LỜI MỞ ĐẦU
Mỗi nhà nước, mỗi chế độ muốn duy trì và phát triển đất nước đều cần phải
thông qua công cụ quyền lực của mình đó là phát luật. Pháp luật là các quy tắc xử sự
có tính chất bắt buộc chung, dựa vào sức mạnh cưỡng chế của chủ thể mang quyền
lực nhà nước, pháp luật giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo duy trì trật tự xã
hội. Pháp luật luôn gắn liền với hình thức của nhà nước do đó đối với mỗi hình thức
nhà nước khác nhau thì pháp luật lại mang những đặc trưng cơ bản khác nhau. Nhưng
nhìn chung, tất cả các quốc gia trên thế giới muốn xây dựng một hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh đều cần dựa trên những nguồn luật nhất định làm cơ sở. Trước đây khi hội
nhập quốc tế chưa diễn ra và phát triển mạnh mẽ như hiện nay, luật quốc gia là nguồn
luật duy nhất và cũng đóng vai trò quan trọng nhất. Tuy nhiên kể từ khi hội nhập quốc
tế mang tính chất toàn cầu hóa, nguồn luật không chỉ bao hàm luật quốc gia mà còn
gồm cả luật quốc tế. Những tập quán, thông lệ quốc tế, các hiệp ước, hiệp định quốc
tế song phương và đa phương ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc hình
thành nguồn luật của mỗi quốc gia. Và Việt Nam không nằm ngoài các quốc gia đó,
đặc biệt là lĩnh vực nguồn của pháp luật ngân hàng và vấn đề hội nhập kinh tế, quốc
tế ngày càng được chú trọng và phát triển trong quá trình hội nhập.
1
I. Khái quát chung về Nguồn pháp luật ngân hàng và vấn đề hội nhập quốc tế
1. Khái niệm về nguồn luật
“Nguồn của pháp luật là tất cả các căn cứ được các chủ thể có thẩm quyền sử dụng
làm cơ sở để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp dụng vào việc
giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế”1
Nguồn pháp luật bao gồm: nguồn nội dung và nguồn hình thức. Nguồn nội
dung của pháp luật là xuất xứ, là căn nguyên của pháp luật bởi vì nó được các chủ thể
có thẩm quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành và giải thích pháp luật (đường lối
chính sách, nhu cầu quản lý kinh tế, các tư tưởng, học thuyết…); Nguồn hình thức
của pháp luật được hiểu là phương thức tồn tại của các quy phạm pháp luật trong thực
tế hay là nơi chứa đựng, nơi có thể cung cấp các quy phạm pháp luật, tức là những
căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để giải quyết các vụ việc pháp lý
xảy ra trong thực tế; Ngoài ra còn có nguồn hỗn hợp (các văn bản quy phạm, điều
ước quốc tế, án lệ, phong tục tập quán…)
Pháp luật ngân hàng là một bộ phận trong hệ thống pháp luật, nó được hình
thành bằng các nguồn nội dung và nguồn hình thức của hệ thống pháp luật nói chung.
Nhưng cụ thể hơn nó được hình thành bằng hai nguồn cơ bản đó là: Luật ngân hàng
của quốc gia và Luật quốc tế, trong đó có các tập quán và thông lệ quốc tế; Các hiệp
ước và hiệp định quốc tế song phương và đa phương trong lĩnh vực ngân hàng.
2. Khái quát về pháp luật ngân hàng
* Sự khác biệt và tương đồng trong quan niệm về pháp luật ngân hàng
Trên thế giới hiện nay tồn tại hai hệ luật lớn, chi phối tới sự phát triển của pháp
luật ngân hàng trên thế giới và pháp luật ngân hàng mỗi quốc gia đó là: hệ thống
1
TS. Nguyễn Thị Hồi, Về khái niệm nguồn của pháp luật, Tạp chí Luật học, số 2/2008, tr. 29, 30.
2
Châu Âu lục địa (civil law) và hệ luật Anh – Mỹ (còn gọi là Thông luật, common
law). Giữa chúng có những điểm tương đồng và khác biệt trong quan niệm về pháp
luật ngân hàng, điều này dẫn tới những điểm giống và khác nhau giữa pháp luật ngân
hàng của các nước thuộc hai hệ thống luật này. Về cơ bản, sự quy định thành tố cấu
thành của hai hệ luật này tương tự nhau là: luật thành văn, án lệ, tiền lệ pháp, các học
thuyết pháp luật, lẽ phải tự nhiên. Nhưng về cơ bản giữa hai hệ luật này vẫn có những
quan điểm rất khác nhau về pháp luật ngân hàng.
