BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------
DS33C
PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật Dân sự
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Người hướng dẫn: TS. Trần Thị Huệ
HÀ NỘI - 2012
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo - Tiến sĩ
Trần Thị Huệ đã định hướng về mặt khoa học và nhiệt tình giúp đỡ em hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong trường đặc biệt là
các thầy cô giáo trong tổ bộ môn và trong khoa dân sự cũng như ban giám hiệu
nhà trường đã giúp em trau dồi thêm kiến thức trong thời gian học tập tại trường
và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em thực hiện khóa luận.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và tất cả bạn bè đã cổ vũ,
động viên, góp ý cho em trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Sinh viên
Đoàn Thị Vân Anh
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU......................................................................................................1
CHƯƠNG 1..........................................................................................................5
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ...............5
1.1. Khái niệm về di sản thừa kế và phân chia di sản thừa kế.......................5
1.1.1.Khái niệm về di sản thừa kế..................................................................5
1.1.2.Khái niệm về phân chia di sản thừa kế.................................................8
1.2. Phần di sản thừa kế được phân chia cho những người thừa kế:...........9
1.2.1. Xác định di sản chia thừa kế theo pháp luật:.....................................10
1.2.2. Xác định di sản chia thừa kế trong trường hợp có di chúc................11
1.3. Căn cứ phân chia di sản thừa kế:...........................................................12
1.3.1. Khái niệm căn cứ phân chia di sản thừa kế:......................................12
1.3.2. Các căn cứ phân chia di sản thừa kế:................................................13
1.4. Các nguyên tắc phân chia di sản thừa kế:.............................................16
1.4.1 Nguyên tắc phân chia di sản thừa kế theo di chúc..............................16
1.4.2. Nguyên tắc phân chia di sản thừa kế theo pháp luật.........................18
1.5. Ý nghĩa của các quy định pháp luật về phân chia di sản thừa kế.........21
CHƯƠNG 2........................................................................................................24
PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH........24
2.1. Nội dung của phân chia di sản thừa kế:.................................................24
2.1.1. Các bước thực hiện trong quá trình phân chia di sản:......................24
2.1.2. Phân chia theo di chúc:......................................................................29
2.1.3. Phân chia theo pháp luật...................................................................40
2.2. Những vấn đề cần lưu ý khi phân chia di sản thừa kế:.........................45
2.2.1. Người hưởng di sản là thai nhi..........................................................45
2.2.2. Hạn chế phân chia di sản...................................................................46
2.3. Phương thức phân chia di sản thừa kế..................................................47
2.3.1. Phương thức phân chia theo hiện vật................................................48
2.3.2. Phương thức phân chia theo giá trị...................................................48
CHƯƠNG 3........................................................................................................50
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ PHÂN CHIA DI SẢN
THỪA KẾ TẠI TÒA ÁN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT......................................................................................................50
3.1. Thực trạng phân chia di sản thừa kế và việc áp dụng quy định của
pháp luật về phân chia di sản thừa kế:..........................................................50
3.1.1. Những thuận lợi và khó khăn cơ bản khi áp dụng pháp luật về phân
chia di sản thừa kế:......................................................................................50
3.1.2.Thực trạng áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế................55
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về phân chia di sản thừa
kế......................................................................................................................59
KẾT LUẬN........................................................................................................62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí
quan trọng trong các chế định pháp luật. Thừa kế được coi là một quyền cơ bản
của công dân và được ghi nhận trong Hiến pháp.
Ở Việt Nam, ngay từ chế độ phong kiến xa xưa đã có nhiều quy định
tương đối chặt chẽ về thừa kế. Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng, xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, các quy định này đã được ghi nhận, mở rộng,
phát triển và được thực hiện trên thực tế. Sự ra đời của Bộ luật dân sự năm 1995
(BLDS 1995), sau đó Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS 2005) đã đánh dấu
những bước ngoặt quan trọng của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về
thừa kế nói riêng, kịp thời đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Tuy vậy, đời sống xã hội vẫn luôn đổi thay từng ngày từng giờ của nên pháp
luật hiện hành chưa thể dự liệu hết những trường hợp, tình huống xảy ra trên thực
tế. Quan hệ thừa kế tuy là vấn đề được pháp luật điều chỉnh nhưng lại chịu sự tác
động không nhỏ của phong tục, tập quán, truyền thống, đạo đức. Phân chia di sản
thừa kế là một phần trong chế định thừa kế còn tồn tại một số quy định chung
chung, chưa chi tiết, cụ thể. Chính vì thế mà có nhiều quan điểm trái ngược nhau,
nên khi áp dụng để giải quyết tranh chấp thực tế sẽ xảy ra tình trạng không thống
nhât. Điều đó làm cho quyền thừa kế của công dân không được bảo đảm, thậm chí
còn gây bất ổn trong đời sống sinh hoạt của mỗi gia đình, cộng đồng và xã hội.
Trước bối cảnh hội nhập, với thực trạng nền kinh tế thị trường và xây
dựng nhà nước pháp quyền thì vấn đề tài sản thuộc sở hữu cá nhân ngày càng
phong phú, thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp. Các
vụ tranh chấp liên quan đến vấn đề này cũng gia tăng về số lượng. Toà án nhân
dân các cấp hàng năm đã thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ án thừa kế. Vì vậy,
di sản thừa kế và phân chia di sản thừa kế cũng đặt ra nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn cần được quan tâm hơn. Trước nhu cầu cấp bách cũng như tầm quan
2
quan trọng đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu, tập hợp làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn những quy định của pháp luật về phân chia di sản về thừa kế trong dân sự
một cách hệ thống là hết sức cần thiết hiện nay.
