Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Một số vấn đề lý luận về cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.74 KB, 12 trang )

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẢI CÁCH THỦ TỤC
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC CÔNG CHỨNG Ở VIỆT NAM.
1.1. Khái niệm cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng
1.1.1 Khái niệm công chứng
Mặc dù công chứng với tư cách là một thể chế pháp lý đã hình thành ở nước
ta khá lâu, từ những năm 1930 dưới thời Pháp thuộc (thời bấy giờ được gọi là
chưởng khế), nhưng mãi cho đến năm 1987 thì thuật ngữ pháp lý “Công chứng”
mới bắt đầu được sử dụng một cách rộng rãi. Việc xác định khái niệm công chứng
là vấn đề mấu chốt của hoạt động công chứng.
Theo từ điển Tiếng Việt: “Công chứng là sự chứng thực của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền nhằm xác nhận về mặt pháp lý các văn bản và bản sao từ bản
gốc” [22], còn theo nghĩa thông thường thì công chứng là “công quyền làm
chứng”. Về mặt pháp lý, khái niệm công chứng chính thức được quy định trong
văn bản pháp luật tại Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp một thông tư có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, khai sinh hệ thống công chứng Nhà
nước ở Việt Nam, theo đó công chứng được Nhà nước được xác định là một hoạt
động của Nhà nước với mục đích giúp các công dân, cơ quan, tổ chức lập và xác
nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện
đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động trên,
công chứng nhà nước tạo ra những đảm bảo pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với hiến pháp và pháp luật
của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật,
giúp cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường
pháp chế Xã hội chủ nghĩa” [15]. Lần đầu tiên kể từ khi thành lập Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà (1945), khái niệm công chứng Nhà nước được ghi nhận
chính thức trong một văn bản pháp luật ở Việt Nam, đánh dấu sự đổi mới về tư
duy pháp lý, bước đầu đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế ở giai đoạn đầu của thời kỳ
chuyển đổi. Tuy nhiên, là văn bản pháp lý đầu tiên về công chứng trong giai đoạn
đầu của thời kỳ đổi mới nên văn bản này không thể tránh hết được các hạn chế, đó
là: chưa xác định được chủ thể, đối tượng của hoạt động công chứng cũng như nội



dung việc công chứng, chưa phân biệt rõ hoạt động công chứng với hoạt động của
các cơ quan Nhà nước khác. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đã làm tăng nhanh cả về số lượng và quy mô các giao lưu dân sự,
kinh tế, thương mại, đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với hoạt động công
chứng.[29]
Do đó, trong vòng 10 năm (1991 – 2000), khái niệm về công chứng tiếp tục
được chỉnh sửa và đề cập đến trong 3 Nghị định của Chính phủ ban hành về tổ
chức và hoạt động công chứng Nhà nước: Nghị định số 45/HĐBT (tại Điều 1)
ngày 27 tháng 2 năm 1991 về tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nước, Nghị
định số 31/CP (tại Điều 1) ngày 18 tháng 5 năm 1996 về tổ chức và hoạt động
công chứng Nhà nước và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP (tại Điều 2) ngày 8 tháng
12 năm 2000 về công chứng, chứng thực.
Qua các giai đoạn khác nhau thì khái niệm về công chứng có những thay đổi
nhất định. Sự thay đổi này thể hiện quan điểm của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền về công chứng trước sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước,
nhưng xét về bản chất và mục đích của các hành vi này thì vẫn không thay đổi.
Nghiên cứu các khái niệm về công chứng trong các văn bản nêu trên ta thấy hầu
hết các khái niệm đều chứa những yếu tố sau: Chủ thể thực hiện hành vi công
chứng; nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng; và
mục đích của hành vi công chứng. Theo đó thì công chứng là việc xác nhận tính
hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch; chủ thể thực hiện hoạt động xác nhận hợp
đồng, giao dịch là chủ thể được sử dụng quyền lực Nhà nước, thay mặt Nhà nước
thực hiện hoạt động công chứng. Các khái niệm công chứng trong các văn bản
trên dù cố gắng thể hiện một cách cơ bản nhất, ngắn gọn nhất về công chứng,
chứng thực, nhưng do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan nên các khái niệm này
vẫn chưa lột tả được bản chất của hoạt động công chứng dưới dạng khái quát nhất.
Các khái niệm đó cũng chưa xác định rõ chủ thể của hoạt động công chứng là cá
nhân hay là cơ quan chủ quản của các cá nhân đó; vấn đề này có ý nghĩa quyết
định trong việc tổ chức hoạt động, cũng như trong việc xác định trách nhiệm pháp
lý mà những cá nhân trực tiếp thực hiện hành vi công chứng phải gánh chịu, chưa