Trong thông luật: Pháp luật ngân hàng không được coi là một ngành luật mà
được coi là một lĩnh vực pháp luật đặc thù. Pháp luật ngân hàng trong hệ thống thông
luật coi trọng tính thực tế, tức là hợp đồng ngân hàng đó trên thực tế có được các bên
sử dụng là hợp đồng và thực hiện hay không chứ không có yêu cầu cụ thể về mặt hình
thức như pháp luật châu âu lục địa. Như vậy, căn cứ để xác định một hợp đồng vô
hiệu hay không không căn cứ và tính hình thức của hợp đồng đó.
Trong hệ thống pháp luật châu âu lục địa: Pháp luật ngân hàng thuộc về luật tư
nhưng nó cũng điều chỉnh một phần trong luật công giữa ngân hàng Nhà nước và
ngân hàng trung gian mang tính chất quản lý, hành chính. Trong hệ thống pháp luật
châu âu lục địa rất coi trọng tính hình thức của hợp đồng với những điều khoản cơ
bản mà nếu thiếu các điều khoản này thì hợp đồng ngân hàng đó vô hiệu. Đây cũng là
điểm đáng chú ý đối với các chủ thể khi tham gia ký kết hợp đồng với các ngân hàng
theo hệ thống pháp luật châu âu lục địa. Khi ký kết hợp đồng cần xem xét các điều
khoản cụ thể, cơ bản, tránh tình trạng do sơ xuất nhỏ làm ảnh hưởng tới hiệu lực của
hợp đồng và gây ảnh hưởng không tốt tới lợi ích của cả hai bên.
Nhìn chung pháp luật ngân hàng điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong
hoạt động ngân hàng. Đó là những quan hệ có tính rủi ro cao, ít ổn định, thường
xuyên biến động theo sự biến động của kinh tế xã hội. Điều này hoàn toàn dễ hiểu vì
3
các hoạt động ngân hàng gắn liền với tiền tệ, đây là cơ sở quan trọng trong bất cứ lĩnh
vực nào của quốc gia. Các quốc gia với mỗi giai đoạn, thời kỳ khác nhau sẽ có huy
động cũng như hạn chế đối với việc lưu thông tiền tệ, huy động vốn và thực hiện các
nghiệp vụ ngân hàng.2
*Cấu trúc pháp luật ngân hàng
Cấu trúc của pháp luật ngân hàng bao gồm 2 bộ phận cấu thành là: Pháp luật
về ngân hàng trung ương và pháp luật về ngân hàng trung gian.
Pháp luật Ngân hàng trung ương đảm bảo cho ngân hàng có chức năng phát
hành độc quyền tiền,với việc độc quyền phát hành tiền thì quốc gia đó có thể điều
chỉnh được lượng tiền lưu thông để có thể kiểm soát lạm phát và từ đó có thể tăng
giảm lãi suất để tăng lượng cầu hay giảm lượng cầu ứng với mỗi thời điểm của nền
kinh tế; Giám sát hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. VD: Ngân hàng Trung
ương Anh, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam…
Pháp luật ngân hàng trung gian: các ngân hàng này ở mỗi quốc gia được thành
lập dưới nhiều hình thức và tên gọi khác nhau. Nhưng nhìn chung các ngân hàng này
thực hiện các giao dịch rất phong phú như: huy động tiền gửi, hoạt động cấp tín dụng,
mua bán hối phiếu…pháp luật của các ngân hàng này là cơ sở cho các hoạt động tín
dụng giữa ngân hàng tới được tay khách hàng một cách cụ thể.
