Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tìm hiểu về thực trạng tranh chấp hợp đồng bảo hiểm từ đó chỉ ra những nguyên nhân cơ bản và đề xuất giải pháp để hạn chế tranh chấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.99 KB, 24 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, khi nền kinh tế của nước ta ngày càng phát triển, thì nhu cầu phòng
tránh rủi ro của các cá nhân, tổ chức cũng tăng lên, do đó thị trường bảo hiểm cũng
phát triển theo nhằm thỏa mãn nhu cầu đó. Khi thị trường bảo hiểm càng phát triển
càng mạnh thì kéo theo nó là các tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm diễn ra càng
nhiều. Nhằm giải quyết các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm có thể xảy ra, pháp luật
Việt Nam hiện hành cũng đã quy định khá rõ ràng cả về thẩm quyền, thủ tục và cơ
chế giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, tranh chấp hợp đồng bảo
hiểm vẫn là hiện tượng diễn ra phổ biến trong thị trường bảo hiểm hiện nay. Khi thị
trường bảo hiểm càng phát triển thì số lượng các vụ tranh chấp bảo hiểm càng diễn
ra nhiều hơn và phức tạp hơn. Trong phạm vi bài viết này chúng em xin tìm hiểu về
thực trạng tranh chấp hợp đồng bảo hiểm, từ đó chỉ ra những nguyên nhân cơ bản
và đề xuất giải pháp để hạn chế tranh chấp.
Trong khi làm bài tập thì nhóm đã tham khảo rất nhiều các tài liệu trên internet,
có các vụ việc tranh chấp hợp đồng bảo hiểm cụ thể để từ đó đưa ra các nhận xét.
Tuy nhiên, chưa có một số liệu thống kê cụ thẻ là hàng năm có bao nhiêu các tranh
chấp về hợp đồng bảo hiểm xảy ra nên khó đánh giá được tình hình tranh chấp qua
các năm.

0


NỘI DUNG

I. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG BẢO
HIỂM
1. Khái niệm về Hợp đồng bảo hiểm
a, Định nghĩa:
Kinh doanh bảo hiểm là quan hệ kinh doanh được thiết lập trên cơ sở hợp đồng
ký kết giữa doanh nghiệp bảo hiểm đối với khách hàng, hợp đồng này gọi là Hợp
đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm là hình thức pháp lý của quan hệ kinh doanh


bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm với bên mua bảo hiểm.
Điều 567 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa các
bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả
một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Tiếp cận về hợp đồng bảo hiểm, khái niệm hợp đồng bảo hiểm được Luật kinh
doanh bảo hiểm quy định như sau: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên
mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng
phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng
hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.” (Khoản 1
Điều 12 Luật kinh doanh bảo hiểm).
b, Đặc điểm:
Hợp đồng bảo hiểm cũng là một loại hợp đồng cụ thể, do vậy ngoài những đặc
điểm chung của hợp đồng, hợp đồng bảo hiểm còn có những đặc điểm riêng sau:
- Hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng dịch vụ tài chính: bởi vì sản phảm mà
doanh nghiệp bảo hiểm cung ứng cho khách hàng là sản phẩm vô hình, nó chính là
sự bảo đảm về mặt tài chính trước rủi ro cho người được bảohiểm. Rủi ro là cơ sở,
là nguồn gốc phát sinh quan hệ hợp đồng bảo hiểm. Để bảo vệ mình, người tham
gia bảo hiểm nộp phí cho doanh nghiệp bảo hiểm để đổi lấy sự cam kết của doanh
nghiệp bảo hiểm là sẽ trả tiền hoặc bồi thường bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra. Như
vậy, ở đây chỉ có cam kết từ hai phía là doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia
1


bảo hiểm, trong đó người tham gia bảo hiểm phải cam kết nộp phí, còn doanh
nghiệp bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi có sự kiện bảo
hiểm xảy ra.
- Chủ thể ký kết hợp đồng bảo hiểm: một bên chủ thể tham gia ký kết hợp đồng
bảo hiểm là doanh nghiệp bảo hiểm tham gia với tư cách là người nhận bảo hiểm.
Còn chủ thể mua bảo hiểm là các tổ chức, cá nhân có đủ năng lực chủ thể có nhu
cầu hoặc bắt buộc phải tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm.

- Về hình thức, hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Bằng chứng
giao kết hợp đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo,
telex, fax và các hình thức khác do pháp luật quy định.
- Về nội dung của hợp đồng bảo hiểm: ngoài điều khoản mà các bên thỏa thuận
ghi trong hợp đồng còn bao gồm cả quy tắc, điều khoản bảo hiểm do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành (đối với hợp đồng bảo hiểm bắt buộc). Hoặc quy tắc,
điều khoản bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm xây dựng và được Bộ Tài chính
phê chuẩn (đối với hợp đồng bảo hiểm về con người) hay quy tắc, điều khoản bảo
hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm xây dựng và đã đăng ký với Bộ Tài chính (đối với
hợp đồng bảo hiểm tài sản, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự không mang
tính bắt buộc)
- Trong quan hệ doanh nghiệp bảo hiểm quyền và nghĩa vụ cơ bản các bên thực
hiện không đồng thời và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm là loại nghĩa vụ thực hiện
có điều kiện.
Trong hợp đồng bảo hiểm thì nghĩa vụ của người mua bảo hiểm là cung cấp đầy
đủ, trung thực các thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm trước khi ký hợp
đồng và trong quá trình thực hiện hợp đồng và nộp phí bảo hiểm. Trên cơ sở đó
doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chấp nhận bảo hiểm và định mức phí bảo hiểm.
Nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp bảo hiểm là bồi thường hay trả tiền bảo hiểm
cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm

2


xảy ra. Nghĩa vụ bồi thường hay trả tiền bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm
trong hợp đồng bảo hiểm là nghĩa vụ thực hiện có điều kiện.
- Tính đền bù trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm thường là không xác định trước
và lợi ích của các bên chủ thể trong hợp đồng bảo hiểm có xung đột trực tiếp với
nhau.
c, Phân loại.

