ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THỊ NGỌC LAN
QUY ĐỊNH VỀ HỢP ĐỒNG BOT, BTO, BT THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VÀ PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI
Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số
: 60 38 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN TRUNG TÍN
Hà nội – 2012
1
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Hoàng Thị Ngọc Lan
2
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa.....................................................................................................1
Lời cam đoan.....................................................................................................2
MỤC LỤC.........................................................................................................3
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT........................................5
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................6
1. Sự cấp thiết của đề tài....................................................................................6
1.1. Lý do ra đời của đề tài................................................................................6
1.2. Tính tích cực của đề tài..............................................................................8
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài....................................................8
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài...................................................................8
3.1 Mục đích nghiên cứu của đề tài...................................................................8
3.2. Nhiệm vụ của đề tài....................................................................................9
4. Phạm vi nghiên cứu.......................................................................................9
5. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................9
6. Điểm mới của luận văn.................................................................................9
7. Ý nghĩa của Luận văn..................................................................................10
Chương 1.........................................................................................................11
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ THEO HỢP ĐỒNG.11
BOT, BTO, BT................................................................................................11
1.1. Khái niệm về Hợp đồng BOT, BTO, BT..................................................11
1.1.1. Khái niệm Hợp đồng BOT....................................................................13
1.1.2. Khái niệm về Hợp đồng BTO...............................................................21
1.1.3. Khái niệm về Hợp đồng BT..................................................................22
1.2. Vai trò, ý nghĩa của đầu tư theo Hợp đồng BOT, BTO, BT đối với sự phát
triển kinh tế xã hội...........................................................................................24
3
1.2.1. Vai trò, ý nghĩa của đầu tư theo Hợp đồng BOT, BTO, BT đối với các
quốc gia...........................................................................................................24
1.2.2. Vai trò, ý nghĩa của đầu tư theo Hợp đồng BOT, BTO, BT đối với Việt
Nam.................................................................................................................27
Chương 2.........................................................................................................34
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT MỘT SỐ
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ HỢP ĐỒNG BOT, BTO, BT..........................34
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về Hợp đồng BOT, BTO, BT.................34
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển các quy định của pháp luật về đầu tư
theo Hợp đồng BOT, BTO, BT.......................................................................34
2.1.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về Hợp đồng BOT, BTO, BT..............38
2.2. Thực trạng pháp luật của một số nước trên thế giới về Hợp đồng BOT,
BTO, BT..........................................................................................................60
2.2.1. Thực trạng pháp luật Philippine về Hợp đồng BOT, BTO, BT.............60
2.2.2. Thực trạng Pháp luật Hàn Quốc về Hợp đồng BOT, BTO, BT.............78
Chương 3.........................................................................................................85
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẦU
TƯ THEO HỢP ĐỒNG BOT, BTO, BT.........................................................85
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật đầu tư theo Hợp đồng BOT, BTO, BT. 85
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo Hợp đồng BOT,
BTO, BT..........................................................................................................90
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật về đầu tư theo Hợp đồng
BOT, BTO, BT................................................................................................90
3.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh hoạt động đầu tư
theo Hợp đồng BOT, BTO, BT.......................................................................95
PHẦN KẾT LUẬN.......................................................................................101
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................104
4
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
BKH&ĐT
BOT
BT
BTO
CNH – HĐH
UBND
Bộ kế hoạch và đầu tư
Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao
Hợp đồng xây dựng- chuyển giao
Hợp đồng xây dựng- chuyển giao- kinh doanh
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
Ủy ban nhân dân
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cấp thiết của đề tài
1.1. Lý do ra đời của đề tài
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi
mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi quan
trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của đất
nước có nhiều khởi sắc, được nhân dân và cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
5
Đảng xác định: Nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược phát triển kinh tế,
xã hội của nước ta hiện nay là: thúc đẩy sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH) để đạt mục tiêu đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 và ngày càng
hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới; tăng cường thu hút vốn của
các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng
ấn tượng cho nền kinh tế. Đặc biệt Nhà nước giành đầu tư thỏa đáng cho xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội để trong một thời gian ngắn khắc phục
được tình trạng thiếu vốn về cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất như hiện nay.
Đây là một định hướng đúng nhưng để thực hiện được chủ trương này cần
một lượng vốn lớn, vốn từ ngân sách Nhà nước không đáp ứng được mà phải
huy động sức mạnh của mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế đặc biệt
là nguồn vốn nước ngoài. Đồng thời muốn thu hút hơn nữa dòng vốn đầu tư
vào nước ta thì trước hết phải có một cơ sở hạ tầng hiện đại, đạt tiêu chuẩn,
đáp ứng được yêu cầu khai thác và sử dụng vốn của nhà đầu tư. Có thể nói, cơ
sở hạ tầng có vai trò làm nền móng cho các hoạt động đầu tư nhất là trong các
ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ sử dụng công nghệ hiện đại. Có cơ sở hạ
tầng tốt không chỉ đáp ứng được các yêu cầu kinh tế, giảm giá thành sản xuất
mà còn hạn chế các rủi ro trong đầu tư. Chính vì vậy, việc đầu tư các công
trình hạ tầng được xem là hoạt động quan trọng đối với phát triển kinh tế đất
nước nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà thực trạng kết cấu hạ tầng chưa
đáp ứng được nhiệm vụ "đi trước một bước” cho phát triển kinh tế, còn nhiều
lạc hậu, yếu kém, thêm vào đó nguồn vốn Nhà nước để phục vụ cho yêu cầu
này còn hạn chế thì việc huy động vốn ngoài Ngân sách là rất cần thiết.