Giữa pháp luật ngân hàng trung ương và pháp luật ngân hàng trung gian có
mối quan hệ qua lại và là điều kiện tồn tại của nhau. Ngân hàng trung ương quản lý
ngân hàng trung gian, mặt khác ngân hàng trung gian triển khai các kế hoạch của
ngân hàng trung ương một cách cụ thể. Nếu không có ngân hàng Trung ương thì các
ngân hàng trung gian không thể hoạt động một cách thống nhất, hiệu quả, gây tranh
chấp. Và nếu không có ngân hàng trung gian thì các quyết sách của ngân hàng trung
2
TS.Nguyễn Văn Tuyến, Bài giảng chuyên đề 6: Pháp luật Ngân hàng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
4
ương sẽ không được áp dụng và không phát huy được vai trò của ngân hàng đối với
đời sống, kinh tế, xã hội.3
3. Về vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế
Hiện nay nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới có mối liên hệ phụ thuộc
ngày càng chặt chẽ với nhau thì sự liên kết, hội nhập giữa các quốc gia này là điều
hoàn toàn tất yếu. Quá trình đó diễn ra ngày càng mạnh mẽ dưới tác động của xu thế
toàn cầu hoá, khu vực hoá, quốc tế hoá nền kinh tế và sự phân công lao động quốc tế
diễn ra ngày càng sâu. Trong thời đại mới này không thể có một quốc gia nào lại tồn
tại được nếu không có bất cứ một sự liên hệ nào với thế giới bên ngoài và cũng không
có quốc gia nào có nền kinh tế phát triển mà lại không có nhiều sự liên kết hợp tác
với các quốc gia khác
Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế là sự mở cửa nền kinh tế với thế giới bên
ngoài, tự do hóa thương mại, tham gia các cam kết và thực thi các cam kết đó trên
thực tế. Trong quá trình mở cửa, các quốc gia thành viên sẽ đón nhận từ bên ngoài
nhiều yếu tố kích thích phát triển kinh tế trong nước cũng như các thách thức về sự
cạnh tranh khốc liệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng là
quá trình xóa bỏ từng bước, từng phần, thận trọng, có lộ trình của mỗi quốc gia về rào
cản thương mại và đầu tư của nước ngoài, dần tiến tới mở cửa hoàn toàn. Điều này là
vô cùng cần thiết đối với các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt
Nam. Khi năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam còn yếu kém do thành lập
doanh nghiệp quá dễ dàng, chưa có những chính sách kinh tế cụ thể để có khả năng tự
mình đứng vững trên thị trường khi gặp các đối thủ mạnh của quốc tế, các ngân hàng
Việt Nam cần có những chính sách bảo hộ trong thời gian đầu mở cửa. Do đó, lộ trình
3
TS.Nguyễn Văn Tuyến, Bài giảng chuyên đề 6: Pháp luật Ngân hàng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
5
mở cửa là một phần không thể thiếu trong quá trình hội nhập, nhưng lộ trình như thế
nào là phù hợp lại là điều không đơn giản, cần có những suy tính thận trọng của nhà
cầm quyền. Mở từng bước dần tiến tới mở cửa toàn bộ là quá trình để đảm bảo trong
thời gian đó quốc gia phải từng bước phát huy được tối ưu lợi thế của mình như am
hiểu địa phương, đồng thời tiếp cận được công nghệ tiên tiếng, phương pháp quản lý
hiện đại trên thế giới với phương thức cho vay và áp dụng thêm những nghiệp vụ sinh
lời. Điều này đòi hỏi các ngân hàng trong nước phải không ngừng đổi mới để nâng
cao tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Và biểu hiện rất rõ nét trong quá trình hội
nhập trong lĩnh ngân hàng hiện nay đó là tham khảo và phát huy nguồn của pháp luật
ngân hàng …
II. Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng
Trên thế giới tồn tại hai hệ thống pháp luật mang đặc trưng khác biệt là hệ luật
Châu Âu lục địa và hệ luật Anh- Mỹ (còn gọi là hệ thông luật). Xuất phát từ sự khác biệt
của các hệ luật mà ở các nước thuộc hệ luật Châu Âu lục địa, nguồn luật điều chỉnh các
hoạt động ngân hàng là các văn bản chứa các quy phạm pháp luật về ngân hàng. Các
nước thuộc hệ luật Anh- Mỹ ngoài các văn bản quy phạm pháp luật, nguồn Luật ngân
hàng còn có án lệ. Ngoài ra nói đến nguồn luật điều chỉnh các hoạt đông của ngân hàng
của các nước trên thế giới, còn phải kể đến các tập quán và thông lệ quốc tế, các hiệp
ước và hiệp định quốc tế song phương và đa phương trong lĩnh vực tài chính- ngân
hàng.