Có rất nhiều loại hợp đồng bảo hiểm tùy thuộc vào tiêu chí phân loại khác nhau.
- Căn cứ vào đối tượng của hợp đồng bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm được
chia thành: hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng bảo hiểm tài sản và hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
- Căn cứ vào sự tự nguyện của các bên trong việc giao kết hợp đồng bảo hiểm
thì hợp đồng bảo hiểm được chia thành hợp đồng bảo hiểm tự nguyện và hợp đồng
bảo hiểm bắt buộc.
- Căn cứ vào tính phái sinh trong việc xác lập quan hệ bảo hiểm thì hợp đồng
bảo hiểm được chia thành hợp đồng bảo hiểm ban đầu và hợp đồng bảo hiểm phái
sinh (tái bảo hiểm).
Ngoài ra, tùy từng loại hợp đồng bảo hiểm cụ thể mà còn có các loại bảo hiểm
trùng, bảo hiểm trên giá trị, bảo hiểm dưới giá trị…
2. Khái niệm về tranh chấp Hợp đồng bảo hiểm
Tranh chấp là sự xung đột, bất đồng ý chí giữa các chủ thể về những quyền và
nghĩa vụ hoặc lợi ích phát sinh trong quan hệ nào đó.
Tranh chấp hợp đồng là một dạng tranh chấp cụ thể, đó là sự bất đồng của các
bên chủ thể khi thực hiện quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng mà các bên đã ký kết.
Hay nói cách khác: tranh chấp phát sinh từ hợp đồng là tranh chấp giữa các bên
trong việc thực hiện các điều khoản hợp đồng”
=> tranh chấp hợp đồng bảo hiểm chính là sự xung đột, bất đồng ý chí giữa
doanh nghiệp và bên tham gia bảo hiểm trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
hoặc lợi ích phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm.
3


Hợp đồng bảo hiểm được xác định là một loại hợp đồng dân sự chính vì vậy mà
căn cứ phát sinh tranh chấp hợp đồng bảo hiểm cũng dựa trên những căn cứ phát
sinh tranh chấp hợp đồng dân sự nói chung. Theo Điều 412 BLDS năm 2005,
nguyên tắc thực hiện hợp đồng dân sự được quy định là: “1. Thực hiện đúng hợp
đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và

các thỏa thuận khác; 2. Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và
có lợi nhất cho các bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau; 3. Không được xâm phạm đến
lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.”.
Dựa trên những quy định như vậy thì có thể thấy rằng, tranh chấp sẽ phát sinh khi
những nguyên tắc cơ bản này bị vi phạm. Bởi hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận
giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, khi ký kết hợp đồng có nghĩa là
trách nhiệm hợp đồng đã phát sinh, các bên buộc phải thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình với bên kia. Hành vi vi phạm quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận giữa các
bên có thể sẽ dẫn đến thiệt hại, mà mỗi bên thì đều có quyền tự bảo vệ lợi ích của
mình, từ đó dẫn đến phát sinh tranh chấp.
Thông thường tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm đều xuất phát từ hành
vi vi phạm hợp đồng của một hoặc cả hai bên ký kết với lỗi cố ý hoặc vô ý nên đã
làm trái với các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng bảo hiểm.
Một hành vi được coi là vi phạm hợp đồng bảo hiểm khi hành vi đó phải thỏa
mãn những điều kiện sau:
+) Người thực hiện hành vi phải là các bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm là
doanh nghiệp bảo hiểm và bên tham gia bảo hiểm.
+) Hành vi mà chủ thể vi phạm đã thực hiện là trái với các điều khoản mà các
bên đã cam kết trong hợp đồng bảo hiểm. Để chứng minh một hành vi là trái với
cam kết trong hợp đồng bảo hiểm thì bên có quyền lợi bị xâm hại bởi hành vi của
bên kia phải dẫn chứng về sự tồn tại một cam kết của người thực hiện hành vi (đó
4


là hợp đồng bảo hiểm và quy tắc điều khoản bảo hiểm kèm theo hợp đồng bảo
hiểm...) thông thường hành vi làm trái với cam kết trong hợp đồng bảo hiểm là
hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết.
+) Bên thực hiện hành vi trái cam kết có một lỗi xác định là cố ý hoặc vô ý.
Thông thường bên có quyền lợi bị xâm hại chỉ cần chứng minh rằng bên đối tác đã
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ như cam kết cũng đủ để dẫn

chứng về lỗi của người đó. Bên thực hiện hành vi trái với cam kết thì phải chứng
minh mình không có lỗi bằng cách dẫn ra các sự kiện, các quy định để bảo vệ
mình.
+) Hành vi vi phạm đó nhằm xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên
đối ước, hoặc xâm hại đến lợi ích khác như lợi ích xã hội, lợi ích của các tổ chức,
cá nhân khác.
Hợp đồng bảo hiểm hàng hải dù được quy định riêng ở Bộ luật Hàng hải Việt
nam nhưng khi phát sinh tranh chấp hợp đồng bảo hiểm vẫn dựa trên những căn cứ
như trên.
Chủ thể trong tranh chấp hợp đồng bảo hiểm.
Chủ thể tham gia tranh chấp cũng chính là chủ thể tham gia hợp đồng bảo
hiểm, bởi tranh chấp phát sinh là do mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của các
bên tham gia hợp đồng bảo hiểm gây nên. Vậy nên chính họ cũng là người tham
gia vào tranh chấp bảo hiểm đã phát sinh này. Theo khoản 1 Điều 12 Luật Kinh
doanh bảo hiểm: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và
doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người hưởng thụ hoặc bồi thường cho
người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.”. Như vậy, chủ thể tham gia
tranh chấp là người mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm.
II. THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
1. Thực trạng tranh chấp hợp đồng bảo hiểm tại Việt Nam hiện nay.
5


Hiện nay, khi nền kinh tế của nước ta ngày càng phát triển, thì nhu cầu phòng
tránh rủi ro của các cá nhân, tổ chức cũng tăng lên, do đó thị trường bảo hiểm cũng
phát triển theo nhằm thỏa mãn nhu cầu đó. Khi thị trường bảo hiểm càng phát triển
càng mạnh thì kéo theo nó là các tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm diễn ra càng
nhiều. Nhằm giải quyết các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm có thể xảy ra, pháp luật