Tuy nhiên, do hệ thống pháp luật về đầu tư nói chung và về đầu tư
trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở nói riêng ở nước ta còn chưa nhất quán, thiếu ổn
định và còn có sự phân biệt giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài khi
6
đầu tư vào lĩnh vực này. Đặc biệt là những quy định của pháp luật Việt Nam
về Hợp đồng BOT, BTO, BT hiện nay còn nhiều hạn chế và bất cập. Điều đó
làm hạn chế tính hấp dẫn, cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam. Trong
khi nhiều nước trên thế giới họ đã xây dựng cho mình một hệ thống pháp lý
trong lĩnh vực này một cách thống nhất và khoa học thì ở nước ta hiện nay
vấn đề này còn nhiều điểm bất cập và chưa đồng bộ hay chỉ dừng lại ở tính
chất khung hoặc mang tính nguyên tắc chung chung, chưa chi tiết, cụ thể.
Để đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể trong quan hệ hợp đồng
trên việc hoàn thiện tư pháp quốc tế Việt Nam và các ngành liên quan là cần
thiết.
Ngày nay, trong xu hướng toàn cầu hóa cũng như do nhiều nguyên
nhân lịch sử khác nhau, các vụ việc liên quan đến Hợp đồng BOT, BTO, BT
trong lĩnh vực đầu tư ngày càng đa dạng và phong phú. Việc thực hiện các
hợp đồng này ngày càng gặp nhiều khó khăn và phức tạp bởi yếu tố nước
ngoài trong quan hệ hợp đồng.
Xây dựng một một cơ chế pháp luật hoàn thiện về lĩnh vực này có tầm
quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong
hợp đồng, đồng thời góp phần thúc đầy quan hệ đầu tư phát triển, tạo điều
kiện trong việc hợp tác quốc gia [42].
Trước thực trạng đó, việc nghiên cứu, phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và
thực tiễn những quy định của pháp luật Việt Nam về những quy định của pháp
luật trong Hợp đồng BOT, BTO, BT là vô cùng cần thiết.
1.2. Tính tích cực của đề tài
Mong muốn được nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn những quy định của
pháp luật Việt Nam về trong Hợp đồng BOT, BTO, BT.
Trên cơ sơ đó tìm hiểu, so sánh pháp luật Việt Nam và một số nước trên
thế giới để tìm ra những ưu điểm, những bất cập qua đó đưa ra được những
7
quan điểm, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa những quy định của pháp luật
Việt Nam về Hợp đồng BOT, BTO, BT.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong khoa học pháp lý nước ta, từ trước đến nay chưa có một công
trình nghiên cứu chuyên sâu về Hợp đồng BOT, BTO, BT theo pháp luật Việt
Nam và pháp luật nước ngoài. Trong giáo trình giảng dạy luật học tại cơ sở
đào tạo luật học ở nước ta những năm qua (Giáo trình tư pháp Quốc tế, Giáo
trình Luật Đầu tư….) cũng chỉ mới đề cập một cách cơ bản những quy định
của pháp luật về hợp đồng này, chưa đi sâu vào phân tích, so sánh một cách
cụ thể về pháp luật Việt Nam với pháp luật nước ngoài, trên cơ sở đó chỉ ra
được những điểm bất cập trong những quy định của pháp luật Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1 Mục đích nghiên cứu của đề tài
Tìm hiểu các vấn đề pháp lý về Hợp đồng BOT, BTO, BT. Trên cơ sở
lý luận để nghiên cứu các quy định của luật thực định về Hợp đồng BOT,
BTO, BT và pháp luật nước ngoài
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống quy phạm Pháp luật về
Hợp đồng BOT, BTO, BT.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Nghiên cứu, làm rõ các vấn đề pháp lý về Hợp đồng BOT, BTO, BT.
Tìm hiểu đầy đủ một cách có hệ thống quy định của pháp luật Việt
Nam về Hợp đồng BOT, BTO, BT cũng như quy định của một số nước trên
thế giới, qua đó thấy được điểm giống và khác nhau giữa quy định của Pháp
luật Việt Nam và pháp luật một số nước trên thế giới. Từ đó đưa ra cơ sở về
yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật về Hợp đồng BOT, BTO, BT.
8
4. Phạm vi nghiên cứu
“ Quy định về Hợp đồng BOT, BTO, BT theo pháp luật Việt Nam và
pháp luật nước ngoài” là một đề tài nghiên cứu về những quy định của pháp
luật Việt Nam về những quy định của pháp luật về Hợp đồng BOT, BTO, BT
trong lĩnh vực đầu tư tại Việt Nam và pháp luật nước ngoài về lĩnh vực này.
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, với khuôn khổ của Luận
văn thạc sỹ luật học, tác giả chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu về quy định
của pháp luật Việt Nam về Hợp đồng BOT, BTO, BT và pháp luật một số
nước trên thế giới như pháp luật của Philipine, pháp luật Hàn Quốc về vấn đề
này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác
-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách đổi mới
của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế, các Đạo luật, Điều ước
quốc tế mà Việt Nam tham gia, ký kết. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các
phương pháp khác như: phương pháp phân tích, chứng minh, tổng hợp, so
sánh…
6. Điểm mới của luận văn.
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên đi sâu vào phân tích một
cách toàn diện, đầy đủ có hệ thống những quy định của pháp luật Việt Nam và
so sánh một cách chi tiết với những quy định của pháp luật một số nước trên
thế giới
7. Ý nghĩa của Luận văn
Hoàn thành luận văn này, tôi hi vọng những kiến thức khoa học trong
luận văn sẽ là tài liệu phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa
học tại các cơ sở đào tạo Luật ở Việt Nam, đặc biệt đối với chuyên nghành tư
pháp quốc tế.
9
Nội dung luận văn sẽ có ý nghĩa thiết thực, bổ ích, cần thiết cho mọi cá
nhân khi tìm hiểu những quy định của Pháp luật Việt Nam và Pháp luật một
số nước trên thế giới.