Với tinh thần đó, tác giả đã chọn đề tài: “Phân chia di sản thừa kế Những vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài bảo vệ khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Thừa kế di sản là vấn đề rộng và phức tạp, vừa có lịch sử hình thành và
phát triển khá phong phú mà trong đó bao gồm phân chia di sản thừa kế. Vấn đề
này đã được nghiên cứu trong nhiều công trình khoa học như: Luận án tiến sĩ
luật học của tác giả Phạm Văn Tuyết về đề tài: “Thừa kế theo di chúc theo quy
định của Bộ luật dân sự Việt Nam”; Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Phùng
Trung Tập với đề tài: “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ 1945
đến nay”; Luận án thạc sĩ luật học của tác giả Trần Thị Huệ với đề tài: “Xác
định di sản và việc thanh toán phân chia, di sản thừa kế theo pháp luật Việt
Nam”. Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Vũ Lê Thu Trang về: “Thanh toán và
phân chia di sản thừa kế” và nhiều bài viết, nghiên cứu đăng trên các tạp chí
chuyên ngành khác.
Tuy nhiên, mỗi công trình nghiên cứu lại khai thác đề tài ở những góc độ
và khía cạnh khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu về “Phân chia di sản thừa kế Những vấn đề lý luận và thực tiễn” cũng là một cách tiếp cận đem đến cái
nhìn mới về lĩnh vực này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1.Mục đích:
Mục đích của khóa luận là nghiên cứu, phân tích các vấn đề lý luận về
phân chia di sản thừa kế. Qua đó đánh giá thực trạng ở áp dung những quy định
của pháp luật về phân chia di sản thừa kế hiện nay. Qua đó góp phần vào việc
nhận thức đúng đắn hơn pháp luật dân sự và những hạn chế trong các quy định
pháp luật.
3
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi của một khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật học, tác giả chỉ
tập trung vào một khía cạnh chủ yếu liên quan đến việc phân chia di sản thừa kế
theo pháp luật Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
4.1. Cơ sở lý luận.
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về
pháp luật. Đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước về sở hữu, về thừa
kế trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngoài ra, tác giả còn sử
dụng một số phương pháp khoa học chuyên ngành khác như: phương pháp lịch
sử, phương pháp logíc, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương
pháp tổng hợp... để chứng minh cho những luận điểm đặt ra trong khóa luận.
5. Ý nghĩa của khóa luận
Khóa luận nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc phân
chia di sản thừa kế, qua đó nêu ra những hạn chế trong một số các quy định của
pháp luật còn chưa phù hợp dẫn đến tình trạng tranh chấp kéo dài trong thực tế
chưa giải quyết được triệt để. Đồng thời cũng đưa ra những kiến nghị, giải pháp
để góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này, giáo dục
và nâng cao ý thức pháp luật của người dân khi tham gia vào quan hệ pháp luật
thừa kế, thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
được cơ cấu thành 3 chương:
4
Chương 1: Một số vấn đề chung về phân chia di sản thừa kế.
Chương 2: Phân chia di sản thừa kế theo pháp luật hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế
tại Tòa án và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
5
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ
1.1. Khái niệm về di sản thừa kế và phân chia di sản thừa kế.
1.1.1.Khái niệm về di sản thừa kế
Từ xa xưa người Việt Nam ta đã có truyền thống lao động cần cù, chịu
thương chịu khó dành dụm chắt chiu cho con cháu, điều đó thể hiện tình cảm gia
đình và trách nhiệm của thế hệ trước đối với thế hệ sau. Khi người cha, người mẹ
về nơi suối vàng họ để lại gia tài cho con cái kế tục. Để nói về những gì đời trước,
người trước để lại cho đời sau, người sau người ta sử dụng thuật ngữ “di sản”.
Di sản là toàn bộ tài sản có giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần cùng với
các nghĩa vụ về tài sản được lưu truyền, tiêp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác,
từ đời này sang đời khác, được bảo hộ về mặt pháp lý [2. Tr 21].
Thuật ngữ “di sản” được sử dụng khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực của
đời sống. Song, trong từng lĩnh vực cụ thể: văn hóa xã hội, kinh tế... thì thuật
ngữ này lại được hiểu với những nghĩa khác nhau. Trên lĩnh vực pháp luật thuật
ngữ di sản được các nhà làm luật sử dụng để chỉ di sản thừa kế trong pháp luật
dân sự. Nó được hiểu như phần tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người chết để
lại cho những người còn sống khác.
Ở Việt nam từ trước đến nay chưa có một văn bản pháp luật nào đưa ra
định nghĩa thế nào là di sản thừa kế mà chỉ liệt kê về di sản thừa kế. Điều 634
BLDS 2005 quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Mà: “Tài sản bao gồm
vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” (Điều 163 BLDS 2005). Như vậy,
di sản có thể là hiện vật, tiền, giấy tờ trị giá được thành tiền, quyền tài sản thuộc
sở hữu của người để lại di sản.
Khi xem xét về vấn đề di sản thừa kế hiện nay còn nhiều quan điểm khác
nhau, những quan điểm này dựa trên quy định của pháp luật qua từng thời kì.
6
* Quan điểm thứ nhất cho rằng: Di sản thừa kế bao gồm các tài sản và
các nghĩa vụ tài sản của người chết để lại. Tức là, người để lại di sản thừa kế khi
còn sống ngoài những tài sản mà họ có thì còn có các khoản nợ (nghĩa vụ tài
sản) khác. Những nghĩa vụ này phát sinh từ các quan hệ dân sự như, nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng vay, nghĩa vụ trả tiền thuê
nhà... Các nghĩa vụ về tài sản họ để lại khi chết đi sẽ được dịch chuyển cho
những người thừa kế thực hiện đồng thời với việc dịch chuyển các tài sản. Pháp
luật nói chung và pháp luật thừa kế Việt Nam nói riêng trong thời kì phong kiến
phổ biến với quan điểm này vì luật tục “phụ trái tử hoàn”. Người thừa kế sẽ
phải thực hiện việc thanh toán nợ của người chết để lại kế cả trong trường hợp
tài sản của người chết để lại không đủ để trả hết nợ và phải chịu trách nhiệm vô
hạn với nghĩa vụ đó. Quan điểm này đã không còn phù hợp với sự phát triển của
đất nước, cho thấy sự bất công của chế độ cũ, chế độ bóc lột người dân của bọn
cường hào, địa chủ. Quy định của Sắc lệnh số 97/ SL ngày 22/5/1950 đã xóa bỏ
quy lệ bất công này.