Việt Nam hiện hành cũng đã quy định khá rõ ràng cả về thẩm quyền, thủ tục và cơ
chế giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, tranh chấp hợp đồng bảo
hiểm vẫn là hiện tượng diễn ra phổ biến trong thị trường bảo hiểm hiện nay. Khi thị
trường bảo hiểm càng phát triển thì số lượng các vụ tranh chấp bảo hiểm càng diễn
ra nhiều hơn và phức tạp hơn.
a, Các tranh chấp phát sinh trong hợp đồng bảo hiểm tài sản
Hiện nay, xu hướng mua bảo hiểm tự nguyện cho tài sản ngày càng phổ biến. Và
mục đích của việc mua bảo hiểm là khi xảy ra sự cố, tài sản bị hư hại, mất mát… sẽ
được phía bảo hiểm đứng ra hỗ trợ bồi thường. Tuy nhiên, thực tế một số trường
hợp tranh chấp quyền lợi bảo hiểm đang khiến bên mua và bên bán phải kéo nhau
ra tòa.
Chẳng hạn, trên thực tế, nhiều trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm có biết được
bên mua bảo hiểm đã yêu cầu bảo hiểm tài sản trên giá trị họ vẫn ký hợp đồng và
thu phí bảo hiểm, bởi làm như vậy họ luôn có lợi vì nếu không có sự kiện bảo hiểm
xảy ra thì số phí bảo hiểm sẽ thuộc về doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu có sự kiện bảo
hiểm phát sinh thì doanh nghiệp bảo hiểm chi trả số tiền bảo hiểm đóng dư và chỉ
trả lại khách hàng phần thiệt hại thực tế của tài sản mà thôi.
Bên cạnh đó, một loại hợp đồng xảy ra tranh chấp phổ biến ở Việt Nam là bảo
hiểm thân tàu. Do Việt Nam có đường bở biển dài nên nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu
rất phát triển, tuy nhiên kéo theo đó là các tranh chấp hóc búa, khó giải quyết. Ví
dụ: Tàu đánh cá mang biển số QNG2805TS có công suất 40CV của ông Nguyễn
Văn Cư, xã Nghĩa An, Quảng Ngãi, tham gia bảo hiểm thân tàu với mức
125.000.000 VNĐ, Hợp đồng có hiệu lực một năm từ ngày 06/11/1996 đến ngày
6


06/11/1997. Ngày 15/11/1996 tàu ông Cư cùng 9 thuyền viên ra khơi đánh cá.
Ngày 21/11/1997 có dông, nước biển tràn vào tàu làm tàu chết máy, trôi lênh đênh
trên biển 2 ngày, trôi dạt vào đảo Cát Vàng thuộc quần đảo Hoàng sa. Đến ngày
27/01/1997 tầu được kéo trở về. Sau đó, ông Cư yêu cầu công ty Bảo Việt tỉnh

Quảng ngãi bồi thường số tiền bảo hiểm là 125 triệu đồng. Yêu cầu bồi thường của
ông Cư bị từ chối. Ông Cư nộp đơn khởi kiện đến TAND tỉnh Quảng Ngãi. Bản án
dân sự sơ thẩm số 06/STDS ngày 24/6/1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
đã áp dụng Điều 571, 574, 575, Khoản 1 Điều 580 Bộ luật dân sự 1995 buộc công
ty Bảo Việt tỉnh Quảng Ngãi bồi thường ông Cư số tiền bảo hiểm thân tàu là 115
triệu đồng. Tòa án xét xử hoàn toàn không xem xét đến hành vi và mối quan hệ
giữa hành vi và hậu quả và yêu tố lỗi của chủ tàu khi quản lý và sử dụng tàu đánh
cá. Ngày 29/6/1998 Công ty Bảo Việt tỉnh Quảng Ngãi đã kháng cáo bản án sơ
thẩm lên Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, án dân sự phúc thẩm số 35 ngày
05/11/1998 của tòa án phúc thẩm TANDTC tại Đà Nẵng đã quyết định y án sơ
thẩm. Ngày 13/03/1999 Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao kháng nghị bản án dân
sự phúc thẩm số 35/DSPT ngày 06/10/1998 của Tòa án Phúc thẩm tại Đà Nẵng,
đền nghị TANDTC xét xử giám đốc thẩm để hủy bản án sơ thẩm và bản án phúc
thẩm, bác đơn yêu cầu bồi thường của ông Cư.
Ở trên là các tranh chấp đối với hợp đồng bảo hiểm tự nguyện nhưng trong các
hợp đồng bảo hiểm tài sản bắt buộc cũng xảy ra tranh chấp như đối với hợp đồng
bảo hiểm cháy, nổ. Khi mua bảo hiểm cháy, nổ thì bên mua bảo hiểm được các
doanh nghiệp bảo hiểm hướng dẫn rất cụ thể về cách phòng cháy, chữa cháy để hạn
chế tối thiểu thiệt hại xảy ra. Và khi sự kiện bảo hiểm xảy ra thì các doanh nghiệp
bảo hiểm trước hết là từ chối bồi thường với lí do bên mua bảo hiểm không cố gắng
khắc phục vụ cháy nổ đó (vd: tháng 10/2007, Công ty Tân Việt mua bảo hiểm cháy
2,5 tỉ đồng với Công ty Bảo hiểm Bảo Việt Sóc Trăng. Khuya 22-11-2007, nhà máy
xay xát Đại Thành của Tân Việt bất ngờ bị cháy rụi, thiệt hại trên 1,8 tỉ đồng. Tân
Việt liền báo ngay cho phía bảo hiểm, các cơ quan chức năng khác đến giám định
7


thiệt hại cùng nguyên nhân cháy. Sau khi công an kết luận nhà máy cháy là rủi ro,
do chất xăng dầu gây ra, không có dấu hiệu tội phạm, Tân Việt đã yêu cầu công ty
bảo hiểm bồi thường thiệt hại như trên. Tuy nhiên, công ty bảo hiểm đã từ chối giải

quyết, lập luận theo nguyên tắc, bên được bảo hiểm sẽ mất quyền được bồi thường
nếu sử dụng các thủ đoạn và biện pháp man trá nằm trục lợi bảo hiểm, hoặc thiệt
hại gây ra do hành động có chủ tâm, có sự đồng lõa của người được bảo hiểm.
Trong vụ này, công ty bảo hiểm cho rằng chính giám đốc Tân Việt… đốt nhà máy
nên không thể bắt bảo hiểm bồi thường => hai bên đã kiện nhau ra tòa để giải
quyết). Bên cạnh đó, cũng có những trường hợp người mua bảo hiểm cố tình để
xảy ra vụ cháy để được nhận tiền bồi thường từ công ty bảo hiểm. Đây là một hành
vi man trá của bên mua bảo hiểm.
b, Các tranh chấp phát sinh trong hợp đồng bảo hiểm con người
Tranh chấp trong hợp đồng bảo hiểm con người diễn ra cũng rất phổ biến, phát
sinh cả từ phía doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm.
- Doanh nghiệp bảo hiểm và các đại lý bảo hiểm khi mang sản phẩm bảo hiểm của
mình đến với khách hàng chủ yếu chỉ nói về phần quyền lợi của khách hàng, thậm
chí phóng đại những quyền và lợi ích mà khách hàng có thể nhận được. Trong khi
đó, phần nghĩa vụ của khách hàng thì không được nhắc đến hoặc bị chỉ được nhắc
sơ qua bằng các thủ thuật tinh vi để nhằm mục đích khách hàng ký vào hợp đồng
bảo hiểm. Ví dụ: bà Nguyễn Thị Oanh, trú ở quận Phú Nhuận cũng làm đơn khiếu
nại một công ty bảo hiểm nhân thọ lên Văn phòng người tiêu dùng, vì công ty này
không đền bù bảo hiểm cho chồng bà (mới chết vì bệnh ung thư dạ dày). Lý do từ
chối không giải quyết là khi ký kế hợp đồng bảo hiểm, chồng bà quên không khai
rằng “trong vòng 3 năm qua, ông đã đi khám và điều trị bệnh đau dạ dày 2 lần”. Bà
Oanh cũng cho rằng: “Trong khoảng mấy năm trời như thế, làm sao có thể nhớ
được chính xác là mình nhức đầu, sổ mũi, đau ốm, chữa bệnh cụ thể bao nhiêu lần,
điều trị bằng thuộc loại gì, tên thuốc ra sao?”.1
1