1. Pháp luật Ngân hàng của quốc gia
Quy phạm pháp luật ngân hàng được sinh ra bởi quá trình lập pháp, lập quy của Nhà
nước. Quy phạm pháp luật ngân hàng của quốc gia được thể hiện trong rất nhiều các văn
bản khác nhau bao gồm các văn bản luật như các đạo luật và các văn bản dưới luật như:
Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hay các Nghị định của Chính phủ…
6
Là hai hệ thống pháp luật trên thế giới, hệ thống pháp luật lục địa Châu Âu và hệ
thống pháp luật Anh- Mỹ có những khác biệt nhất định. Trong khi hệ thống pháp luật
Châu Âu lục địa mà điển hình là các nước như Pháp, Đức, các nước phương Đông kể cả
Nhật Bản đều coi pháp luật thành văn là hình thức pháp luật thông dụng và phổ biến và
không đề cao án lệ. Họ cho rằng Tòa án là cơ quan áp dụng luật để xét xử chứ không
phải bằng hoạt động xét xử tạo ra luật. Tuy nhiên ngày nay, với quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, tiếp thu kinh nghiệm pháp luật của các nước, án lệ cũng đã được quan tâm
phát triển, nhưng pháp luật thành văn, các quy phạm pháp luật vẫn giữ vị trí vô cùng
quan trọng. Còn như đã nói ở trên, ở hệ thống pháp luật Anh- Mỹ chịu ảnh hưởng của hệ
thống pháp luật Anh thừa nhận án lệ là nguồn chính thống. Như vậy thì các phán quyết
đã tuyên của Tòa án cấp trên trong lĩnh vực ngân hàng sẽ có giá trị ràng buộc Tòa án
cấp dưới trong quá trình xét xử các vụ việc tương tự ở hiện tại. Cùng với quá trình đổi
mới, hội nhập thì trong vài thập kỉ gần đây, án lệ không còn là nguồn luật duy nhất mà
luật thành văn đã ngày càng trở thành nguồn luật quan trọng, đặc biệt đối với các lĩnh
vực không có án lệ. Vì vậy, hiện nay, các quy phạm pháp luật thành văn nói chung và
trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng đều là nguồn quan trọng của các nước trên thế giới
kể cả các quốc gia thuộc hai hệ thống pháp luật lớn trên.
Trong lĩnh vực ngân hàng, cũng giống như Luật Ngân hàng của Việt nam, Luật Ngân
hàng của hầu hết các nước trên thế giới cũng bao gồm chủ yếu hai loại quy phạm pháp
luật, đó là các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ quản lý nhà nước về ngân
hàng và các qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tổ chức và kinh doanh ngân
hàng.
Ở Mỹ, một phần lớn các văn bản pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng được thông qua
bởi Quốc hội và các bang, ban hành vào giữa và cuối thế kỷ 19 vẫn có hiệu lực. Những
nội dung chính của luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng chủ yếu được quy định tại
Tuyển tập luật Hoa kỳ - bản chính thức do chính phủ phát hành. Chương 12 của Tuyển
tập luật có tên gọi là “Ngân hàng và các hoạt động ngân hàng” gồm có 22 phần điều
7
chỉnh lĩnh vực hết sức rộng lớn: Giám sát hoạt động tiền tệ, hệ thống dự trữ liên bang,
thuế, các hoạt động của Ngân hàng Mỹ ở nước ngoài, ngân hàng xuất nhập khẩu, cấp tín
dụng cho các trang trại, tín dụng nông nghiệp quốc gia, ngân hàng cấp tín dụng mua
nhà, các tổ chức tiết kiệm, các ngân hàng chuyên biệt và các tổ chức tiền gửi - tiết kiệm.
Trong quá trình tồn tại, bộ luật đã liên tục được hoàn chỉnh và sửa đổi với tên gọi hiện
nay là Tập hợp các quy định và hướng dẫn của Liên bang. Ngoài ra Luật Mỹ còn quy
định giao dịch ngân hàng được hiểu là các hoạt động như : hoạt động kế toán, mua và
bán các hối phiếu đơn giản và hối phiếu chuyển nhượng, các giấy tờ ghi nhận nợ khác,
nhận tiền gửi, mua và bán ngoại tệ, tiền hoặc các vật có giá trị khác, cho vay được bảo
lãnh bởi các động sản.4
Còn pháp luật điều chỉnh hoạt động Ngân hàng ở Pháp thì văn bản quan trọng nhất
điều chỉnh hoạt động của các tổ chức tín dụng là Luật số 84-46 ngày 1/1/1984 “Về các
tổ chức tín dụng và kiểm soát hoạt động của các tổ chức tín dụng”. Pháp lệnh số 85-371
ngày 27/3/1985 về “Một vài thay đổi trong điều chỉnh hoạt động ngân hàng của các tổ
chức tín dụng và kiểm soát hoạt động của các tổ chức tín dụng” . Ở Pháp việc quốc hữu
hoá và tư nhân hoá hệ thống ngân hàng diễn ra không chỉ một lần, vì nhóm các quy
phạm pháp luật điều chỉnh về vấn đề vốn của các ngân hàng phải kể đến “Luật quốc
hữu hoá Ngân hàng Pháp và các ngân hàng lớn, các tổ chức hệ thống ngân hàng tín
dụng” số 45-015 ngày 2 tháng 12 năm 1945, Luật quốc hữu hoá số 82-155 ngày 11
tháng 2 năm 19825… Một trong những yếu tố quan trọng trong hệ thống pháp luật này
là sự kiểm soát chặt chẽ các các hoạt động ngoại hối với các đối tác nước ngoài. Trong
lĩnh vực này phải kể đến Pháp lệnh số 89-938 ngày 29 tháng 12 năm 1989 “Về điều
chỉnh các quan hệ tài chính với nước ngoài”. Ngân hàng được thành lập dưới hình thức
công ty cổ phần, vì vậy hoạt động của ngân hàng cũng chịu sự điều chỉnh của Bộ luật
thương mại năm 1999: Các tổ chức thương mại và các nhóm liên quan đến lợi ích kinh
4
TS.Ngô Hoàng Oanh, Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng trong hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp
chí nghề luật số 1, 2008.