* Quan điểm thứ hai cho rằng: Di sản thừa kế bao gồm tài sản và các
nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản của người chết để lại. Theo quan điểm này
thì tài sản mà người chết để lại bao gồm tài sản có và tài sản nợ là ngang bằng
nhau. Người thừa kế không phải thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản riêng của mình
mà chỉ thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản người chết để lại. Quan điểm
này khác với việc thực hiện nghĩa vụ tài sản ở quan điểm thứ nhất, không còn
tình trạng chịu trách nhiệm một cách vô hạn đối với các khoản nợ mà người chết
để lại, người thừa kế chỉ chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ tài sản của người
chết để lại trong phạm vi di sản họ được hưởng.
*Quan điểm thứ ba cho rằng: Di sản thừa kế chỉ bao gồm các tài sản của
người chết để lại mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản. Đây là quan điểm phù
hợp với những quy định của BLDS 1995 và BLDS 2005. Vì:
Thừa kế là thừa hưởng của cải của người đã khuất. Theo từ điển Tiếng
Việt thì thừa kế được định nghĩa là: “hưởng của người chết để lại cho” [11, Tr
7
972]. Với ý nghĩa này thì ta không thể nói người thừa kế “ được hưởng nghĩa vụ
tài sản” hay “ được hưởng các tài sản nợ”. Những “giá trị” không mang đến lợi
ích cho người tiếp nhận thì không được coi là di sản.Vì vậy, không thể coi các
nghĩa vụ là được thừa hưởng.
Mặt khác, về phương diện đạo đức truyền thống , theo suy nghĩ của người
Việt Nam cha mẹ sinh con thì có nghĩa vụ chăm lo, nuôi nấng con nên người.
Những việc làm mang tính “ bổn phận” không chỉ là trong hiện tại mà còn cho
cả tương lai sau này của người con, tạo ra “tiền đề vật chất” ban đầu cho con,
cho cháu. Người con, người cháu được thừa hưởng tài sản khi cha mẹ chết đi,
dựa vào đó mà làm ăn phát triển cuộc sống và sau này lại tích lũy tài sản cho con
cái của họ. Và tất nhiên những tài sản mà người chết để lại cho người được
hưởng phải thuộc quyền sở hữu của họ, không trái với các quy định của pháp
luật. Quyền thừa kế và quyền sở hữu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do tính
chất vĩnh viễn và tuyệt đối của quyền sở hữu mà nguyên tắc liên tục của việc
đảm nhận tư cách chủ sở hữu đối với tài sản được đặt ra:“ Thừa kế là việc dịch
chuyển tài sản của người chết sang cho những người còn sống khác” [2. Tr 33].
Như vậy, với ý nghĩa trên thì di sản chỉ là tài sản của người chết mà không bao
gồm các nghĩa vụ về tài sản.
Về phương diện pháp luật thì: “Những người hưởng thừa kế có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại...”
(Khoản 1 Điều 637 BLDS 2005). Cùng với việc nhận di sản thừa kế thì người
thừa kế có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ mà người chết để lại. Cần phải
hiểu, ở đây người thừa kế khi thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
không phải với tư cách là một chủ thể mới, họ không thay thế vị trí của chủ thể.
Họ thực hiện nghĩa vụ tài sản bằng tài sản của người chết. Khi thực hiện nghĩa
vụ trả nợ do người chết để lại và nhưng chi phí liên quan đến di sản thừa kế sẽ
xảy ra các trường hợp:
Một là, nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác nhỏ hơn khối tài sản mà người
chết để lại, trong trường hợp này tài sản vẫn còn để chia thừa kế.
8
Hai là, nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác lớn hơn hoặc bằng đúng khối
tài sản mà người chết để lại, trong trường hợp này tài sản không còn để chia
thừa kế. Và vì thế sẽ không có quan hệ nhận di sản.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 642 BLDS 2005 người thừa kế có quyền
từ chối nhận di sản. Nếu nhận di sản thì người thừa kế phải thực hiện các nghĩa
vụ tài sản do người chết để lại và ngược lại nếu họ không nhận di sản thì họ
không phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Rõ ràng ở đây
người thừa kế không bắt buộc phải nhận di sản để sau đó phải thực hiện các
nghĩa vụ tài sản của người chết cho chủ nợ.
Tóm lại, di sản thừa kế đươc hiểu là tài sản, các quyền tài sản mà người
đã chết có được một cách hợp pháp, không bao gồm các nghĩa vụ tài sản của
người đó để lại cho người hưởng thừa kế.
1.1.2.Khái niệm về phân chia di sản thừa kế
Hiện nay do sự phát triển kinh tế - xã hội dẫn đến tài sản tích lũy của mỗi
cá nhân và gia đình ngày càng nhiều. Vì vậy, các tranh chấp nói chung và các
tranh chấp liên quan đến vấn đề thừa kế nói riêng ngày càng tăng về số lượng
đồng thời mang tính chất phức tạp hơn. Đích cuối cùng của tranh chấp thừa kế
giữa các bên chủ thể là xác định di sản và phân chia di sản thừa kế đúng để đảm
bảo quyền, lợi ích của những người được hưởng thừa kế.
Trong quan hệ thừa kế nếu chỉ có một người có quyền hưởng di sản thì họ
là sở hữu duy nhất của khối di sản sau khi đã thực hiện các nghĩa vụ tài sản của
người chết để lại và cũng chỉ có mình họ phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản đó.
Vì lẽ đó mà việc phân chia di sản thừa kế chỉ đặt ra khi có ít nhất từ hai người
trở lên có quyền thừa kế đối với khối di sản của người chết để lại.
Vậy, thế nào là phân chia di sản thừa kế? Phân chia di sản thừa kế là tập
hợp các hoạt động nhằm xác lập quyền sở hữu đối với phần di sản cho từng
người một có quyền hưởng thừa kế trong khối di sản chung sau khi đã thực hiện
nghĩa vụ tài sản từ di sản. Chấm dứt tình trạng nhiều người cùng có quyền được
hưởng thừa kế từ một hoặc nhiều tài sản do người chết để lại.