Chúng tôi hi vọng và mong rằng, những kiến nghị khoa học trong luận
văn sẽ được sử dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật ở Việt
Nam đặc biệt là trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế.
Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo,
Danh mục từ viết tắt, Mục lục, Luận văn được chia làm 03 chương cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề pháp lý cơ bản về đầu tư theo Hợp đồng BOT,
BTO, BT.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước trên thế
giới về Hợp đồng BOT, BTO, BT.
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về đầu tư theo
Hợp đồng BOT, BTO, BT.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ THEO HỢP ĐỒNG
BOT, BTO, BT
1.1. Khái niệm về Hợp đồng BOT, BTO, BT
Khái niệm “đầu tư” theo Từ điển Tiếng Việt 2008 là việc “bỏ nhân lực,
vật lực, tài lực vào một công việc nào đó trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế,
xã hội”. Trong khoa học kinh tế, đầu tư được quan niệm là hoạt động qua sử
10
dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế, xã hội những kết
quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Dưới góc độ pháp lý, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các hình
thức và cách thức do pháp luật quy định nhằm mục đích lợi nhuận hoặc lợi
ích kinh tế, xã hội khác. Hoạt động đầu tư có thể mang tính chất kinh doanh
hoặc phi thương mại. Trong khoa học pháp lý và trong thực tiễn xây dựng
chính sách pháp luật về đầu tư, hoạt động đầu tư chủ yếu được đề cập đến là
hoạt động đầu tư kinh doanh với bản chất là “sự chi phí của cải vật nhằm mục
đích làm tăng giá trị tài sản hay tiềm kiếm lợi nhuận” [51, p.825].
Luật đầu tư chung 2005 đã phân biệt và đưa định nghĩa về đầu tư và
hoạt động đầu tư, theo đó “đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài
sản hữu hình hoặc vô hình đề hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu
tư” (Khoản 1, Điều 3) và “hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong
quá trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự
án đầu tư” (Khoản 7, Điều 3). Hoạt động đầu tư sẽ tiến hành dưới các hình
thức đầu tư nhất định theo quy định của pháp luật và tùy thuộc vào điều kiện,
khả năng nhu cầu của mỗi chủ thể đầu tư. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, các hình thức đầu tư kinh doanh ngày càng phong phú, đa dạng; mỗi
hình thức đầu tư lại có những đặc điểm riêng nhất định về cách thức đầu tư
vốn, tính chất liên kết và phân chia kết quả kinh doanh giữa các nhà đầu tư.
Luật Đầu tư 2005 phân chia các hình thức đầu tư thành hai nhóm chính để
phù hợp với nhu cầu và điều kiện của các nhà đầu tư là: đầu tư trực tiếp và
đầu tư gián tiếp. Theo đó, Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà ở đó nhà
đầu tư bỏ vốn, nắm quyền quản lý và sử dụng vốn. Luật Đầu tư 2005 quy định
các hình thức đầu tư trực tiếp gồm:
11
* Đầu tư vào tổ chức kinh tế (thành lập hoặc góp vốn): là việc nhà đầu tư bỏ
vốn thành lập mới các cơ sở kinh doanh hoặc góp vốn vào vốn điều lệ của
đơn vị kinh doanh đang hoạt động, bao gồm các hình thức:
- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư.
- Thành lập, góp vốn vào tổ chức kinh tế có sự hợp tác giữa nhiều nhà đầu tư.
* Đầu tư theo hợp đồng: là việc bỏ vốn để kinh doanh được tiến hành trên cơ
sở hợp đồng được giao kết giữa các nhà đầu tư hoặc giữa nhà đầu tư với Nhà
nước (thông qua các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền), bao gồm các hình
thức sau:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC).
- Đầu tư theo hợp hình thức hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao
(BOT), hợp đồng xây dựng- chuyển giao- kinh doanh (BTO) và hợp đồng xây
dựng- chuyển giao (BT).
* Đầu tư phát triển kinh doanh: là hình thức đầu tư theo đó nhà đầu tư bỏ vốn
để mở rộng quy mô hoặc/và nâng cao năng lực hoạt động của cơ sở kinh
doanh như: mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh doanh (thành
lập chi nhánh, văn phòng đại diện, các đơn vị trực thuộc…), đổi mới công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm…
* Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp, chi nhánh doanh
nghiệp.
Các hình thức đầu tư gián tiếp là việc nhà đầu tư bỏ vốn nhưng không
trực tiếp tham gia vào quản lý, điều hành quá trình thực hiện và sử dụng
nguồn lực đầu tư, bao gồm các hình thức: mua chứng khoán (cổ phần, cố
phiếu, trái phiếu…); đầu tư thông qua quỹ đầu tư chứng khoán, ngân hàng…
Theo quy định của pháp luật hiện hành trong phạm vi nghiên cứu của
đề tài, nội dung luận văn nghiên cứu về các hình thức đầu tư theo các Hợp
đồng BOT, BTO, BT (sau đây gọi chung là hợp đồng dự án) trong lĩnh vực
12
xây dựng cơ sở hạ tầng. Các hình thức BOT, BTO, BT có ý nghĩa quan trọng
trong việc thu hút vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Thay vì phải đầu tư vốn để
xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng này, Nhà nước đã áp dụng
những chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư để có được hệ thống cơ sở hạ tầng
thông qua việc nhận chuyển giao quyền sở hữu các công trình bằng những
phương thức chuyển giao khác nhau từ phía nhà đầu tư.
1.1.1. Khái niệm Hợp đồng BOT
Theo quy định tại Khoản 17, Điều 3 Luật Đầu tư thì khái niệm Hợp
đồng BOT được định nghĩa như sau: Hợp đồng BOT là hình thức đầu tư được
ký giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và nhầ đầu tư để xây dựng, kinh
doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định; hết thời hạn
Nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt
Nam.