/>
8



Thêm vào đó, việc xác định lỗi của người tham gia bảo hiểm đối với những
thiệt hại phát sinh cũng là một yếu tố phổ biến dẫn đến tranh chấp trong hợp đồng
bảo hiểm con người. Ví dụ: gia đình ông Trần Văn Quý ở quận Bình Thạnh, có con
trai bị chết vì tai nạn xe máy, công ty bảo hiểm nhân thọ P. đã kiên quyết không
giải quyết đền bù bảo hiểm với lý do “có hơi men trong khi điều khiển phương tiện
giao thông”. Ông Quý cho rằng “uống một ly bia nhỏ cũng là có hơi men, và như
vậy thì đâu phải là say rượu?”. Ông Quý thắc mắc: “nếu các công ty bảo hiểm bắt
bẻ từng ly, từng tí như vậy thì sao không chịu nói ngay từ đầu?”.
Hiện nay, nhiều hãng bảo hiểm đều yêu cầu khách hàng phải ký tên dưới dòng
chữ “tôi đã đọc bản minh họa này và đã được đại lý tư vấn rõ ràng”. Thế nhưng
trên thực tế, không có một cơ chế kiểm tra nào để đảm bảo rằng các đại lý đã tư
vấn đúng trách nhiệm, bởi nếu tư vấn cặn kẽ về hợp đồng thì vừa mất thời gian và
có nguy cơ khách hàng không ký kết hợp đồng. Và còn rất nhiều các vụ việc tranh
chấp trong hợp đồng bảo hiểm con người diễn ra trên thực tế với nhiều lý do và
hình thức khác nhau.
- Nhưng bên cạnh đó, các vụ việc tranh chấp hợp đồng bảo hiểm mà người có lỗi
chính là người mua bảo hiểm cũng rất nhiều. Các vụ việc thường gặp như: tự tử để
đòi bồi thường bảo hiểm; gian dối trong việc cung cấp thông tin;….
Điển hình, có những trường hợp bên mua bảo hiểm thực hiện hành vi lừa dối
khi ký kết hợp đồng bảo hiểm trục lợi bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm thường
phát hiện ra khi điều tra xác minh vụ việc. Đây là cũng là một loại tranh chấp phổ
biến phát sinh từ phía lỗi của người mua bảo hiểm.
Ví dụ: Ông giáo về hưu Vũ Quang Uông (sinh năm 1946) trú tại xã Hiệp Lực,
huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương là khách hàng của 3 công ty bảo hiểm nhân thọ
lớn (Prudential VN, Bảo Minh và Hà Nội) với tổng giá trị hợp đồng mua bảo hiểm
3,651 tỉ đồng. Chỉ tính riêng số tiền ông Uông mua bảo hiểm của Công ty
Prudential trong vòng 6 ngày (21/3 - 26/3/2001) qua 4 hợp đồng đã là 750 triệu
đồng cùng với sản phẩm bổ trợ chết và tàn tật là 1,5 tỉ đồng. Hằng tháng, ông Uông
9



phải đóng một số tiền bảo hiểm khoảng 15 triệu đồng. Ông Uông đóng phí bảo
hiểm đầy đủ (trừ công ty Bảo Minh) đến ngày 1/10/2002.
Theo án văn bản án xét xử sơ thẩm dân sự ngày 21/6/2004 của TAND tỉnh Hải
Dương, vào khoảng 23h ngày 23/3/2002, ông Uông điều khiển xe máy đến Km
40+500 thuộc địa phận xã Tân Trường, huyện Cẩm Giang, tỉnh Hải Dương thì bị
ngã xe (án văn ghi là "bị tai nạn"). Ông Uông được đưa vào Trung tâm Y tế huyện
Cẩm Giàng cấp cứu, vết thương gãy hở 1/3 cẳng chân dưới, hôm sau chuyển lên
Bệnh viện Việt - Đức bó bột cẳng chân trái, ra viện vào ngày 29/3/2002. Sau đó
ông Uông vào Bệnh viện tỉnh Hải Dương và sau nữa là Viện Quân y 7 điều trị. Và
tại Viện Quân y 7, ngày 24/4/2002, bệnh viện đã cắt cụt 1/3 xương cẳng chân của
ông Uông.
Sau khi ra viện (21/6/2002), ông Uông đòi Công ty Bảo hiểm Prudential bồi
thường số tiền 750 triệu đồng, Công ty Bảo hiểm Hà Nội 330 triệu đồng (tổng cộng
1,08 tỉ đồng), Công ty Bảo Minh không bị kiện vì trước đó do ông Uông không
đóng tiền nên hợp đồng với công ty này hết hiệu lực. Cả hai công ty bị đòi bồi
thường đều từ chối bồi thường, ông Uông đưa vụ kiện công ty Prudential ra TAND
tỉnh Hải Dương.
Tại phiên xét xử sơ thẩm dân sự ngày 21/6/2004, TAND tỉnh Hải Dương đã
tuyên buộc Công ty Prudential bồi thường cho ông Uông số tiền là 750 triệu đồng.
Công ty Prudential kháng cáo và đề nghị các cơ quan điều tra vào cuộc.
Luật gia Trần Đình Triển - Hội Luật gia Hà Nội với tư cách là người bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho Công ty Prudential trình bày trước tòa, cho rằng ông Vũ
Quang Uông có dấu hiệu trục lợi bảo hiểm và tòa đã bỏ qua nhiều tình tiết quan
trọng:
- Tòa chưa xác minh về thu nhập của ông Uông - một thầy giáo về hưu - để lý
giải vì sao ông Uông trong một thời gian ngắn lại mua nhiều hợp đồng bảo hiểm có
giá trị lớn. (Con ruột của ông Uông là Vũ Trung Thành - đại lý của Công ty
Prudential, là người giao tiền mua bảo hiểm của ông Uông cho Prudential)
10