9
1.2. Phần di sản thừa kế được phân chia cho những người thừa kế:
Kể từ thời điểm mở thừa kế thì bất cứ lúc nào những người thừa kế cũng
có quyền yêu cầu phân chia di sản. Phụ thuộc vào sự thỏa thuận của những
người thừa kế mà di sản có thể đem chia ngay lúc đó hoặc qua một thời gian dài,
ngắn khác nhau. Nhưng thông thường di sản ít khi đem ra chia ngay vì khi đó
trong nhà có người mất, đang lúc “tang gia bối rối”, đó là việc làm không hợp
với đạo đức, phong tục của người Việt Nam. Vì vậy, việc cử ra người quản lý di
sản để đảm bảo di sản còn nguyên giá trị có ý nghĩa quan trọng. Người này sẽ
tập hợp khối di sản của người chết để lại. Trong khối di sản mà người chết để lại
bao gồm cả phần nghĩa vụ (tài sản nợ) và cả phần di sản thừa kế (tài sản có). Mà
như đã nói ở trên: di sản thừa kế đươc hiểu là tài sản, các quyền tài sản mà
người đã chết có được một cách hợp pháp, không bao gồm các nghĩa vụ tài sản
của người đó để lại cho người hưởng thừa kế.
Việc xác định di sản thừa kế mà người chết để lại căn cứ vào giấy tờ, tài
liệu chứng minh quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp đối với khối tài sản đó.
Đối với trường hợp di sản thừa kế là tài sản thuộc sở hữu chung thì việc xác
định tài sản chung của người để lại di sản có thể dựa trên những thỏa thuận đã
có từ trước hoặc căn cứ vào văn bản do cơ quan có thẩm quyền ban hành.
Cần chú ý là không phải tất cả các tài sản, quyền tài sản đều được xem là di
sản thừa kế. Quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản gắn liền với nhân thân người để
lại di sản không được coi là di sản thừa kế, như: quyền nhận trợ cấp, quyền được
nhận lương, nghĩa vụ cấp dưỡng của người để lại di sản khi còn sống cho quan
hệ hôn nhân và gia đình (cho con chưa thành niên, con thành niên nhưng không
có khả năng lao động…). Vì những quyền và nghĩa vụ tài sản này chấm dứt khi
người để lại di sản chết mà pháp luật quy định không được chuyển cho những
người thừa kế. Những chi phí phát sinh sau thời điểm phân chia di sản thừa kế
mà không liên quan đến cái chết của người để lại di sản và các chi phí không
phải do yêu cầu từ các nghĩa vụ thanh toán di sản thì không phải khoản nợ di
10
sản. Ở đây, xin đề cập đến phần di sản được phân chia thừa kế trong hai trường
hợp sau:
1.2.1. Xác định di sản chia thừa kế theo pháp luật:
Khối di sản sẽ được phân chia theo quy định của pháp luật trong trường
hợp được quy định tại Điều 675 BLDS 2005. Lúc này phần di sản được phân
chia cho những người thừa kế sẽ được tính như sau:
Di sản còn lại để phân chia = Tổng khối di sản – ( Nghĩa vụ tài sản mà
người chết để lại + các chi phí khác)
Nếu người để lại di sản thừa kế đồng thời để lại nghĩa vụ về tài sản mà di
sản lại được phân chia ngay từ thời điểm mở thừa kế thì những người được
hưởng thừa kế phải cùng nhau thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong phạm vi di sản
mình được hưởng chứ không được trốn tránh.
Khi thanh toán nghĩa vụ tài sản có thể xảy ra ba trường hợp:
Trường hợp thứ nhất: Tổng tài sản của người chết lớn hơn tổng các nghĩa
vụ người đó để lại.
Trường hợp thứ hai: Tổng tài sản của người chết nhỏ hơn tổng các nghĩa
vụ người đó để lại.
Trường hợp thứ ba: Tổng tài sản của người chết bằng tổng các nghĩa vụ
người đó để lại.
Về nguyên tắc nếu chủ thể có quyền yêu cầu thì tất cả các nghĩa vụ về tài
sản phải được thanh toán, nhưng không phải lúc nào số di sản mà người chết để
lại cũng đủ để thanh toán hết các nghĩa vụ tài sản trên nên pháp luật hiện hành
đã quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán, căn cứ vào lợi ích của các chủ thể, mức
độ cần thiết đối với tài sản của người được thanh toán (Điều 638 BLDS 2005)
Quy định này mang tính kế thừa và phát triển các quy định tại Điều 10 Sắc lệnh
số 97/SL ngày 22/5/1950: “...Khi nhận thừa kế thì các chủ nợ của người chết
cũng không có quyền đòi nợ quá số di sản để lại”.
Các chi phí khác được nói đến ở đây có thể là tiền mai táng cho người
chết, tiền trả thù lao cho người quản lý di sản, các chi phí để quản lý, bảo quản
11
di sản thừa kế… Tất cả những chi phí này không được coi là nghĩa vụ về tài sản
do người chết để lại.
1.2.2. Xác định di sản chia thừa kế trong trường hợp có di chúc.
Nếu người chết có để lại di chúc thì xảy ra nhiều trường hợp. Giả sử,
trong di chúc người chết có để lại di tặng và di sản dùng vào việc thờ cúng thì
phần để phân chia cho những người thừa kế sẽ được tính như sau:
Di sản còn lại để phân chia = Tổng khối di sản - (Thanh toán nghĩa vụ nợ
+ di tặng + di sản dùng vào việc thờ cúng + người hưởng di sản theo Điều 669)
Cũng có trường hợp người chết để lại di chúc chỉ để lại di sản cho việc
thờ cúng hoặc chỉ có di tặng, có trường hợp không để lại cả hai và cũng không
xuất hiện người thừa kế theo Điều 669 BLDS 2005.
Từ năm 1945 cho đến trước ngày BLDS 1995 được ban hành không có
văn bản pháp luật nào quy định về di tặng. Di tặng thể hiện ý chí đơn phương
của người lập di sản và phải được ghi rõ trong di chúc. Người nhận di tặng
không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản với phần di tặng trừ trường hợp toàn bộ tài
sản của người để lại di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ nợ. Khi di tặng là
vật đặc định mà không còn tồn tại cho đến khi người được hưởng di tặng biết
được quyền của mình thì họ không được quyền đòi bồi hoàn từ những người
thừa kế, họ không được hưởng vật ấy.