Hợp đồng BOT có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Về cơ sở pháp lý: Hoạt động đầu tư hay việc đầu tư vốn đế kinh doanh
được tiến hành trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa nhà đầu tư với Nhà nước
(thông qua các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền). Nhà đầu tư trực tiếp tiến
hành hoạt động đầu tư kinh doanh với tư cách pháp lý của mình phù hợp với
nội dung thỏa thuận trong hợp đồng. Khi đó, nhà đầu tư ngoài việc phải tuân
thủ Luật Đầu tư và Nghị định 108 trực tiếp hướng dẫn thi hành thì việc giao
kết, thực hiện hợp đồng còn phải phù hợp với các quy định về hợp đồng trong
kinh doanh, thương mại quy định tại Bộ Luật Dân Sự và Luật Thương Mại
2005.
Về chủ thể ký kết hợp đồng: Chủ thể tham gia đàm phán và ký kết
hợp đồng dự án bao gồm một bên là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của
Việt Nam và một bên là nhà đầu tư.
13
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký hợp đồng dự án (sau đây gọi
chung là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền) là các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan trực thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi là các Bộ, ngành UBND cấp tỉnh).
Nhà đầu tư là chủ thể của hợp đồng dự án bao gồm các tổ chức cá nhân
đầu tư vốn thực hiện dự án. Pháp luật hiện hành không phân biệt nhà đầu tư là
tổ chức hay cá nhân, là nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài như trong các
văn bản luật trước đây. Những đối tượng này đều có thể tham gia đấu thầu dự
án và nếu trúng thầu sẽ trở thành một bên chủ thể của hợp đồng, sẽ tham gia
đàm phán, ký kết hợp đồng với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Thêm vào
đó, nhà đầu tư khi thực hiện dự án đều phải tính đến các yếu tố lợi nhuận. Vấn
đề này, ngay khi tham gia đấu thầu dự án họ đã phải phân tích hiệu quả của
hoạt động đầu tư kinh doanh thông qua các yếu tố về vốn, các ưu đãi và các
hỗ trợ đầu tư ... Thuận lợi về những yếu tố này cùng với những chính sách
bảo đảm, các cam kết đầu tư từ nước sẽ tạo ra hiệu quả đầu tư- lợi ích kinh tế
cho Nhà nước.
Dưới góc độ tư pháp quốc tế, trong trường hợp nhà đầu tư nước ngoài
tham gia với tư cách là một bên chủ thể của hợp đồng dự án thì hợp đồng dự
án là hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Chính vì vậy ngoài cơ sở pháp lý chung
được quy định trong Luật đầu tư và các văn bản pháp lý liên quan thì hợp
đồng dự án có yếu tố nước ngoài còn phải tuân theo những quy định của phần
bảy Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài về nội dung, hình
thức…
Nét đặc thù của hợp đồng dự án chính là sự tham gia của Nhà nước
thông qua cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của mình với tư hai tư cách vừa
là cơ quan công quyền, vừa là một chủ thể kinh tế có địa vị pháp lý bình đẳng
như nhà đầu tư.
14
Trong quan hệ Hợp đồng BOT, tính chất công quyền của chủ thể Nhà
nước được thể hiện ở chỗ thông qua việc ký kết các hợp đồng dự án, Nhà
nước có thêm công cụ giúp thực hiện các chức năng đảm bảo dịch vụ công
cộng của mình. Đối tượng của Hợp đồng BOT là các công trình cơ sở hạ tầng
công cộng vốn dĩ do Nhà nước phải đảm nhận, tham gia và thực hiện nhằm
đạt được những mục tiêu kinh tế, xã hội- một chức năng quản lý Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh yếu tố công, Hợp đồng BOT cũng như những hợp
đồng thông thường khác nội dung của hợp đồng còn là thỏa thuận giữa các
bên về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Nhà đầu tư tham gia Hợp đồng BOT
không nhằm mục đích nào khác ngoài hoạt động kinh doanh, tìm kiếm lợi
nhuận. Hợp đồng BOT cũng là sự thể hiện ý chí tự do, tự nguyện của nhà đầu
tư. Chính hạt nhân kinh tế này đã quyết định và chi phối yếu tố của Hợp đồng
BOT, xác định tính chất bình đẳng về địa lý pháp lý của các chủ thể hợp đồng
dự án [21, tr.330-364].