8
tế”. Theo luật số 84-46 ngày 24 tháng 12 năm 1984, chỉ có các tổ chức tín dụng, trong
đó bao gồm các ngân hàng có thể thực hiện các giao dịch ngân hàng. Theo Điều 1 của
luật này định nghĩa các hoạt động ngân hàng bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng,
cung cấp các dịch vụ thanh toán…
Ngoài ra, pháp luật ngân hàng của Pháp còn có
những quy định về các giao dịch ngân hàng, các loại tiền gửi, hình thức huy động tiền
gửi, hình thức cấp tín dụng và các loại hình cho vay khác nhau5…
Việt Nam thuộc dòng họ pháp luật Xã hội chủ nghĩa nên cũng có những đặc điểm
của dòng họ pháp luật này: coi trọng pháp luật thành văn nhưng chưa có truyền thống
áp dụng án lệ. Nhưng trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, án lệ đã được xem xét để
tiến tới áp dụng. Với hai bộ phận cấu thành pháp luật ngân hàng là pháp luật về ngân
hàng Trung ương và ngân hàng địa phương thì ở Việt Nam hiện nay, văn bản pháp luật
điều chỉnh hoạt động ngân hàng gồm có: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều
chỉnh tổ chức và hoạt động của ngân hàng nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín
dụng quy định về việc thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải
thể tổ chức tín dụng; việc thành lập, tổ chức, hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có
hoạt động ngân hàng. Cùng với đó là rất nhiều các văn bản dưới luật điều chỉnh hoạt
động ngân hàng: các thông tư của Ngân hàng nhà nước, các Nghị định của chính phủ có
thể kể đến một số văn bản sau: Thông tư 40/2011/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam quy định việc cấp Giấy phép và tổ chức, hoạt động của ngân hàng thương
mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước
ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. Nghị định
22/2006/NĐ-CP ngày 28/02/2006 về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện
tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam…
5
TS.Ngô Hoàng Oanh, Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng trong hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp
chí nghề luật số 1, 2008.
9
Có thể thấy rằng, các quốc gia trên thế giới đều coi trọng nguồn luật điều chỉnh hoạt
động ngân hàng là quy phạm pháp luật ngân hàng của quốc gia. Vì vậy, quốc gia nào
cũng đều có những đạo luật quan trọng điều chỉnh hoạt động ngân hàng, cùng với đó là
các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành. Các văn bản pháp luật ngân hàng được quy
định cụ thể với giá trị pháp lý cao đã góp phần điều chỉnh tốt các hoạt động, các đối
tượng tham gia vào quan hệ ngân hàng, làm cho hoạt động ngân hàng diễn ra trật tự,
hiệu quả hơn theo đúng các quy định của pháp luật.
2. Pháp luật quốc tế
2.1. Các tập quán và thông lệ quốc tế
Nguồn luật quan trọng thứ hai sau luật quốc gia điều chỉnh hoạt động của Ngân
hàng của các nước trên thế giới là các tập quán và thông lệ quốc tế. Đó là các chuẩn
mực quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng được thừa nhận bởi Thông lệ quốc tế và Công
ước Liên hợp quốc. Một thực tế rõ ràng là tập quán thương mại quốc tế áp dụng trong
các giao dịch thương mại quốc tế (ví dụ trong hoạt động xuất nhập khẩu giữa các
nước) và đi theo nó là các quan hệ thanh toán xuất nhập khẩu với các nước là các hoạt
động hoàn toàn mang tính nghiệp vụ, kỹ thuật chuyên môn và được thế giới chấp
nhận sử dụng trong quan hệ thương mại và thanh toán quốc tế. Đó là:
- Các quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ của ICC- UCP 600
- Quy tắc thống nhất nhờ thu, bản sửa đổi 1995, số 522 của ICC (Uniform Rules for
Collection of Payment , 522, 1995,ICC-URC522,ICC)
- Qui tắc bảo lãnh hợp đồng URCG, có hiệu lực năm 1978, số xuất bản 325
- Bản qui tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu URDG, có hiệu lực từ 4/1992, số
xuất bản 458 của ICC
- Bản qui tắc thông nhất về bảo chứng URCB được thông qua 23/4/1993 và có hiệu
lực từ 1/1/1994, số xuất bản 524 của ICC
10
- Công ước UCILTRAN về bảo lãnh độc lập và tín dụng thư dự phòng của Liên hợp
quốc.
