãn thi hành án theo
yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định không quá 03
tháng, kể từ ngày ra văn bản yêu cầu hoãn thi hành án; trong thời gian hoãn thi
hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án.”
Bên cạnh sự tuân thủ đúng theo pháp luật, ở lần hoãn thi hành án thứ nhất
này, vẫn có sai xót về phía cơ quan thi hành án khi hết thời hạn hoãn thi hành án.
Cụ thể, theo quy định tại Khoản 4, Điều 48, Luật thi hành án 2008, sửa đổi, bổ
sung 2014: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc, ..., hết thời hạn hoãn thi hành án
theo yêu cầu của người có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều này ... Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định tiếp tục thi hành án.” thì
khi hết thời hạn hoãn thi hành án dân sự, thủ trưởng cơ quan thi hành án có trách
nhiệm ra quyết định tiếp tục thi hành án và phải gửi đến cho đương sự cùng tổ
chức, cá nhân có liên quan để tiếp tục thực hiện bản án. Trong tình huống, không
10
có một quyết định nào cho đến khi ông T có đơn yêu cầu đến cơ quan thi hành
án.
Lần thứ hai:
Công văn số 13/VKSTC-V5 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao với nội
dung: hoãn thi hành án tiếp 03 tháng nữa để có thời gian xem xét đơn của Toàn
Thế Giới được ra vào ngày 4-7-2017. Yêu cầu này của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao là không đúng theo quy định của pháp luật.
Bởi lẽ, căn cứ theo quy định tại đoạn 3, khoản 2, Điều 48, Luật thi hành án
2008, sửa đổi, bổ sung 2014: “Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án chỉ được yêu
cầu hoãn thi hành án một lần để xem xét kháng nghị nhằm tránh hậu quả không
thể khắc phục được.” thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ có quyền yêu cầu
hoãn thi hành án duy nhất một lần để tránh hậu quả không thể khắc phục được.
Có thể thấy rằng, việc ra yêu cầu hoãn thi hành án không có căn cứ này
khiến cho người được thi hành án (ông T) gặp nhiều khó khăn trong việc hưởng
lợi ích khi bản án được thi hành. Việc kéo dài thời gian chỉ có lợi cho công ty
Toàn Thế Giới khi cứ lần lữa trốn tránh nghĩa vụ trả tiền của mình. Thêm vào đó,
theo quy định của luật thi hành án hiện hành, khi hoãn thi hành án, người phải thi
hành án - phía phía công ty Toàn Thế Giới không phải chịu lãi suất chậm thi
hành án1. Như vậy, nếu chỉ tính với mức lãi suất rất thấp là 1%/tháng/3 tỷ đồng.
Thì mỗi đợt tạm hoãn như vậy ông T bị “mất” ít nhất 90 triệu đồng, tổng cộng
06 tháng là khoảng 200 triệu đồng. Và ngược lại, Toàn Thế Giới được lợi về số
tiền này.
2. Bất cập tồn tại
Điều 48 Luật Thi hành án dân sự có quy định: “Người có thẩm quyền kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định của
1 Khoản 2, Điều 48, Luật thi hành án 2008, sửa đổi, bổ sung 2014
11
Tòa án chỉ được yêu cầu hoãn thi hành án một lần để xem xét kháng nghị nhằm
tránh hậu quả không thể khắc phục được”. Theo điều luật này thì việc hoãn thi
hành án chỉ được thực hiện một lần do người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định của tòa án yêu cầu.
Trong khi đó, khoản 1 Điều 332 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 lại quy
định: “Người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án có quyền yêu cầu hoãn thi hành bản án, quyết định để xem xét
việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc hoãn thi hành bản án, quyết
định được thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự”.
Có thể hiểu, người có thẩm quyền kháng nghị có quyền yêu cầu hoãn để xem
xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Chỉ khi có căn cứ để kháng nghị
giám đốc thẩm thì người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của tòa
án mới được yêu cầu hoãn thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, đề cập đến vấn đề thời hạn nộp đơn yêu cầu của công dân thì tại
điều 334 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có quy định như sau: “ba năm kể từ ngày
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật đương sự đã có đơn đề nghị
xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm”. Trong khoảng thời gian 3 năm đó, đương
sự có thể nộp đơn bất cứ lúc nào để yêu cầu giám đốc thẩm. Bất cập đặt ra là
trong thời hạn được quy định, khi người có thẩm quyền ra căn cứ kháng nghị
giám đốc thẩm mà công dân đã nộp đơn yêu cầu giám đốc thẩm thì có thể vụ án
đã được thi hành. Do đó, quy định về hoãn thi hành án dân sự không có hiệu quả
và ý nghĩa.
Ngoài ra, quy định về hoãn thi hành án khi tài sản kê biên giảm giá theo quy
định vẫn có điểm chưa hợp lý. Cụ thể, cũng căn cứ vào Điều 48 Luật thi hành án
dân sự, việc hoãn thi hành án dân sự sẽ kết thúc khi hết lý do hoãn; trong trường
hợp này, tức là giá trị của tài sản kê biên đủ để thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
Điểm chưa hợp lý ở đây là, sẽ xảy trường hợp tài sản kê biên đủ giá trị thực hiện
12
thi hành án song vẫn thấp hơn giá trị tài sản ban đầu. Lúc này, nếu chấm dứt việc
hoãn thi hành án, việc thi hành án được tiến hành, bên chịu thiệt hại sẽ là bên
phải thi hành án, vì họ đã mất đi một khoản chênh lệch tài sản.