Từ những phân tích trên về tính đặc thù của Hợp đồng BOT đã đặt ra
yêu cầu cần giải quyết một cách hợp lý các yếu tố “công” và “tư” trong dự án
BOT. Yếu tố “tư” ở đây được xác định là yếu tố thương mại trong hợp đồng
BOT, hay nói cách khác là mục đích kinh doanh cũng như sự tham gia của
khu vực tư nhân trong hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng. Yếu tố “công” được
xác định là vai trò, địa vị pháp lý khi có sự tham gia của Nhà nước trong các
quy định của Hợp đồng BOT. BOT thực chất là một phần cơ bản của hình
thức hợp tác Nhà nước – tư nhân (PPP) đã rất phát triển trên thế giới hiện nay.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong Hợp đồng BOT được thực hiện
bởi khu vực tư nhân nên khi nói về hợp đồng này người ta thường nghĩ về yếu
tố “tư” nhiều hơn là yếu tố “công”. Trên thực tế cho thấy vai trò điều tiết, chỉ
đạo, hỗ trợ của Nhà nước là không thể thiếu, đôi khi quyết định sự thành công
hay thất bại của việc duy trì Hợp đồng BOT nhưng khi tham gia ký kết hợp
15
đồng dự án theo hình thức BOT, BTO, BT Nhà nước Việt Nam phải khước từ
quyền miễn trừ tư pháp. Mặc dù trong Tư pháp quốc tế (TPQT) phần lớn các
quốc gia đều thừa nhận tư cách chủ thể đặc biệt của quốc gia khi tham gia vào
mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Khi tham gia vào quan hệ TPQT,
quốc gia được hưởng các quyền miễn trừ trong đó quan trọng nhất là quyền
miễn trừ tư pháp và miễn trừ đối với tài sản của quốc gia, gọi chung là quyền
miễn trừ của quốc gia. Quyền miễn trừ của quốc gia trong lĩnh vực quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài được ghi nhận rải rác trong các điều ước quốc tế,
điển hình nhất là Công ước Brussels về thống nhất các quy định về miễn trừ
tàu thuyền Nhà nước ngày 14/4/1926, Công ước Viên năm 1961 về quan hệ
ngoại giao, Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự,… Đặc biệt, các nội dung
này được quy định một cách cụ thể và tập trung tại Công ước của Liên hiệp
quốc (LHQ) về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản của quốc gia. Các
quyền này cũng được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam và pháp luật của
nhiều quốc gia. Theo Nghị định số 60/NĐ- CP ngày 6 tháng 9 năm 1997 ghi
nhận Nhà nước- với tư cách là một chủ thể tham gia các giao dịch dân sự
không được hưởng quyền miễn trừ. Trong điều kiện giao lưu kinh tế thương
mại hiện nay cũng như cùng với sự phát triển của TPQT hiện đại, Việt Nam
đã chấp nhận thuyết miễn trừ theo chức năng khi Nhà nước tham gia các quan
hệ dân sự, kinh tế có tính chất thương mại. Quy định này nhằm đảm bảo sự
bình đẳng về địa vị pháp lý của chủ thể khi tham gia ký kết hợp đồng dự án.
Tuy nhiên pháp luật Việt Nam cần có quy định về những trường hợp cụ thể
hơn nữa về vấn đề này.
Về đối tượng của hợp đồng: Đối tượng của hình thức đầu tư theo Hợp
đồng BOT là các công trình kết cấu hạ tầng. Pháp luật hiện hành quy định:
các dự án trong lĩnh vực này có thể là xây dựng, vận hành công trình kết cấu
hạ tầng mới hoặc mở rộng, cải tạo, hiện đại hóa vận hành, quản lý các công
16
trình hiện có được Chính phủ khuyến khích thực hiện bao gồm: đường quốc
lộ, đường liên tỉnh, liên huyện, cầu, hầm và các công trình, tiện ích có liên
quan; đường sắt, đường xe điện; sân bay, cảng biển, cảng sông, bến phà; nhà
máy cung cấp nước, điện, hệ thống xử lý nước thải, chất thải, các công trình
liên quan đến tải điện...
Việc quy định các Danh mục dự án này xuất phát trong lĩnh vực đầu tư
và việc xây dựng công trình nào phải có quy hoạch từ trước tức là phải nằm
trong danh mục dự án đầu tư đã được Chính phủ phê duyệt. Trên thực tế, để
thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn vào các dự án Quốc gia kêu gọi
đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 – 2010 kèm theo quyết định số 1290/QĐTTg năm 2007 trong đó xác định danh mục các dự án Quốc gia được Quốc
hội phê chuẩn. Điều này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc quy định các ưu đãi, hỗ
trợ cũng như các chính sách của Nhà nước ta giành cho các nhà đầu tư nước
ngoài khi đầu tư vào các dự án BOT nằm trong danh mục.
Về hình thức của hợp đồng: Hình thức của hợp đồng theo quy định
của Bộ luật dân sự và các văn bản liên quan, hình thức của hợp đồng dự án
được lập thành văn bản. Trong trường hợp nhà đầu tư nước ngoài tham gia
với tư cách là một bên chủ thể của hợp đồng dự án thì theo khoản 2, Điều 770
của Bộ luật dân sự 2005 có quy định: hình thức của hợp đồng liên quan đến
việc xây dựng hoặc chuyển giao quyền sở hữu công trình, nhà cửa và các bất
động sản khác trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo pháp luật Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Do vậy, hợp đồng dự án bắt buộc phải lập thành văn
bản theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Nội dung của Hợp đồng BOT: Bất kỳ hợp đồng nào cũng là sự thỏa
thuận về quyền và nghĩa vụ mà mỗi bên phải thực hiện trong hợp đồng vì
quyền lợi của bên kia. Trong Hợp đồng BOT, bao gồm sự thỏa thuận quyền
và nghĩa vụ của nhà đầu tư và Nhà nước liên quan đến việc xây dựng, kinh
17
doanh và chuyển giao công trình cho Nhà nước Việt Nam. Nhà đầu tư sẽ bỏ
vốn để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn cụ
thể đã thỏa thuận trong hợp đồng dự án, khi hết thời hạn, công trình này được
chuyển giao không bồi hoàn cho Chính phủ Việt Nam. Về phía nhà đầu tư,
sau khi được cấp Giấy chứng nhận đầu tư và ký kết hợp đồng dự án thì có các
quyền và nghĩa vụ cơ bản như: quyền thực hiện dự án theo hợp đồng, quyền
quản lý kinh doanh công trình, quyền được hưởng các ưu đãi, đảm bảo đầu tư
song song với các nghĩa vụ vận hành công trình cung ứng sản phẩm dịch vụ
và chuyển giao cho Nhà nước. Theo đó, Nhà nước với tư cách là một bên chủ
thể của hợp đồng dự án cũng phải thực hiện cam kết với nhà đầu tư và tôn
trọng lợi ích của họ. Nội dung thỏa thuận của hợp đồng phải tuân theo pháp
luật Việt Nam ngay cả khi một bên của hợp đồng là nhà đầu tư nước ngoài.