- Ngoài ra còn phải kể đến các thông lệ và chuẩn mực quốc tế trong kế toán, kiểm
toán, quy chế quan hệ bắt buộc giữa các Ngân hàng trung gian với Ngân hàng trung
ương về tái cấp vốn, thị trường mở, thanh toán quốc gia và các chuẩn mực về thanh
tra – giám sát Ngân hàng6
Đây là loại nguồn quan trọng trong việc hình thành nguồn pháp luật ngân hàng của
các quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng. Từ các thông lệ quốc tế, các tập
quán quốc tế Việt Nam có thể tham khảo và áp dụng trong việc ban hành pháp luật và
tiến tới thực thi có hiệu quả trên thực tế.
2.3. Các hiệp ước và hiệp định quốc tế song phương và đa phương trong lĩnh vực
tài chính – ngân hàng
Việt Nam tham gia nhiều hiệp định hợp tác song phương về lĩnh vực ngân hàng đã
được ký kết thành công với Chính phủ, NHTƯ, các tổ chức song phương trong khu
vực Đông Á – Thái Bình Dương, Đông Âu, Bắc Mỹ như Hiệp định khung về kết nối
kinh tế Việt Nam – Singapore trong lĩnh vực ngân hàng, tham gia xây dựng chiến
lược đối tác kinh tế chung Việt Nam – Thái Lan, Hiệp định khung về tăng cường hợp
tác kinh tế Asean Singapore, ngày 28 tháng 01 năm 1992, ký các thỏa thuận hợp tác
trao đổi thông tin trong lĩnh vực thanh tra ngân hàng với các cơ quan thanh tra giám
sát ngân hàng của Australia, Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Hoa Kỳ. Đặc biệt là
Hiệp định thương mại Việt Mỹ và các cam kết của Việt nam khi gia nhập WTO trong
lĩnh vực tài chính ngân hàng. Nội dung của các hiệp định này chủ yếu là các thỏa
thuận hợp tác của các nước trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, các cam kết về việc
hoàn thiện môi trường pháp luật về ngân hàng và lộ trình hiện diện thương mại và
đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
6
TS.Ngô Hoàng Oanh, Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng trong hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp
chí nghề luật số 1, 2008.
11
Bên cạnh đó là các hiệp ước quốc tế trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, các hiệp ước
này ràng buộc các nước thành viên phải đáp ứng các chuẩn mực nhất định trong lĩnh
vực tài chính ngân hàng trong hội nhập kinh tế quốc tế, đó là:
- Hiệp ước tín dụng Quốc tế Basel I năm 1988: Hiệp ước Basel I mang tính chất thỏa
thuận quốc tế và các tiêu chuẩn về vốn đã trở thành chuẩn mực quốc tế về vốn tự có.
Nó quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và quản lý rủi ro tín dụng đối với ngân
hàng, là một trong những căn cứ, tiêu chuẩn để các ngân hàng của các quốc gia trên
thế giới áp dụng quản lý, bảo đảm an toàn trong hoạt động. Thực hiện thỏa ước an
toàn vốn tối thiểu của Basel I đã và đang là một trong những mục tiêu quản lý rủi ro
đối với các tổ chức tín dụng ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên,
Basel I mới chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng chứ chưa đề cập đến những rủi ro
khác như rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất.
- Hiệp ước tín dụng Quốc tế Basel II năm 2004: Là hiệp ước quốc tế về tiêu chuẩn an
toàn vốn, tăng cường quản trị toàn cầu hóa tài chính cũng như việc khai thác tối đa
tiềm năng lợi nhuận và hạn chế rủi ro. Basel II quy định tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu
gắn chặt chẽ với mức độ rủi ro của tài sản ngân hàng, mức độ rủi ro của tài sản có
tính đến nhiều yếu tố như độ tín nhiệm của khách hàng, thời hạn khoản vay, độ tập
trung của các khoản vay vào một nhóm khách hàng nhất định, quá trình xem xét giám
sát của cơ quan quản lý và cuối cùng là các quy tắc thị trường.7
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Ngân hàng nhà nước Việt Nam và các TCTD
Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng cũng như nâng cao năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là năng lực
quản trị rủi ro của các Ngân hàng thương mại tiến dần từng bước đến các thông lệ và
chuẩn mực quốc tế. Theo đó, việc từng bước áp dụng các chuẩn mực của Basel II
7
TS.Ngô Hoàng Oanh, Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng trong hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp
chí nghề luật số 1, 2008.
12
được đặc biệt chú trọng, nhất là sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu thời gian qua.