- Hồ sơ bệnh án trong các bệnh viện có kết quả khác nhau, có nhiều dấu hiệu
tẩy xóa nhưng tòa không cho trưng cầu giám định
- Một vấn đề quan trọng là có hay không tai nạn đêm 23/3/2002?
Ông Uông tự mình đi trong đêm mưa trong 7 giờ liên tục (không nghỉ) bằng xe
máy với vận tốc 40 km/g nhưng chỉ đi được... 50 km (từ Hà Nội đến nơi xảy ra tai
nạn) là một điều hết sức vô lý. Đi trong mưa, không mặc áo mưa mà khi bị tai nạn
áo vẫn khô là điều vô lý thứ hai. Theo Luật sư thì vụ việc này có dấu hiệu của hành
vi trục lợi bảo hiểm.2
c, Các tranh chấp phát sinh trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Trong thị trường bảo hiểm hiện nay, cùng với các tranh chấp hợp đồng bảo
hiểm về tài sản hay tranh chấp về bảo hiểm con người thì tranh chấp về bảo hiểm
trách nhiệm dân sự cũng là một vấn đề rất phổ biến. Các tranh chấp phát sinh trong
hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự thường phát sinh trong các lĩnh vực như:
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, trách nhiệm nghề nghiệp,…. Các tranh chấp
trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự thường phát sinh do mâu thuẫn về sự
kiện bảo hiểm, lỗi do cung cấp thông tin, tranh chấp do vi phạm thời hạn thông
báo,…
Bên cạnh đó, việc xác định lỗi trong tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự cũng là một vấn đề khó khăn mà khi giải quyết các vụ việc tranh chấp cần
phải làm. Ví dụ: tháng 3-2009, Công ty Bảo vệ Y. ký hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp (những trách nhiệm phát sinh mà công ty bảo vệ phải bồi
thường cho khách hàng của mình do những lỗi, sơ suất về chuyên môn) với Công
ty Bảo hiểm X. Một thời gian sau, Công ty Y. để trộm vào lấy mất chiếc xe SH của
một khách hàng và phải bồi thường hơn 97 triệu đồng. Sau đó căn cứ vào hợp đồng
bảo hiểm, Công ty Y. yêu cầu Công ty X. phải hoàn lại cho mình số tiền trên.
Phía công ty bảo hiểm từ chối với lý do sự cố trên không thuộc phạm vi bảo
hiểm, việc mất xe là do lỗi của công ty bảo vệ. Bởi công ty bảo vệ giữ xe của
2


/>
11


khách nhưng không giao thẻ; khi mất xe, nhân viên bảo vệ không có mặt tại hiện
trường…
Vụ tranh chấp đã được giải quyết tại Tòa án, tại phiên Xử sơ thẩm tháng 72011, TAND tỉnh Đồng Nai nhận định công ty bảo vệ giữ xe nhưng không giao thẻ
dẫn đến mất xe là có lỗi. Tuy nhiên, đây là lỗi chủ quan, sơ suất trong khi thực hiện
nhiệm vụ chứ không phải cố ý để chiếm đoạt xe trái pháp luật. Bởi vậy, yêu cầu
công ty bảo hiểm X phải chi trả tiền bảo hiểm cho công ty Y.
Tuy nhiên, các vụ việc trục lợi bảo hiểm do lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm cũng
diễn ra rất phổ biến trong bảo hiểm tài sản. Cũng với tình huống trên, chỉ cần nhân
viên bảo vệ cố ý lấy chiếc xe SH của khách hàng để được bảo hiểm thì hành vi này
bị coi là vi phạm pháp luật.
2. Từ những thực trạng về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm kể trên, chúng ta có
thể thấy một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng tranh chấp hợp đồng bảo
hiểm như sau:
Thứ nhất, có một số vấn đề trong hợp đồng bảo hiểm chưa được xác định cụ
thể, rõ ràng, ví dụ: Đối tượng hợp đồng không thể xác định cụ thể, chính xác, đầy
đủ trừ trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản. Chẳng hạn, trong hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của người được bảo
hiểm, một khái niệm mang tính trừu tượng khó xác định.
Thứ hai, liên quan đến sự kiện bảo hiểm, phí bảo hiểm, nghĩa vụ thanh toán
- Do nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng phát sinh không đồng thời
nhau, hơn nữa lợi ích của các bên trong quan hệ hợp đồng trái ngược nhau. Khi ký
kết hợp đồng bên mua phải có nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm trước, nghĩa vụ trả tiền
hoặc bồi thường bảo hiểm của doanh nghiệp chỉ phát sinh khi có sự kiện bảo hiểm
hoặc khi hết hạn hợp đồng (đối với bảo hiểm nhân thọ mang tính tiết kiệm). Nếu
không có sự kiện bảo hiểm thì doanh nghiệp không trả tiền hoặc bồi thường bảo

hiểm. Số phí mà bên mua bảo hiểm đóng cho doanh nghiệp sẽ thuộc về bên bảo
hiểm. Nếu sự kiện xảy ra số tiên mà doanh nghiệp phải trả hoặc bồi thường là rất
12


lớn, lớn hơn nhiều số phí mà người mua bảo hiểm nộp. Do lợi ích của hai bên chủ
thể trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm là đối lập nhau vì vậy thương phát sinh xung
đột, mâu thuẫn.
- Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm thường diễn ra khi sự kiện bảo hiểm đã xuất
hiện, vì đối tượng bảo hiểm có thể không tồn tại hoặc không còn nguyên vẹn, nên
khó xác định chính xác nguyên nhân và mức độ tổn thất, thường bị yếu tố chủ quan
chi phối. Bởi vậy, các bên luôn có xu hướng tìm ra các chứng lý để bao biện và bảo
vệ lợi ích của mình. Vì vậy, tranh chấp sẽ phát sinh và khó có thể giải quyết để đảm
bảo cho các bên cảm thấy quyền lợi của mình đã giải quyết một cách thỏa đáng..
Đặc biệt là vấn đề xác định lỗi và mức độ lỗi đối với hành vi vi phạm hợp đồng
để từ đó có cách giải quyết thỏa đáng quyền lợi cho các bên tranh chấp. Trong khi
đó, những quy định về vấn đề xác định lỗi trong Luật kinh doanh bảo hiểm chỉ
dừng lại ở một mức khái quát nên khi áp dụng vào tình huống cụ thể rất khó khăn.
Việc xác định lỗi trong giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm không chỉ đơn
giản là việc xác định lỗi đối với hành vi vi phạm các nghĩa vụ trong hợp đồng bảo
hiểm mà thậm chí còn phải xác định cả lỗi đối với hành vi phát sinh ngoài hợp
đồng bảo hiểm. Chẳng hạn lỗi của người thứ ba có liên quan đến quyền lợi của các
bên trong tranh chấp hợp đồng bảo hiểm. Việc xác định lỗi trong giải quyết tranh
chấp hợp đồng bảo hiểm có một ý nghĩa rất lớn liên quan trực tiếp đến lợi ích của
các bên. Việc xác định đúng hình thức lỗi thì tương ứng sẽ có cách xử lý đúng đắn
quyền lợi cho các bên. Có những trường hợp lỗi không cố ý nghĩa xác định trách
nhiệm nhưng việc đánh giá lỗi vẫn cần thiết vì thông qua đây có thể đánh giá và
xác định được đúng mức độ bồi thường chi trả và xác định trách nhiệm liên đới của
chủ thể có liên quan.
- Do nghĩa vụ trả tiền hoặc bồi thường bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm là