Vì theo quy định tại Điều 769 Bộ luật dân sự thì: quyền và nghĩa vụ của các
bên theo hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp
đồng, nếu không có thỏa thuận khác. Tuy nhiên, đây là hợp đồng dự án, xây
dựng cơ sở hạ tầng tại Việt Nam và thường liên quan đến bất động sản của
Việt Nam nên phải tuân theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vấn đề này pháp luật Việt Nam quy định rất cụ thể trong Bộ luật dân sự
Về phương thức thực hiện Hợp đồng BOT: Sau khi ký kết hợp đồng
nhà đầu tư bỏ vốn để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng mới hay cải tạo,
nâng cấp các công trình hiện có. Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư này,
nhà đầu tư phải thành lập Doanh nghiệp BOT (hay Doanh nghiệp dự án) theo
quy định của pháp luật để tổ chức quản lý, kinh doanh dự án. Doanh nghiệp
này có thể trực tiếp quản lý, kinh doanh công trình dự án hoặc thuê tổ chức
quản lý với điều kiện doanh nghiệp chịu toàn bộ trách nhiệm. Đây cũng là nét
khác biệt so với hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC).
Sự khác biệt này xuất phát từ lĩnh vực đầu tư và thời hạn đầu tư của Hợp đồng
18
BOT thường nhiều hơn so với hợp đồng BCC cũng như tính chất của hoạt
động đầu tư theo hợp đồng đó. Với việc thành lập Doanh nghiệp dự án giúp
nâng cao trách nhiệm của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng đảm bảo
cho dự án đầu tư sẽ mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội nhất định.
Về thời điểm chuyển giao quyền sở hữu công trình gắn liền với
quyền quản lý, vận hành, khai thác của nhà đầu tư cho Nhà nước và
phương thức thanh toán của Nhà nước cho nhà đầu tư.
Đảm bảo thực hiện đầy đủ những cam kết, thoả thuận trong hợp đồng
dự án khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư tiến hành quản lý và kinh
doanh công trình này trong thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có
được lợi nhuận hợp lý. Hết thời hạn kinh doanh theo thỏa thuận, nhà đầu tư
chuyển giao không bồi hoàn công trình cho Nhà nước. Điều này đã tạo niềm
tin cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư vốn xây dựng công trình hạ tầng ở Việt
Nam. Bởi lẽ, đây không chỉ là hình thức, mô hình đầu tư phổ biến ở Việt Nam
mà còn là hình thức đầu tư rất được ưa chuộng và được ghi nhân trong pháp
luật đầu tư ở hầu hết các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, trong Báo cáo tổng
kết của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (BKH&ĐT) về tình hình thực hiện các Nghị
định của Chính phủ về đầu tư theo hình thức Hợp đồng BOT, BTO, BT (theo
Tờ trình số 3654/Ttr-BKHĐT ngày 25/5/2006 về việc ban hành Nghị định đầu
tư theo Hợp đồng BOT, BTO, BT (sau đây gọi tắt là Báo cáo tổng kết của
BKH&ĐT) sau gần 7 năm thực hiện hoạt động đầu tư theo hình thức Hợp
đồng BOT quy định tại Nghị định số 62/1998/NĐ-CP ngày 15/8/1998 (áp
dụng cho đầu tư nước ngoài) đến năm 2006 cả nước có 60 dự án đầu tư vào
lĩnh vực cơ sở hạ tầng nhưng chủ yếu là dự án đầu tư BOT. Và dự án đầu tư
BOT đầu tiên được cấp vào tháng 3 năm 1995 là hợp đồng triển khai nhà máy
nước Bình An được ký kết giữa UBND Thành phố Hồ Chí Minh và tập đoàn
Emas Utilities Sadec Malaisia với công suất 100000m 3/ngày. Tập đoàn này sẽ
19
đầu tư 100% vốn (30 triệu USD) sau 25 hoạt động toàn bộ nhà máy sẽ chuyển
giao cho Việt Nam với giá tượng trưng là 1 USD [32, tr.43-45]
Để huy động các nguồn vốn khác nhau, ngoài ngân sách Nhà nước đầu
tư các dự án cơ sở hạ tầng, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số
1290/QĐ- TTg ngày 26/9/2007 về việc ban hành danh mục dự án quốc gia
kêu gọi đầu tư nước ngoài thời kỳ 2006- 2010; quyết định số 412/QĐ- TTg
ngày 11/4/2007 phê duyệt danh mục đầu tư của một số dự án kết cấu hạ tầng
giao thông quan trọng, thiết yếu đến năm 2020. Bộ Giao thông vận tải cũng
ban hành quyết định số 2667/QĐ – BGTVT ngày 30/8/2007 phê duyệt danh
mục dự án mời gọi đầu tư theo hình thức BOT, BT. Các địa phương cũng chủ
động ban hành danh mục dự án kêu gọi đầu tư theo hình thức BOT, BT sau
khi tham vấn ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Hiện nay, cả nước có khoảng
80 dự án BOT và một số dạng tương tự khác với tổng vốn đầu tư khoảng
90.000 tỷ đồng (trong đó ngành giao thông chiếm khoảng 70% số lượng dự án
và 95% tổng vốn đầu tư toàn bộ).