3. Phương hướng khắc phục
Để việc hoãn thi hành bản án dân sự phát huy đúng bản chất của quy định
này là nhằm đảm bảo vụ việc được xem xét thận trọng, đảm bảo quyền và lợi ích
của nhà nước, của công dân và nhằm hạn chế hậu quả không thể khắc phục
được khi vụ án đã được thi hành án, do vậy, nhóm có những kiến nghị sau:
Thứ nhất, nên sửa đổi, bổ sung Điều 2 của Luật THADS theo hướng:
“Những bản án, quyết định được thi hành là những Bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật;trường hợp có đơn khiêu nại giám đốc thẩm thì phải có văn
bản thông báo của người có thẩm quyền kháng nghị xác định vụ việc không có
căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm” (văn bản này đồng thời là công văn trả lời
đối với đơn khiếu nại Giám đốc thẩm của đương sự).
Thứ hai, cần có quy định giới hạn về mặt thời gian cụ thể đối với việc nộp
đơn khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm của đương sự. Mặc dù giám đốc thẩm
không phải là một cấp xét xử, tuy nhiên, điều dễ nhận thấy là hiện nay BLTTDS
đang để ngỏ khoảng thời gian này, vì vậy có thể hiểu là đương sự có thể được
nộp bất cứ thời điểm nào trong vòng 03 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp
luật. Điều này dẫn đến mâu thuẫn với các quy định về hoãn thi hành án tại Điều
48 Luật THADS, trong khi điều kiện, thủ tục về hoãn là tương đối khắt khe, chỉ
hoãn trong thời hạn 3 tháng và được quy định trong Luật THADS. Như vậy, nên
giữ lại thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 327 BLTTDS năm 2015 như sau:
"Trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đó thì
đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với người có thẩm quyền kháng nghị
quy định tại Điều 331 của Bộ luật này để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám
13
đốc thẩm". ( Vì theo quy định tại Điều 334 BLTTDS 2015, thời hạn kháng nghị
theo thủ tục gíam đốc thẩm là 05 năm nếu trong vòng 03 năm kể từ ngày bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật đương sự đã có đơn đề nghị xem xét
theo thủ tục Giám đốc thẩm nhưng sau khi hết thời hạn 03 năm đương sự vẫn
tiếp tục có đơn đề nghj và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm
pháp luâ theo quy định tại khoản 1 Điều 326 Bộ luật Tố tụng dân sự, xâm phạm
nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm
phạm đến lợi ích của cộng đồng, lợi ích của nhà nước và phải kháng nghị để
khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó..
Khi các đương sự (bên bị thi hành án) nhận được bản án để khiếu nại theo
thủ tục giám đốc thẩm thì bên được thi hành án cũng đồng thời có bản án để yêu
cầu được thi hành án. Vì thủ tục xem xét giám đốc thẩm thì cần phải tuân theo
trình tự nhất định. Theo điểm đ khoản 1 Điều 15 Quyết định số 625/QĐ-CA ngày
06 tháng 9 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quy chế
giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị, thông báo đối với bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân
dân thì thời hạn xem xét đơn của người có thẩm quyền đối với Vụ việc có văn
bản yêu cầu hoãn thi hành án là không quá 06 tháng và 25 ngày do quá trình tiếp
nhận và xử lý đơn, rút hồ sơ quy định tại Quy chế này (trên thực tế thường mất
nhiều thời gian hơn) nên trong một số trường hợp Cơ quan thi hành án dân sự đã
có quyết định thi hành bản án và thực hiện việc thi hành án, thậm chí có những
vụ đã cưỡng chế thi hành án rồi mới có Công văn yêu cầu hoãn của người có
thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm.)
Thứ ba, từ những phân tích trên và xuất phát từ thực tiễn những khó khăn,
bất cập khi cơ quan thi hành án dân sự Bộ tư pháp vừa ra quyết định thi hành án
vừa tổ chức thực hiện; Nhằm đảm bảo quy định về hoãn thi hành án được phát
huy triệt để, đồng thời để rà soát, hạn chế tối đa những vụ án tuyên không rõ
14
ràng, án khó thi hành, đảm bảo thống nhất trong triển khai thực hiện, nên sửa đổi
Luật THADS theo hướng chuyển thẩm quyền ra quyết định thi hành án dân sự từ
Cơ quan thi hành án dân sự Bộ Tư pháp sang Tòa án. “Tòa án ra quyết định thi
hành án dân sự, Cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thực hiện việc thi hành án
dân sự”.
Thứ tư, cần phải bổ sung, chỉnh sửa Luật thi hành án dân sự theo hướng hạn
chế và ngăn chặn việc ra quyết định hoãn thi hành án theo kiểu “lạm dụng”, lý
do không rõ ràng và gây thiệt hại cho đương sự, thì phải bị xử lý, thậm chí phải
bồi thường ( ít nhất 50% giá trị thiệt hại cho đương sự chẳng hạn).
PHẦN KẾT THÚC
Từ tình huống và những phân tích ở trên, có thể nhận thấy, quy định về hoãn
thi hành án còn chưa thực sự chặt chẽ, còn tồn tại những lỗ hổng để các cá nhân,
tổ chức lợi dụng. Việc này không chỉ trực tiếp gây ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích của người được thi hành án dân sự mà còn phần nào làm xấu bộ mặt của các
cơ quan nhà nước, nhất là cơ quan thi hành án, gián tiếp gây mất niềm tin vào
Đảng, nhà nước của nhân dân. Do đó, cần có sự vào cuộc và xử lý kịp thời nhằm
khắc phục những tình trạng nêu trên.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật thi hành án dân sự, Trường đại học Luật Hà Nội, NXB
Công an nhân dân, 2012
16