Thờ cúng tổ tiên, người đã khuất là một phong tục, tín ngưỡng tâm linh từ
xa xưa của người Việt ta, việc này cho đến nay vẫn rất được coi trọng trong
nhiều gia đình. Nếu như theo pháp luật hiện nay không bắt buộc phải để lại di
sản thờ cúng thì theo pháp luật phong kiến để di sản thờ cúng là việc cần thiết và
bắt buộc. Vì vậy, từ Quốc triều hình luật, Hoàng Việt luật lệ cho đến các Bộ Dân
luật Bắc kì, Dân luật Trung kì pháp luật đều quy định cụ thể, chặt chẽ về di sản
thờ cúng. Tại Điều 388 Bộ Quốc triều hình luật quy định về việc lập di sản thờ
cúng trong trường hợp không để lại di chúc là 1/20 toàn bộ giá trị điền sản làm
hương hỏa. Còn Bộ Dân luật bắc kì, Dân luật trung kì quy định: “Phần gia tài
lập thành hương hỏa trong mọi trường hợp, dù là số thừa kế bao nhiêu nữa
12
cũng không thể quá 1/5 giá trị của cải của người lập hương hỏa” (Điều 399 và
Điều 406). Từ sắc lệnh số 97/SL ngày 22/05/1950 cho đến trước ngày Tòa án
nhân dân tối cao ban hành Thông tư số 81, ở nước ta không có một văn bản pháp
luật nào quy định về di sản thờ cúng. BLDS năm 1995 và BLDS hiện hành năm
2005 đã quan tâm đến vấn đề này và có sự hoàn thiện hơn so với các văn bản
pháp luật trước đây (Điều 673 BLDS 1995 và Điều 670 BLDS 2005). Để tránh
tình trạng lợi dụng việc sử dụng di sản thờ cúng nhằm trốn tránh các nghĩa vụ tài
sản các nhà làm luật đã dự liệu và quy định: “Trong trường hợp toàn bộ khối di
sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì
không được dùng một phần di sản vào việc thờ cúng”. Tuy nhiên, những quy
định về vấn đề này còn sơ lược chỉ đề cập đến khía cạnh kinh tế mà chưa thực
sự lưu ý đến ý nghĩa sâu xa của loại di sản này.
Người hưởng di sản theo Điều 669 là những người hưởng di sản không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Quy định này trong BLDS hiện hành nhằm
hạn chế quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc để bảo vệ quyền và lợi ích
thiết thực cho một số người thừa kế theo pháp luật.
1.3. Căn cứ phân chia di sản thừa kế:
1.3.1. Khái niệm căn cứ phân chia di sản thừa kế:
Khi phân chia di sản thừa kế có thể phân chia theo di chúc hoặc theo pháp
luật, nhưng dù là phân chia theo di chúc hay phân chia theo pháp luật thì đều
phải căn cứ vào những quy định chung của pháp luật về thừa kế, qua đó xác định
người thừa kế hưởng di sản theo phương thức nào, trình tự, thủ tục ra sao.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật dân sự nói
riêng, không tồn tại khái niệm “căn cứ phân chia di sản thừa kế” mà mới chỉ có
các khái niệm như “căn cứ pháp lý”, “căn cứ xác lập quyền sở hữu”, “căn cứ
chấm dứt quyền sở hữu”...Ngay cả trong các công trình nghiên cứu khoa học
cũng chưa có tài liệu nào đưa ra khái niệm chính thức về “căn cứ phân chia di
sản thừa kế”. Vì vậy việc đưa ra một khái niệm chuẩn là cần thiết để có cách
hiểu thống nhất về “căn cứ phân chia di sản thừa kế”.
13
“Căn cứ” trong Từ điển Tiếng Việt được hiểu ở các khía cạnh sau:
- Dựa vào làm cơ sở để lập luận hoặc hành động;
- Cái làm chỗ dựa, làm cơ sở để lập luận hoặc hành động.[11.Tr 118].
Vậy có thể hiểu: căn cứ phân chia di sản thừa kế là những sự kiện pháp
lý mà trên cơ sở đó các chủ thể tiến hành việc phân chia di sản thừa kế.
1.3.2. Các căn cứ phân chia di sản thừa kế:
1.3.2.1. Theo sự thoả thuận của tất cả những người thừa kế
Thừa kế là quan hệ giữa những người trong gia đình với nhau (ông bà, bố
mẹ, con cái...), giữa những người thân quen nên việc phân chia di sản thừa kế
phải dựa trên tính tự nguyện thỏa thuận, đoàn kết của những người được hưởng
thừa kế, tránh gây sứt mẻ tình cảm gia đình, bạn bè. Mặt khác, Điều 4 BLDS
2005 đã ghi nhận nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận; đây là nét
đặc thù của những quan hệ dân sự. Tôn trọng quyền định đoạt thỏa thuận của
các bên trong thừa kế là sự cụ thể hóa nguyên tắc cơ bản này. Tòa án chỉ tham
gia giải quyết trong trường hợp những người thừa kế không tìm được “tiếng nói
chung”. Khi những người thừa kế đã đạt được sự thỏa thuận thống nhất về cách
chia thì đó có thể là căn cứ để phân chia di sản.
Tuy nhiên, để đạt được thoả thuận này không phải đơn giản bởi nó liên
quan đến lợi ích kinh tế giữa mỗi người mà nhiều khi vì lòng tham, sự ích kỉ họ
không muốn nhường nhịn nhau để đi đến thoả thuận chung.
Khi phân chia di sản theo thỏa thuận, người thực hiện phân chia di sản có
thể tham gia nhưng đây không phải là điều kiện bắt buộc. Người thực hiện phân
chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản. Người phân chia di sản thừa
kế chỉ là người thừa hành các quyết định của người lập di chúc hoặc những
người hưởng thừa kế.
“Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản”
(Khoản 2 Điều 681 BLDS 2005), trong trường hợp: “Những người thừa kế theo
pháp luật hoặc theo di chúc mà trong di chúc không xác định rõ phần di sản
14
được hưởng của từng người thì họ có quyền yêu cầu công chứng văn bản thoả
thuận phân chia di sản...” (Khoản 1 Điều 49 Luật Công chứng 2006).