Thẩm quyền xét xử: Khi tham gia ký kết hợp đồng dự án Nhà nước
Việt Nam từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp nên khi xảy ra vi phạm Nhà nước vẫn
phải chịu sự xét xử của bất kỳ một cơ quan tài phán nào theo quy định của
pháp luật. Trong trường hợp nhà đầu tư nước ngoài tham gia với tư cách là
một chủ thể của hợp đồng dự án thì theo quy định tại Điều 411 Bộ luật tố tụng
dân sự thì những vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài liên quan đến quyền đối
với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam thì thuộc thẩm quyền xét
xử riêng biệt của Tòa án Việt Nam. Tuy nhiên, trong hợp đồng dự án vi phạm
xảy ra rất đa dạng, không chỉ liên quan đến quyền đối với tài sản… chính vì
vậy pháp luật Việt Nam nên chăng cần quy định rõ vấn đề này. Đặc biệt khi
Nhà nước đã từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp thì thẩm quyền tài phán nên quy
định do các bên lựa chọn có thể là Tòa án hoặc Trọng tài… sao cho việc áp
20
dụng pháp luật không được trái với quy định và những nguyên tắc cở bản của
pháp luật Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm về Hợp đồng BTO
Theo Khoản 18, Điều 3 Luật đầu tư năm 2005, Hợp đồng BTO là hình
thức đầu tư được ký giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để
xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong nhà đầu tư
chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính
phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn
nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
Hợp đồng BTO có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Vì đều là hợp đồng dự án, nên Hợp đồng BTO có các đặc điểm về cơ
sở pháp lý, về chủ thể ký kết và đối tượng giống Hợp đồng BOT. Điểm khác
biệt giữa hai hợp đồng này dựa trên dấu hiệu về nội dung của hợp đồng (thỏa
thuận cụ thể về những quyền, nghĩa vụ của các bên liên quan đến việc thực
hiện cả ba hành vi xây dựng, kinh doanh, chuyển giao như trong Hợp đồng
BOT nhưng ở Hợp đồng BTO thứ tự thực hiện các hành vi này và các thỏa
thuận cụ thể của mỗi bên để thực hiện hợp đồng dự án lại có một số điểm
khác nhau). Cụ thể là: ở hình thức đầu tư này, các hành vi mà nhà đầu tư lần
lượt phải thực hiện sẽ là xây dựng, chuyển giao công trình cho Nhà nước. Sau
đó nhà đầu tư được Nhà nước dành cho quyền kinh doanh chính công trình đó
một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Liên
quan đến thời điểm chuyển giao công trình cho Nhà nước thì về phía nhà đầu
tư sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư phải chuyển giao quyền sở
hữu công trình này cho Nhà nước chứ không được quyền kinh doanh ngay
như trong Hợp đồng BOT. Trên thế giới hình thức BTO ra đời vào năm 1987
do 3 nước Úc, Anh và Mỹ ký kết hợp đồng giúp Thổ Nhĩ Kỳ xây dựng nhà
máy điện nguyên tử nhằm giải quyết vấn đề năng lượng, thúc đẩy nhanh quá
21
trình phát triển kinh tế của nước này [33, tr.43-45]. Tuy nhiên, ở Việt Nam mô
hình đầu tư này thường được ít các nhà đầu tư lựa chọn để thực hiện dự án
đầu tư và cam kết thực hiện hợp đồng từ trước chưa đủ mạnh mà trong thực
tiễn hoạt động đầu tư ở Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại rất ít nhà đầu tư
lựa chọn phương án đầu tư theo loại Hợp đồng BTO. Có lẽ chính những hạn
chế và không minh bạch trong các quy định của pháp luật nên đã phần nào
khiến nhà đầu tư lo ngại khi bỏ vốn đầu tư để thực hiện dự án đầu tư công
trình kết cấu hạ tầng theo mô hình này, từ đó làm giảm hiệu quả của việc thu
hút vốn đầu tư tư nhân.
1.1.3. Khái niệm về Hợp đồng BT
Hợp đồng BT là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi
xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt
Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi
vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận trong
hợp đồng BT (Khoản 19, Điều 3, Luật Đầu tư 2005).
Hợp đồng BT có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Vì hoạt động đầu tư được tiến hành trên cơ sở pháp lý là hợp đồng
được ký kết giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư và có
tính chất là hợp đồng dự án nên hợp đồng BT có đặc điểm giống với Hợp
đồng BOT, BTO về chủ thể giao kết, về đối tượng. Tuy nhiên, nếu như trong
hai hình thức đầu tư trước nhà đầu tư thực hiện đầy đủ cam kết của mình liên
quan đến cả ba hành vi: Build- Operate- Transfer có nghĩa là: xây dựng- kinh
doanh- chuyển giao đối tượng của hợp đồng thì ở hình thức đầu tư này nghĩa
vụ mà nhà đầu tư phải thực hiện chỉ là xây dựng và chuyển giao công trình đó
cho Chính phủ mà không được quyền kinh doanh chính những công trình này.
Vì vậy những thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của hai bên trong hợp đồng
22
cũng như cam kết thực hiện sẽ ít hơn trong hai Hợp đồng BOT, BTO nhưng
vẫn phải đảm bảo lợi ích kinh tế của nhà đầu tư. Về thời điểm và phương thức
chuyển giao, sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư sẽ phải chuyển
giao ngay công trình này cho Nhà nước Việt Nam, lợi ích mà nhà đầu tư sẽ
được hưởng từ dự án đầu tư của mình là lợi ích từ một dự án khác mà Nhà
nước đa cam kết dành cho họ và tạo mọi điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện
dự án đó để thu hồi ốn và có lợi nhuận hợp lý. Hay nói cách khác, việc quy
định mô hình dầud tư này cần phải đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa chính
sách đầu tư của Nhà nước, hiệu quả kinh tế, xã hội của những dự án đầu tư
đồng thời vấn đảm bảo cho nhà đầu tư có được lợi nhuận gián tiếp từ chính dự
án đầu tư của mình. Nó là yếu tố chi phối để nhà đầu tư quyết định lựa chọn
hình thức đầu tư này. Và đây cũng chính là điểm khác biệt căn bản so với hai
hình thức đầu tư trên.
Hiện nay ở nước ta thì hình thức đầu tư theo Hợp đồng BT cũng đã chỉ
ra được một số nhà thầu lựa chọn để thực hiện dự án đầu tư [8]. Mặc dù các
dự án đầu tư theo hình thức này không nhiều nhưng đã đem lại những thành
công nhất định trong đó thành công nhất phải kể đến dự án đầu tư xây dựng
nhà máy điện Wartla- một dự án có vốn đầu tư nước ngoài xây dựng theo hình
thức BT thời gian qua.