Về phía cơ quan quản lý, mới đây Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành
quy định mới về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD (Thông tư số
13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010) và đang khẩn trương hoàn thiện để ban
hành quy định mới về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín
dụng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Đây là bước tiến quan trọng trong
việc từng bước áp dụng các chuẩn mực Basel II tại Việt Nam.
Về phía các tổ chức tín dụng Việt Nam, Basel II đã có ảnh hưởng lớn trong
việc nâng cao năng lực quản trị điều hành, nhất là năng lực quản lý rủi ro. Bên cạnh
việc tuân thủ các quy định bắt buộc của Ngân hàng nhà nước, các TCTD cũng đang
rất nỗ lực để hoàn thiện hơn nữa hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng mình cho phù
hợp với điều kiện hoạt động cụ thể của mỗi ngân hàng và từng bước tiếp cận với các
chuẩn mực của Basel II.8
- Hiệp định Giơ ne vơ về Séc và Hối phiếu năm 1930-1931.
III. Đánh giá vai trò của nguồn pháp luật ngân hàng trong thời kỳ hội nhập kinh
tế quốc tế ở Việt Nam
Trong điều kiện hội nhập ở nước ta, thì sự quan trọng của tập quán quốc tế,
thông lệ quốc tế và điều ước, hiệp định quốc tế để điều chỉnh hoạt động ngân hàng
ngày càng thể hiện vai trò đậm nét. Trong lĩnh vực luật quốc tế thì điều ước quốc tế
là nguồn cơ bản, chủ yếu và quan trọng nhất. Còn đối với pháp luật quốc gia, vai trò
của điều ước quốc tế ngày càng quan trọng và có vị thế ngày càng cao hơn, nhất là
trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Điều đó được thể hiện rõ trong các quy định được
nêu trong nhiều VBQPPL hiện hành của nước ta là: “Trong trường hợp điều ước
8
Hội thảo tổng quan về Hiệp ước vốn Basel I và II
13
quốc tế mà CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định
của văn bản này thì tuân theo các quy định của điều ước quốc tế đó”.
Trong điều kiện hiện nay, việc học hỏi, tham khảo pháp luật nước ngoài và quốc tế là
rất quan trọng nhằm tạo sự tương thích và hoàn thiện hơn của pháp luật nước ta so
với thế giới trong hoạt động ngân hàng thời mở cửa.
Ở nước ta cũng như các quốc gia khác, việc xem xét nguồn của pháp luật ngân hàng
cần được xem xét trước và sau khi hội nhập. Bởi vì ở mỗi thời kỳ nguồn của pháp
luật ngân hàng là khác nhau.
Ở Việt Nam, theo hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa nên pháp luật thành văn chiếm
vị trí rất quan trọng để điều chỉnh hoạt động ngân hàng. Trước khi nước ta hội nhập
kinh tế quốc tế, mà điển hình là việc gia nhập WTO, nguồn của pháp luật ngân hàng
là pháp luật quốc gia. Bởi vì lúc này nước ta một mình một sân chơi riêng nên không
chấp nhận pháp luật quốc tế với tính cách là một nguồn luật điều chỉnh hoạt động
ngân hàng. Tóm lại, trước khi hội nhập kinh tế thì pháp luật quốc gia được xem là
nguồn duy nhất của pháp luật ngân hàng.
Tuy nhiên, sau khi nước ta mở cửa hội nhập ngoài pháp luật quốc gia là nguồn của
pháp luật ngân hàng, thì pháp luật quốc tế cũng đóng vai trò ngày càng lớn trong
việc điều chỉnh hoạt động ngân hàng thời kỳ hội nhập. Đó chính là các tập quán và
thông lệ quốc tế được thừa nhận, là các hiệp ước và hiệp định quốc tế song phương và
đa phương trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Pháp luật quốc tế trong điều kiện hội
nhập ở Việt Nam là yếu tố cần được luật hóa trong luật quốc gia khi chúng ta gia
nhập sân chơi chung quốc tế. Điển hình là sau khi ta gia nhập WTO, ta đã buộc phải
sửa đổi hai đạo luật quan trọng là luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín
dụng và các văn bản có liên quan. Ví dụ như tại khoản 3 Điều 3 Luật các TCTD
2010 về Áp dụng Luật các tổ chức tín dụng, điều ước quốc tế, tập quán thương
14
mại quốc tế và các luật có liên quan quy định “3. Trường hợp điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của
Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.”9 Điều đó đã chứng tỏ được
sự chú trọng của pháp luật Việt Nam trong việc đưa pháp luật quốc tế vào trong quá
trình điều chỉnh các quan hệ tài chính ngân hàng. Luật quốc tế trong lĩnh vực ngân
hàng cần được ưu tiên thực hiện, cần sửa đổi pháp luật quốc gia để phù hợp với pháp
luật quốc tế.