nghĩa vụ thực hiện có điều kiện. Theo quy định của pháp luật các điều kiện để làm
phát sinh nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm gồm nhều điều kiện đó là:
 Hợp đồng bảo hiểm giữa các bên ký kết có hiệu lực pháp lý
13


 Có sự kiện bảo hiểm xảy ra trong phạm vi trách nhiệm bảo hiểm của doanh
nghiệp bảo hiểm.
 Bên mua bảo hiểm đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng
bảo hiểm.
 Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm xảy ra nhiều nhất vào cùng hoặc sau thời
điểm xảy ra sự kiện bảo hiểm (khi điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm
của bên mua bảo hiểm)
Thứ ba, do thông tin và hiểu biết của các bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng
không cân xứng.
Trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có ưu thế hơn hẳn
bên mua bảo hiểm trên nhiều phương diện như: kinh nghiệm, khả năng tài chính,
thông tin và sự hiểu biết,...
Ví dụ: trong việc thuyết phục khách hàng mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo
hiểm thường đưa ra những thông tin có lợi cho mình nên có thể gây hiểu lầm cho
người tham gia bảo hiểm. Nhưng bên mua bảo hiểm không thể chứng minh được
rằng doanh nghiệp bảo hiểm đã cố ý cung cấp những thông tin sai sự thật hoặc có
hành vi lừa dối khi ký hợp đồng bảo hiểm.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, doanh nghiệp bảo hiểm cũng luôn có lợi
thế hơn so với bên được bảo hiểm, nghĩa vụ của người mau bảo hiểm là nghĩa vụ
bắt buộc và không điều kiện họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình thì mới được
hưởng quyền nhận tiền bồi thường, chi trả bảo hiểm. Nghĩa vụ bồi thường, chi trả
bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm là nghĩa vụ thực hiện có điều kiện, trước khi
thực hiện nghĩa vụ trả tiền bồi thường họ được xem xét đánh giá về các điều kiện
làm phát sinh nghĩa vụ của mình một cách cẩn trọng như đánh giá về sự kiện bảo

hiểm về nghĩa vụ đã thực hiện của bên đối tác và họ từ chối thực hiện nghĩa vụ này
nếu chứng minh bên được bảo hiểm đã vi phạm cam kết trong hợp đồng với lỗi xác
định. Khi họ không thực hiện nghĩa vụ thì lợi ích của họ không bị bên kia xâm hại.
Bên cạnh đó, nếu không có những hiểu biết nhất định, người tham gia bảo hiểm
14


khó có thể bảo vệ quyền lợi chính đáng trước doanh nghiệp bảo hiểm, trừ khi có sự
can thiệp của cơ quan bảo vệ pháp luật.
Thứ tư, pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nói chung và pháp luật về giải quyết
tranh chấp hợp đồng bảo hiểm nói riêng còn nhiều bất cập.
Có nhiều quy định còn chung chung hoặc thiếu quy định chi tiết hóa hoặc đặc
biệt là các quy định liên quan đến yếu tố lỗi trong các hành vi vi phạm hợp đồng
bảo hiểm của các bên.
Thứ năm, Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm vi phạm
nghĩa vu cung cấp thông tin
Pháp luật có quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của doanh nghiệp bảo
hiểm như sau: doanh nghiệp bảo hiểm phải cung cấp đủ các thông tin về sản phẩm
bảo hiểm mà mình sẽ cung ứng cho khách hàng, giải thích các điều kiện, điều
khoản bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ cho bên mua bảo hiểm...
+ Nếu doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết
hợp đồng bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện
hợp đồng, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua
bảo hiểm do việc cung cấp thông tin sai sự thật.
+ Doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi lừa dối giao kết hợp đồng bảo hiểm thì
hợp đồng đó sẽ vô hiệu.
Trên thực tế, có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã không cung cấp đầy đủ các
thông tin cần thiết cho bên mua bảo hiểm, đặc biệt trong trường hợp hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ. Các đại lý bảo hiểm chủ yếu cung cấp các thông tin về quyền lợi
cho khách hàng nhằm mục đích lôi kéo khách hàng ký kết hợp đồng bảo hiểm để

họ chạy đua theo số lượng hợp đồng và doanh thu. Nhìn chung, những thông tin
cung cấp cho khách hàng cso tính bất lợi mà có thể dẫn đến việc khách hàng chần
trừ hoặc từ chối tham gia bảo hiểm ít được các đại lý nêu ra và giải thích một cách
cặn kẽ, thậm chí có doanh nghiệp còn dùng cả đến các tiểu xảo khá tinh vi mà
khách hàng không thể nhận ra ngay được. Chẳng hạn trong dự thảo hợp đồng có
15


quy định số tiền lãi được chia, nhiều công ty đưa ra lãi cao, hấp dẫn, nhưng khôgn
cam kết trong hợp đồng chính thức, nêu ra chỉ minh họa không có tính chất pháp lý
ràng buộc. Thực tế có công ty còn đưa ra mức bảo tức 2% cho khách hàng, nhưng
khi khách hàng nhận bảo hiểm hay nhận giá trị giải ước khi hủy hợp đồng thì lại bị
công ty tính theo mức lãi suất bảo tức thấp nhất hơn so với mức bảo tức đã thông
báo.
Thực tế vì quyền lợi của mình mà doanh nghiệp bảo hiểm đã không cung cấp
thông tin về sản phẩm, dẫn đến việc khách hàng hiểu không đầy đủ về sản phẩm
bảo hiểm khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, điều đó ảnh hưởng đến quyền lợi của
khách hàng hoặc dẫn đến tranh chấp phát sinh sau này