Trong đó các hình thức đầu tư trên thì hình thức Hợp đồng BOT thường
được các nhà đầu tư chú trọng hơn bởi ưu điểm của hình thức này so với hai
hình thức còn lại là sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư hoàn toàn chủ động
trong khâu kinh doanh, khai thác công trình để thu hồi vốn và lợi nhuận. Hình
thức BOT của chúng ta tương tự hay là một dạng thu nhỏ của hình thức công
tư hợp danh (PPP: Public Private Partnership) ở trên thế giới hiện nay như
Anh, Hàn Quốc, Singapore… Hình thức PPP có khả năng huy động vốn đầu
tư nhân để xây dựng cơ sở hạ tầng cao hơn so với hình thức Hợp đồng BOT.
23
PPP là sự cộng tác giữa khu vực công cộng (Nhà nước) và khu vực tư nhân
dựa trên một hợp đồng để cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ. Khu vực tư nhân
sẽ đóng góp không chỉ vốn mà còn cả công nghệ và năng lực quản lý (những
thế mạnh mà tư nhân nắm giữ).
1.2. Vai trò, ý nghĩa của đầu tư theo Hợp đồng BOT, BTO, BT đối với sự
phát triển kinh tế xã hội
1.2.1. Vai trò, ý nghĩa của đầu tư theo Hợp đồng BOT, BTO, BT đối với
các quốc gia
Đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng là một hoạt động có ý nghĩa to
lớn đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia và được xem là một nhiệm
vụ quan trọng của Nhà nước. Tuy nhiên, sử dụng nguồn vốn Nhà nước để đầu
tư cho hoạt động này không phải là giải pháp duy nhất và có hiệu quả đặc biệt
đối với những nước nguồn ngân sách bị hạn chế. Do đó các quốc gia trên thế
giới ngày càng đa dạng hình thức thu hút vốn đầu tư, trong các hình thức đó
phải kể đến hình thức thu hút vốn đầu tư theo hợp đồng xây dựng- kinh
doanh- chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng- chuyển giao- kinh doanh
(BTO), hợp đồng xây dựng- chuyển giao (BT). Việc thu hút vốn đầu tư theo
hình thức này được hầu hết các quốc gia trên thế giới sử dụng và được ví như
chìa khóa vàng của sự tăng trưởng kinh tế. Thông qua hình thức đầu tư theo
hình thức BOT, BTO, BT các nước kém phát triển có thể nhận được công
nghệ và kỹ thuật tiên tiến, tiếp thu được kinh nghiệm quản lý tốt, tìm kiếm thị
trường bên ngoài. Ngay cả những nước có trình độ phát triển cao như Mỹ,
Châu Âu… hiện nay vẫn huy động vốn đầu tư bên ngoài và sự hợp tác của
các quốc gia qua hình thức đầu tư này [47]. Điều này được giải thích bởi nhu
cầu về vốn đầu tư ở tất cả các quốc gia đều rất lớn và vượt xa khỏi nguồn vốn
từ ngân sách Nhà nước hiện có.
24
Theo ước tính trên cả thế giới có khoảng 400- 500 tỷ USD vốn đầu tư
trực tiếp. Do vậy, đã diễn ra một cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia để
tìm kiếm nguồn vốn. Quốc gia nào có hệ thống pháp luật chặt chẽ, khoa học
hơn, môi trường đầu tư thông thoáng hơn, thuận lợi hơn và có khả năng sử
dụng vốn hiệu quả hơn thì quốc gia đó có thể dành được lợi thế trong cuộc
cạnh tranh này. Qua đó ta thấy được việc thu hút nguồn vốn đầu tư thông qua
hình thức Hợp đồng BOT, BTO, BT là một trong những hình thức vô cùng
quan trọng và mang lại hiệu quả kinh tế đặc biệt trong thời kỳ hội nhập, hợp
tác của nền kinh tế như hiện nay các quốc gia bị làn sóng tự do hóa nền kinh
tế trên thế giới lôi cuốn và được khích lệ bởi thành công của các nước, vùng
lãnh thổ áp dụng các hình thức thu hút vốn đầu tư đặc biệt trong lĩnh vực cơ
sở hạ tầng như: Hàn Quốc, Philippine, Hồng Kông. Việc thực hiện các công
trình cơ sở hạ tầng thường là những công trình lớn gặp rất nhiều khó khăn lớn
về tài chính để thực hiện dự án. Giá thành các công trình lớn, nhu cầu lại
nhiều nên các phương thức cung cấp tài chính truyền thống theo bất kỳ hình
thức nào từ nguồn ngân sách Nhà nước đều không đủ. Chính vì vậy, các quốc
gia nhận thức được rằng nguồn vốn huy động trong nước và nguồn vốn huy
động từ nước ngoài có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xây dựng cơ sở
hạ tầng. Trong giai đoạn hiện nay, do các nguồn lực trong nước còn rất hạn
chế, trình độ khoa học chưa cao, trong lĩnh vực này sự giúp đỡ của nước
ngoài là không thể thiếu. Kinh nghiệm của các nước Châu Á là cần thiết phải
có chính sách cho phép các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và tạo điều kiện để
sử dụng các công nghệ, nắm bắt kỹ năng điều hành và tranh thủ vốn của các
nhà đầu tư nước ngoài có thể đem vào. Các hình thức đầu tư theo hợp đồng
dự án không những là phương thức tài trợ cho sự phát triển cơ sở hạ tầng mà
còn là con đường thực sự và hiệu quả để phát triển cơ sở hạ tầng một cách bền
vững. Vì lẽ đó, Chính phủ nhiều nước có chính sách thu hút vốn đầu tư từ các
25