Ngoài ra, ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh- Mỹ, thì ngày nay trong điều kiện
hội nhập và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, họ có xu hướng ngày càng xem trọng
pháp luật thành văn là nguồn của luật hơn. Đồng thời ở các nước theo hệ thống pháp
luật châu Âu lục địa, với sự phát triển của các quan hệ xã hội vai trò của án lệ ngày
càng được xem trọng. Để giải thích cho điều này có thể thấy, do mỗi hệ thống pháp
luật đều có tính ưu việt của nó, hơn nữa do sự phát triển của các quan hệ xã hội và sự
hoàn thiện hơn của mỗi nhà nước cũng như do sự hội nhập mở cửa là tất yếu nên các
nước phải tiếp thu những tinh hoa của các quốc gia khác, đồng thời hướng tới việc
xây dựng một hệ thống quy tắc thống nhất tương đối để xây dựng và phát triển hoạt
động ngân hàng.
Hiện nay ở nước ta về mặt nguyên tắc chưa xem án lệ là nguồn của pháp luật nói
chung và pháp luật ngân hàng nói riêng, song nếu theo tinh thần của Nghị quyết số
48/NQ-TƯ thì trong tương lai không xa, án lệ có thể được coi là một trong các nguồn
hình thức của pháp luật nước ta. Vấn đề cần phải nghiên cứu ở nước ta hiện nay là
những bản án loại nào và của toà nào có thể trở thành án lệ? Chủ thể, nguyên tắc,
trình tự, thủ tục thừa nhận nó ra sao? Nếu một bản án được thừa nhận là án lệ thì phần
nào trong bản án sẽ bị bắt buộc phải tuân theo hoặc phải tôn trọng? Đây là những câu
9
Luật các tổ chức tín dụng 2010
15
hỏi mà các nhà chuyên môn, các nhà hoạt động thực tiễn phải nghiên cứu và học tập
các kinh nghiệm quốc tế.
Nói tóm lại, nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng trong thời kỳ hội
nhập là phong phú và đa dạng hơn so với trước đây. Nó tạo điều kiện cho hoạt động
ngân hàng được pháp luật điều chỉnh chặt chẽ, giúp hoạt động ngân hàng nước ta
ngay càng tiến tới các chuẩn mực quốc tế, đòi hỏi pháp luật ngân hàng phải quan tâm
tới tất cả nguồn pháp luật liên quan để điều chỉnh sao cho phù hợp với thông lệ và
điều ước quốc tế. Tuy nhiên hoạt động ngân hàng thời kì hội nhập là rất nhạy cảm nên
việc xem xét và quyết định cái gì là quy phạm pháp luật, là nguồn của luật điều chỉnh
nó cần được cân nhắc kỹ trên cơ sở bản chất nhà nước ta, tình hình kinh tế xã hội và
có tham khảo quốc tế.
16
KẾT LUẬN
Hoạt động ngân hàng là hoạt động quan trọng góp phần phát triển kinh tế của
quốc gia. Bên cạnh việc phát huy tối đa các quy định của pháp luật ngân hàng trong
điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, Việt Nam cần liên tiếp học
hỏi và tiếp thu pháp luật quốc tế để dần hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam.
Đồng thời phải tăng cường vị trí cho pháp luật quốc tế, ưu tiên pháp luật quốc tế
trong quá trình ban hành, thực thi pháp luật ngân hàng nhằm hướng tới mục tiêu quốc
tế hóa pháp luật dich vụ ngân hàng. Phải làm sao để luật quốc tế cùng với luật quốc
gia tạo thành một nguồn luật có tác dụng to lớn, thực tế trong quá trình điều chỉnh
hoạt động ngân hàng ở Việt Nam hiện nay.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn bản pháp luật quốc tế
1.1.Hiệp định GATS
1.2.Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA)
2. Văn bản Luật
2.1. Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
2.2. Luật các tổ chức tín dụng 2010
3. Tạp chí, báo cáo khoa học
3.1. TS. Ngô Hoàng Oanh, Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng trong
hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí nghề luật số 1, 2008.
3.2. TS. Nguyễn Thị Hồi, Về khái niệm nguồn của pháp luật, Tạp chí Luật học, số
2/2008, tr. 29, 30.
3.3. Hội thảo tổng quan về Hiệp ước vốn Basel I và II
4. Tập bài giảng
4.1. TS.Nguyễn Văn Tuyến, Bài giảng chuyên đề 6: Pháp luật Ngân hàng trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế
5. Website
18
5.1. “Một số vấn đề về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng” Nguồn:
19