III. ĐỀ XUẤT PHƯƠNG ÁN HẠN CHẾ TRANH CHẤP HỢP
ĐỒNG BẢO HIỂM
Việc giải quyết các tranh chấp trong hợp đồng bảo hiểm hiện nay được quy định
trong Bộ luật dân sự 2005, Luật kinh doanh bảo hiểm cùng các văn bản hướng dẫn.
Điều này sẽ dẫn đến sự chồng chéo hay đối lập ở một số điều luật quy định dẫn đến
hiện nay các vụ tranh chấp hơp đồng bảo hiểm diễn ra ngày càng nhiều từ người
mua bảo hiểm và các doanh nghiệp bảo hiểm. Để hạn chế tranh chấp xảy ra có thể
đề xuất một số giải pháp như sau:
*) Thứ nhất, Về phía Nhà nước và Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam:
Đối với cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm là Bộ Tài chính, Vụ Bảo hiểm,
cần phải tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật. Chính sách về bảo

hiểm phải rõ ràng, minh bạch, đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Ngoài ra, giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp phải thiết lập được mối
quan hệ chặt chẽ để cùng nhau nắm bắt thông tin. Đồng thời, tăng cường công tác
giám sát, cưỡng chế của cơ quan quản lý đối với hoạt động bảo hiểm. Cần phối hợp
với Hiệp hội Bảo hiểm thực thi những quy tắc đạo đức nghề nghiệp, đào tạo nguồn
nhân lực. Và Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cần phát huy vai trò giám sát của mình

16


đối với thị trường bảo hiểm hiện nay để hạn chế việc các doanh nghiệp bảo hiểm
cạnh tranh không lành mạnh.
Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo
hiểm nói riêng. Xây dựng cơ chế, chính sách nhằm tăng cường năng lực quản trị và
hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm trên 3 yêu cầu chủ yếu: an toàn vốn,
quản trị rủi ro và minh bạch hóa thông tin, bao gồm:
- Ban hành các quy định chặt chẽ về vốn pháp định và các mức độ an toàn khả năng
thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Ban hành các quy định về quản lý rủi ro của doanh nghiệp bảo hiểm, bao gồm các
quy trình quản trị rủi ro, vai trò và trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm, hệ
thống thông tin và báo cáo phục vụ công tác quản lý.
- Ban hành quy định chặt chẽ về công khai và minh bạch hóa thông tin của doanh
nghiệp bảo hiểm, bao gồm tần suất công khai, các loại thông tin công khai, mức độ
chi tiết hóa của thông tin công khai.
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các chế độ bảo hiểm bắt buộc theo quy định của Luật
Kinh doanh bảo hiểm (bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới,
bảo hiểm cháy nổ bắt buộc) cho phù hợp với điều kiện và thực tiễn phát triển kinh
tế.
Xây dựng các quy định nhằm chuẩn hóa chất lượng nguồn nhân lực của
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; chuẩn hóa chương trình đào tạo và chứng chỉ môi

giới phù hợp với đặc thù của loại hình sản phẩm bảo hiểm được thu xếp qua môi
giới. Nghiên cứu ban hành quy định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm nghề nghiệp
môi giới bảo hiểm.
Củng cố hệ thống đại lý bảo hiểm thông qua kiểm soát chặt chẽ việc thi cấp chứng
chỉ đào tạo; xây dựng và áp dụng các chương trình đào tạo và chứng chỉ đại lý theo
tính phức tạp của loại hình sản phẩm mà đại lý được tư vấn cho khách hàng.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm theo pháp luật, cụ thể:

17


Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hệ thống chỉ tiêu giám sát doanh nghiệp bảo hiểm phù
hợp với các chuẩn mực quản lý, giám sát bảo hiểm quốc tế và đặc điểm của thị
trường bảo hiểm Việt Nam;
Tăng cường phương thức quản lý, giám sát thông qua các chỉ tiêu về hoạt động của
doanh nghiệp, xây dựng hệ thống phân tích tự động hỗ trợ công tác phân tích, đánh
giá và cảnh báo sớm nguy cơ của doanh nghiệp bảo hiểm.
Bổ sung, sửa đổi một số quy định nhằm tăng khả năng giám sát tài chính của các
công ty bảo hiểm bao gồm vốn pháp định, khả năng thanh toán, hoạt động tài chính
của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục tiêu lựa chọn được các nhà đầu tư có
năng lực tài chính, cam kết lâu dài đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm
Việt Nam, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO. Các quy định này giúp doanh
nghiệp nâng cao chất lượng quản trị điều hành, phát hiện sớm các rủi ro đồng thời
hỗ trợ cho công tác quản lý giám sát của các cơ quan chức năng.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách đảm bảo sự lành mạnh của thị trường, bao
gồm các quy định bảo vệ người tiêu dùng như hoàn thiện các quy định về nội dung
và phương thức giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm đảm bảo tính an toàn của giao
dịch cho cả người mua lẫn công ty bảo hiểm và các đối tượng liên quan (đại lý, môi
giới bảo hiểm). Cần có các quy định cụ thể và đặc thù hơn điều chỉnh hoạt động
cạnh tranh đảm bảo cạnh tranh công bằng và lành mạnh trên thị trường ngành bảo

hiểm, bởi đây là một ngành rất đặc thù và nhạy cảm.
*) Thứ hai, Về phía các doanh nghiệp bảo hiểm
Cần phải đảm bảo việc cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp bảo với
nhau. Không đưa ra các thông tin không đúng hoặc đưa ra nhưng không giải thích
cụ thể để lôi kéo khách hàng
Phải tăng cường đào tạo nghiệp vụ, chuyện môn cho cán bộ nhân viên. Việc
chấp bút hợp đồng bảo hiểm phải cho phù hợp, dễ hiểu, đơn giản nhưng không ảnh
hưởng đến nội dung quan trọng của hợp đồng bảo hiểm. Bảo hiểm là ngành kinh
doanh dịch vụ đặc biệt, đòi hỏi những nhân viên làm trong lĩnh vực này phải có
18


một trình độ và sự hiểu biết nhất định, có trình độ chuyên môn vững vàng. Thị
trường bảo hiểm mới chỉ sôi động và thực sự phát triển trong mấy năm trở lại đây
nên lực lượng lao động trong ngành bảo hiểm vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là
đội ngũ lãnh đạo bậc trung và bậc cao , nên chưa đáp ứng được yêu cầu khai thác
thị trường rộng lớn. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, vấn đề quan trọng
nhất là quản lý dòng tiền, nên cần phải có các chuyên gia về tính phí và phát triển
đội ngũ chuyên gia này. Còn doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, điều quan tâm
nhất là vấn đề trong sạch; trong quản lý kế toán tài chính thì vấn đề chi trả bồi
thường, hoa hồng cần phải được kiểm soát chặt chẽ. Vấn đề phát triển công nghệ
thông tin trong hoạt động bảo hiểm là cực kỳ quan trọng. Hiện nay, việc đầu tư cho
công nghệ thông tin của các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chưa được đồng đều. Vì
vậy, các DNBH cần phối hợp với các đơn vị có liên quan (Hiệp hội bảo hiểm, Cục
quản lý và giám sát bảo hiểm…) mở các lớp đào tạo cho phù hợp với trình độ đa
dạng của cán bộ trong ngành như: Chương trình đào tạo cơ bản, chương trình đào
tạo cán bộ chủ chốt để có đội ngũ cán bộ giỏi, chuyên sâu về nghiệp vụ.
Các doanh nghiệp cần hợp tác với nhau trong việc xây dựng dữ liệu quản lý bảo
hiểm, đánh giá rủi ro, phân tích rủi ro, cung cấp về thông tin bồi thường, nguyên
nhân tổn thất và phòng chống trục lợi bảo hiểm. Mặt khác, thị trường bảo hiểm Việt

Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu của sự phát triển, do đó cần rất nhiều kinh nghiệm
quản lý, kinh nghiệm triển khai cũng như những kiến thức cơ bản cũng như chuyên
sâu về bảo hiểm từ các nước phát triển (Mỹ, Anh, Pháp …). Một số DNBH đã chọn
đối tác chiến lược là những tập đoàn bảo hiểm, tài chính hàng đầu quốc tế để vừa
huy động được nguồn vốn lớn, vừa tiếp thu được kinh nghiệm và công nghệ quản
lý tiên tiến.
Các doanh nghiệp cần chú trọng giải quyết những vấn đề trọng tâm sau: Lập kế
hoạch xây dựng và triển khai các sản phẩm dịch vụ phong phú và chất lượng, đáp
ứng được nhu cầu khách hàng. Điều này đặt ra vấn đề nghiên cứu khách hàng, thị
trường, cũng như phân tích kỹ lưỡng và khoa học, sàng lọc liên tục các sản phẩm
19


thiếu tính cạnh tranh để bán được đúng sản phẩm mà khách hàng cần. Một nhiệm
vụ trọng tâm của các doanh nghiệp đó là phát triển kênh phân phối bancassurance,
thỏa thuận hợp tác với cổ đông chiến lược là các ngân hàng. Thông qua các đơn vị
của đó, doanh nghiệp phối hợp thiết lập mạng lưới đại lý khai thác bảo hiểm để giới
thiệu, cung cấp dịch vụ cho các khách hàng vay vốn tại ngân hàng nhằm nâng cao
chất lượng công tác quản lý rủi ro, bảo toàn nguồn vốn cho vay vì lợi ích của khách
hàng và sự phát triển của hai bên. Tập trung hoàn thiện hệ thống phần mềm quản lý
hỗ trợ đắc lực trong việc quản lý dữ liệu khách hàng, phát triển sản phẩm, bảo mật
thông tin và quản trị rủi ro, xây dựng trang Web với nhiều tiện ích thân thiện với
khách hàng.
*) Thứ ba, Về phía người mua bảo hiểm
Chủ động tiếp cận và nâng cao trình độ về mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực
bảo hiểm. Người mua phải tự thấy được rằng hợp đồng bảo hiểm khó hiểu vì tính
chất vốn có của nó, muốn hiểu được thì bản thân phải tự hoàn thiện, khắc phục
điểm yếu của mình trong mối quan hệ với nhà bảo hiểm trên hợp đồng bảo hiểm.
Đành rằng, khi thị trường bảo hiểm phát triển, mối quan hệ giữa người mua bảo
hiểm và nhà bảo hiểm là qua trung gian (môi giới, đại lý), nhưng kiến thức cơ bản

về bảo hiểm và pháp luật bảo hiểm sẽ giúp người mua tự bảo vệ quyền lợi của mình
tốt nhất và với chi phí thấp nhất. Bên cạnh đó, cần có các chế tài xử lý nghiêm các
hành vi trục lợi bảo hiểm hay các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm. Các cơ
quan nhà nước cần đẩy manh việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân
về pháp luật bảo hiểm cũng như sự cần thiết của bảo hiểm đối với đời sống hiện
nay.

20


KẾT LUẬN
Xã hội phát triển, mọi người quan tâm đến những gì mình đang có, đang nắm giữ
và không muốn có bất cứ thiệt hại nào xảy ra đối với những gì liên quan đến bản
thân minh vì thế mà họ thường mua bảo hiểm để đảm bảo an toàn cho mình và
chuyển rủi ro sang cho các công ty cung cấp bảo hiểm. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện hợp đồng bảo hiểm này thì các bên thường phát sinh các tranh chấp liên
quan đến quyền và nghĩa vụ của nhau. Và nguyên nhân không phải lúc nào cũng
thuộc về doanh nghiệp bảo hiểm mà có trường hợp thuộc về người mua bảo hiểm.
Để hạn chế được những tranh chấp trong hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp
bảo hiểm và người mua bảo hiểm đều cần phải nâng cao nhận thức và thức tuân
thủ pháp luật hơn, không nên vì lợi ích trước mắt của mình mà làm ảnh hưởng đến
người khác.

21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2. />3. />4. />mai/2007/3170/Chong-truc-loi-bao-hiem-tai-san-trong-Luat-kinh-doanh-bao.aspx
5. />6. tinbaohiem.com/baohiem/viewtopic.php?f=18&t=172
7. />= shownews&category=&id=&topicid=647

8. Nguyễn Văn Định chủ biên, Giáo trình Bảo hiểm, NXb. ĐH Kinh tế Quốc dân,
Hà Nội, 2008;
9. Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam, TS. Phạm Văn
Tuyết, Nxb.TP, Hà Nội, 2007.
10. Luận văn tốt nghiệp: Vấn đề xác định lỗi trong giải quyết tranh chấp hơp đồng
bảo hiểm. Ly Thị Hương Giang, Hà Nội, 2005.
11. Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh
bảo hiểm năm 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành

22


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.....................................................................................................................................0
NỘI DUNG..........................................................................................................................................1
I. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM..................................1
1. Khái niệm về Hợp đồng bảo hiểm................................................................................................1
2. Khái niệm về tranh chấp Hợp đồng bảo hiểm............................................................................3
II. THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM.......................................................5
1. Thực trạng tranh chấp hợp đồng bảo hiểm tại Việt Nam hiện nay.........................................5
2. Từ những thực trạng về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm kể trên, chúng ta có thể thấy một
số nguyên nhân dẫn đến tình trạng tranh chấp hợp đồng bảo hiểm như sau: ........................12
III. ĐỀ XUẤT PHƯƠNG ÁN HẠN CHẾ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM...........16

KẾT LUẬN..................................................................................................................

23




×