1.3.2.2. Theo ý chí định đoạt của người lập di chúc
“Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà
ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh
nghiệp hoặc trong tổ chức kinh tế khác ... Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp
pháp và quyền thừa kế của công dân” (Điều 58 Hiến pháp năm 1992). Công dân
có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Như vậy, quyền của các chủ
thể trong quan hệ thừa kế mà cụ thể là giữa người để lại di sản với người thừa kế
và các chủ thể khác cần phải được bảo đảm. Trong trường hợp khi mở thừa kế
có di chúc của người để lại di sản thì chia khối di sản theo di chúc. Nếu người
thừa kế không từ chối nhận di sản thì họ trở thành chủ sở hữu đối với khối tài
sản được phân chia.
Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho
người khác còn sống theo quyết định của người đó trước khi chết được thể hiện
trong di chúc [12.Tr 323]. Người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân còn người
thừa kế là bất kì có thể là cá nhân hoặc tổ chức hoặc Nhà nước điều này phụ
thuộc vào ý chí của người lập di chúc, pháp luật không thể quy định trong mọi
trường hợp phải theo một khuôn mẫu nhất định do Nhà nước định ra. Tùy vào ý
chí của người lập di chúc mà người được thừa kế theo di chúc được hưởng các
phần di sản nhiều ít khác nhau thậm chí là chênh lệch rất lớn ví dụ: người bố khi
chết để lại di chúc cho hai người con nhưng ông lại yêu thương người con út
hơn nên người con cả được 800 triệu, người con út được hưởng một ngôi nhà trị
giá 1,5 tỷ... Nhà nước ta luôn ưu tiên phương thức dịch chuyển di sản theo di
chúc, pháp luật tôn trọng và đảm bảo ý chí của người để lại di chúc. Họ có thể
để lại di sản cho bất kì ai, kể cả những người không có quan hệ hôn nhân, huyết
thống, nuôi dưỡng với họ; họ có thể để lại một phần di sản để tặng cho người
khác, di sản dùng vào việc thờ cúng...Tức là, họ được tự do thể hiện ý chí, Nhà
nước không ấn định trước phạm vi người được hưởng thừa kế theo di chúc.
15
Tóm lại, phân chia di sản theo ý chí định đoạt của người lập di chúc (theo
di chúc) là căn cứ để tiến hành việc phân chia di sản thừa kế, làm phát sinh
quyền sở hữu của người có quyền hưởng thừa kế.
1.3.2.3. Theo quy định của pháp luật.
Các quy định của pháp luật cũng là căn cứ để tiến hành việc phân chia di
sản thừa kế, làm phát sinh quyền sở hữu của người có quyền hưởng thừa kế. Vì
thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật đều là hai phương thức dịch chuyển
tài sản từ người chết sang cho người sống và theo các trình tự do pháp luật quy
định, phải dựa vào các quy định của pháp luật thì mới xác định được là phân
chia di sản theo di chúc hay theo pháp luật.
Thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho
những người còn sống theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp
luật quy định [12.Tr 340].
Khác với việc phân chia di sản theo ý chí của người lập di chúc người
được hưởng thừa kế theo pháp luật là những người có quan hệ huyết thống, quan
hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản. Việc chia thừa kế
theo pháp luật đặt ra khi người chết để lại di sản mà không lập di chúc hoặc có
nhưng di chúc không có hiệu lực pháp luật, người thừa kế từ chối nhận di sản,…
đối với thừa kế theo pháp luật những người ở cùng một hàng thừa kế thì được
hưởng các phần di sản công bằng, ngang nhau.
Trong thực tiễn cũng có những trường hợp rất khó để phân biệt rõ ràng là
thừa kế theo di chúc hay thừa thừa kế theo pháp luật. Pháp luật thừa kế hiện đại
của các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam quy định, cho phép áp dụng hai
hình thức thừa kế theo pháp luật và theo di chúc để chia di sản trong từng trường
hợp cụ thể tức là được áp dụng đồng thời trong việc phân chia di sản thừa kế kể
cả theo di chúc và theo pháp luật.
16
1.4. Các nguyên tắc phân chia di sản thừa kế:
1.4.1 Nguyên tắc phân chia di sản thừa kế theo di chúc.
Giống như các chế định khác trong pháp luật dân sự, chế định quyền thừa
kế được ghi nhận và chịu sự điều chỉnh bởi các nguyên tắc chung của Luật Dân
sự. Nhưng đây là một chế định điều chỉnh một quan hệ mang nhiều tính đặc thù
trong xã hội, bị chi phối do yếu tố tình cảm, phong tục, tập quán nên có những
nguyên tắc riêng để điểu chỉnh làm cơ sở, định hướng cho những quy phạm
pháp luật về thừa kế phải tuân theo. Phân chia di sản là một phần trong chế định
thừa kế nên các nguyên tắc đó cũng được áp dụng cho các phương thức phân
chia di sản, nói cách khác chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bên cạnh
đó việc phân chia di sản vẫn có những nguyên tắc riêng. Tìm hiểu các nguyên
tắc này là rất cần thiết bởi phân chia di sản thừa kế đóng vai trò quan trọng trong
pháp luật thừa kế và trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp trong phân chia di
sản thừa kế.
Ở phần này xin được nói đến một số các nguyên tắc phân chia di sản thừa
kế theo di chúc.
- Tôn trọng ý chí của người lập di chúc:
Chiếm hữu, sử dụng và định đoạt là ba quyền năng của một cá nhân đối
với tài sản. Để lại di sản thừa kế là một trong những cách thức định đoạt tài sản
của chủ sở hữu. Nhà nước ta luôn tôn trọng ý chí của người lập di chúc, các
quyền của người lập di chúc được quy định tại Điều 648 BLDS 2005. Nhà nước
chỉ hạn chế ý chí của người lập di chúc trong môt số trường hợp nhất định. Nếu
di chúc không vi phạm các điều cấm của pháp luật thì việc phân chia di sản sẽ
theo di chúc của người chết. Việc này có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với những
người đã khuất thể hiện trách nhiệm đối với người đã khuất, thực hiện theo đúng
di nguyện của họ để họ yên tâm nhắm mắt. Mặt khác, đây là một truyền thống
lâu đời của nhân dân ta đồng thời qua đó khuyến khích những người còn sống
cũng cố gắng tạo ra nhiều của cải vật chất không chỉ vì lợi ích của bản thân mà
còn vì những người mình yêu thương.
17
- Tôn trọng sự thỏa thuận của những người thừa kế:
Thỏa thuận có một ý nghĩa rất quan trọng trong quan hệ thừa kế. Việc
phân chia di sản diễn ra như thế nào, có suôn sẻ hay không phụ thuộc rất lớn vào
ý chí của những người thừa kế. Tòa án chỉ tham gia giải quyết trong trường hợp
tranh chấp xảy ra khi những người thừa kế đã thỏa thuận bàn bạc với nhau
nhưng không đạt đến kết quả thống nhất. Pháp luật quy định: “Mọi thỏa thuận
của những người thừa kế phải được lập thành văn bản”. Điều 4 BLDS 2005 ghi
nhận nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Tôn trọng sự thỏa thuận
của những người thừa kế là việc cụ thể hóa của nguyên tắc này.
- Việc phân chia phải đảm bảo tình đoàn kết trong gia đình.
Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống
tốt đẹp quy định tại Điều 8 BLDS 2005. Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ
dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục,
tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì
cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân
tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Như chúng ta đã biết thừa kế là quan hệ bị chi phối bởi nhiều yếu tố tình
cảm, tập quán, tục lệ, truyền thống vì vậy việc phân chia di sản như thế nào để
đảm bảo tình đoàn kết, yêu thương giữa các thành viên trong gia đình, bảo đảm
tính nhân văn của thừa kế hết sức có ý nghĩa. Bám sát nguyên tắc này giúp cho
việc giải quyết phân chia di sản thừa kế thêm hợp tình, hợp lý.
Nhiều trường hợp trong gia đình đã xảy ra tranh chấp xô xát giữa các anh,
chị, em khi phân chia di sản của cha mẹ để lại; các cháu, chắt khi phân di sản
của ông, bà để lại…Điều này làm ảnh hưởng đến tình cảm của những thành viên
trong gia đình; đến truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta. Vì vậy, tự phân
chia di sản thừa kế giữa những người thừa kế là cách tốt nhất để đảm bảo tinh
thần đoàn kết trong nội bộ trong gia đình. Trường hợp không thoả thuận được thì
cần phân chia một cách bình đẳng, đảm bảo việc khai thác, sử dụng di sản, lợi
ích kinh tế của những người thừa kế…Chỉ khi những người thừa kế đã thỏa
18
thuận với nhau nhưng không đạt đến kết quả thống nhất Tòa án mới tham gia
giải quyết. Trên thực tế để giải quyết vấn đề này là hết sức khó khăn với những
người làm công tác chuyên môn; họ luôn phải theo sát những nguyên tắc nền
tảng để vừa đảm bảo cho mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình được
bền vững lại vừa đảm bảo cho việc thực hiện phân chia di sản theo ý chí của
người đã khuất.
1.4.2. Nguyên tắc phân chia di sản thừa kế theo pháp luật.
Nếu như ở phần trên ta đã nói đến các nguyên tắc phân chia di sản thừa kế
theo di chúc thì ở phần này chúng ta sẽ đề cập về các nguyên tắc phân chia di
sản theo pháp luật. Tìm hiểu các nguyên tắc này là rất cần thiết bởi quyền lợi
của những người thừa kế thừa kế sẽ bị ảnh hưởng nếu vi phạm các nguyên tắc
của thừa kế.
- Ưu tiên chia cho những người ở hàng thừa kế trước
Di sản của người chết được chia cho những người thân thích, gần gũi đối
với người chết.Tuy nhiên mức độ gần gũi, thân thiết của những người thân thích
đó với người chết là khác nhau khiến cho việc phân chia di sản thừa kế trở nên
khó khăn, phức tạp. Vấn đề này xảy ra ở rất nhiều nước trên thế giới chứ không
phải chỉ ở riêng Việt Nam. Và phần lớn các nước đặt ra qui định về hàng thừa kế
để giải quyết vấn đề này. Theo pháp luật hiện hành những người thừa kế theo
pháp luật được quy định thành từng hàng (Khoản 1 Điều 676 BLDS 2005).
Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất được coi là những người có quan hệ
gần gũi nhất đối với người chết, tiếp đến là những người ở hàng thừa kế thứ hai
và thứ ba. Điều này là hết sức dễ hiểu. Khi sống người ta làm ra của cải không
chỉ chăm lo cho mình mà còn cho những nguời thân thiết như: nuôi con; nuôi
cháu; chăm sóc cha, mẹ già… Tâm lý chung khi họ ra đi là muốn để lại tài sản
cho những người gần gũi, yêu quý. Vì vậy, pháp luật ưu tiên chia cho những
người ở hàng thừa kế trước:“Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng
thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền
19
hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản” (Khoản 3
Điều 676 BLDS 2005).
- Chia hết cho những người ở hàng thừa kế trước
Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần
gũi với người chết và theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế
mà người chết để lại. Mà như đã nói ở trên khi phân chia di sản theo luật sẽ ưu
tiên cho những người ở hàng thừa kế trước. Do đó, di sản sẽ được chia thành
những phần bằng nhau và chia hết cho những người trong hàng thừa kế thứ nhất.
Nếu khi chia thừa kế mà không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất vì đã chết trước
người để lại di sản thừa kế mà không có ai thế vị hoặc có nhưng họ từ chối nhận
di sản hay không có quyền hưởng di sản theo Điều 643 BLDS 2005 hoặc bị
người để lại di di sản truất quyền thừa kế thì lúc này di sản mới được chia hết
cho những người thừa kế thuộc hàng thứ hai. Tương tự như vậy ở hàng thừa kế
thứ hai thì di sản được chia cho những người thuộc hàng thừa kế thứ ba.
Nếu không có ai trong hàng thừa kế thứ ba (người này không có họ hàng
thân thích, con cháu, sống lẽ loi cô độc...) thì di sản sẽ thuộc về nhà nước (Điều
644 BLDS 2005).
- Chia đều bằng nhau cho những người thừa kế cùng hàng
Nguyên tắc này là sự cụ thể hóa Điều 5 về nguyên tắc bình đẳng của
BLDS 2005 và thể hiện rất rõ trong Điều 52 Hiến pháp 1992. Đó là sự bình đẳng
giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự khi xác lập, thực hiện quyền và
nghĩa vụ dân sự. Trong quan hệ thừa kế nói chung và phân chia di sản thừa kế
nói riêng nguyên tắc này cần được đảm bảo. Những người cùng thuộc một hàng
thừa kế được hưởng phần di sản như nhau (Khoản 2 Điều 676 BLDS 2005). Các
con của người chết không phân biệt con trai, con gái, tuổi tác, con trong thời kì
hôn nhân, con ngoài giá thú, con nuôi, con đẻ đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
Vợ, chồng có quyền ngang nhau trong việc hưởng tài sản chung... Đây là sự
khác biệt giữa pháp luật hiện hành với pháp luật thực dân - phong kiến trước kia
chỉ coi người phụ nữ là nộ lệ, phân biệt đối xử giữa các thành viên trong gia
20
đình (như: con vợ lẽ và vợ cả...). Nguyên tắc này thực sự là một là một điểm tiến
bộ của pháp luật hiện nay, phải trải qua cuộc đấu tranh gian khổ mới có được.
Và đây cũng là điểm khác biệt của phân chia di sản theo di chúc và phân chia di
sản theo pháp luật bởi phân chia di sản theo di chúc phụ thuộc ý chí và tâm lý
của người lập di chúc như: cùng là các con của người đã chết nhưng có khi lại
được nhận những phần không đều nhau, thậm chí có người được hưởng, người
không...
- Phân chia di sản phải ưu tiên cho một số thành viên trong gia đình.
Ưu tiên cho một số thành viên trong gia đình không có nghĩa là thiên vị
họ hơn những người khác trong gia đình, cũng không có nghĩa là trái với nguyên
tắc bình đẳng và không tôn trọng ý chí của người lập di chúc. Bởi về bản chất
thừa kế mang tính nhân văn sâu sắc, góp phần giúp cho những người trong gia
đình thêm đoàn kết, yêu thương nhau. Khi phân chia di sản cần chú ý đến năng
lực hành vi, tuổi tác, hoàn cảnh kinh tế của từng người thừa kế. Quan tâm tới
những người chưa thành niên, người không có khả năng lao động, người già
yếu... khi chia thừa kế để những người này có điều kiện sống tốt hơn, ít nhất là
trong giai đoạn trước mắt. Đây cũng là đạo lý của người Việt Nam ta.
Về nguyên tắc trong trường hợp di chúc hợp pháp có hiệu lực thì những
người thừa kế sẽ được hưởng đúng phần người lập di chúc chỉ định, sự định đọat
này được pháp luật tôn trọng. Tuy nhiên trong trường hợp người lập di chúc
không cho hoặc cho hưởng phần ít hơn so với quy định của pháp luật đối những
đối tượng là: con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con đã thành niên mà
không có khả năng lao động hưởng thừa kế thì pháp luật sẽ ưu tiên cho những
người này, họ được hưởng một tỷ lệ nhất định trong khối di sản người chết để
lại. Xét cho cùng, đây là những người có quan hệ tình cảm gần gũi với người đã
chết, có quan hệ hôn nhân, huyết thống, họ có các quyền và nghĩa vụ đối với người
chết hoặc ngược lại người lập di chúc có các quyền, nghĩa vụ đối với họ như: chăm
sóc, nuôi dưỡng cha mẹ già, con nhỏ... nên điều này là hoàn toàn hợp lý.
21
1.5. Ý nghĩa của các quy định pháp luật về phân chia di sản thừa kế
Quan hệ thừa kế là một trong những quan hệ xã hội, diễn ra trong đời
sống thường ngày. Việc phân chia di sản góp phần làm ổn định quan hệ xã hội
này và các quan hệ xã hội khác có liên quan. Mặt khác, còn mang nhiều ý nghĩa
thiết thực.
- Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của những người được hưởng thừa kế:
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân và nó có là
phương tiện để duy trì, củng cố quyền sở hữu trong xã hội. Theo Điều 636
BLDS 2005: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền,
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”. Như vậy, những người được hưởng thừa
kế sẽ trở thành chủ sở hữu đối với tài sản mà người chết để lại. Nhưng chỉ sau
khi việc phân chia di sản diễn ra họ mới là chủ thể “thực sự” đối với những tài
sản đó, có các quyền năng đầy đủ của một chủ sở hữu, bởi họ biết được cụ thể
khối tài sản mà họ được thừa kế từ đó mà có trách nhiệm gìn giữ, chăm sóc . Vì
thế mà việc phân chia di sản thừa kế có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
những người được nhận di sản thừa kế. Việc phân chia di sản chính xác, đầy đủ
sẽ tránh được những tranh chấp không đáng có giữa những người thừa kế, tình
cảm giữa các thành viên trong gia đình và những người thân thuộc được giữ vững
và là cơ sở để hoàn thành các nghĩa vụ, trách nhiệm và tình cẩm đối với người đã
khuất. Đối với những người thuộc diện “ưu tiên” trong gia đình, con chưa thành
niên, người không có khả năng lao động, hoàn cảnh kinh tế còn gặp nhiều khó
khăn thì việc được nhận di sản thừa kế lại càng có ý nghĩa sâu sắc, vì bản chất của
thừa kế là giữ vững tình đoàn kết trong gia đình. Phân chia di sản chính xác đảm
bảo quyền và lợi ích của những đối tượng trên, không để họ bị thiệt thòi, tránh
tình trạng những người có quyền hưởng thừa kế lại không được hưởng.
- Bảo đảm quyền và lợi ích của người có liên quan:
Việc phân chia di sản thừa kế không chỉ mang ý nghĩa đối với người được
hưởng thừa kế mà còn có ý nghĩa đối với những người khác. Trong trường hợp
người đã chết để lại cả di sản và những nghĩa vụ tài sản (các khoản nợ), những