xác định được rõ nét nội dung của hành vi công chứng...


Việc tồn tại những bất cập của các văn bản pháp luật cũ đã không đáp ứng
được yêu cầu của xã hội về công chứng hợp đồng, giao dịch, do đó đã thúc đẩy
Nhà nước ban hành Luật công chứng 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tại
Điều 2 của Luật công chứng năm 2006 định nghĩa công chứng như sau: “Công
chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp
đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo
quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu
công chứng”. Như vậy, công chứng đã được tách biệt ra khỏi chứng thực, hoạt
động chứng thực được quy định tại Nghị định 79/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc,
chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Căn cứ vào định nghĩa này
của Luật công chứng 2006, chúng ta có thể thấy công chứng có những đặc điểm
sau đây:
- Về chủ thể, có thể xác định rõ chủ thể có thẩm quyền công chứng là công
chứng viên, điều này đã khắc phục được hạn chế của các văn bản pháp luật trước
đây khi nêu ra khái niệm công chứng; đồng thời giúp phân biệt với chứng thực - là
hành vi của người đại diện của cơ quan hành chính công quyền.
- Về nội dung của hành vi công chứng: chứng nhận tính xác thực của hợp
đồng bằng văn bản, giao dịch khác. Tính xác thực của các tình tiết, sự kiện trong
hợp đồng, giao dịch khác là vô cùng quan trọng nhằm bảo đảm cho chúng có giá
trị chứng cứ. Trong pháp luật về tố tụng, khi nói đến chứng cứ thì bao giờ cũng đề
cao tính xác thực của các sự kiện, tình tiết có thực, khách quan được coi là chứng
cứ. Sở dĩ pháp luật coi văn bản công chứng có giá trị chứng cứ cũng là do tính xác
thực của các tình tiết, sự kiện có trong văn bản đó đã được công chứng viên xác
nhận. Tính xác thực này được công chứng viên kiểm chứng và xác nhận ngay khi
nó xảy ra trong thực tế, trong số đó có những tình tiết, sự kiện chỉ xảy ra một lần,
không để lại hình dạng, dấu vết về sau (ví dụ: sự tự nguyện của các bên khi ký kết
hợp đồng) và do đó, nếu không có công chứng viên xác nhận thì về sau rất dễ xảy

ra tranh chấp mà toà án không thể xác minh được.
Như vậy, có thể thấy, Luật công chứng 2006, cùng các văn bản hướng dẫn
thi hành đã phần nào đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi của xã hội. Về cơ bản, khái
niệm công chứng theo pháp luật hiện hành có sự kế thừa khái niệm công chứng


trong các văn bản trước đây, tuy nhiên cũng khắc phục được cơ bản các hạn chế
mà các văn bản pháp luật trước đây tồn tại.
1.1.2. Khái niệm thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng
Theo từ điển tiếng Việt thông dụng, “thủ tục là cách thức tiến hành một công
việc với nội dung, trình tự nhất định, theo quy định của Nhà nước”. Mỗi hoạt động
quản lý thực chất là một chuỗi những hoạt động diễn ra theo trình tự nhất định mà
mỗi hoạt động cụ thể được thực hiện bởi những chủ thể cụ thể, ở những thời điểm
khác nhau. Kết quả của hoạt động quản lý phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó
phụ thuộc một phần đáng kể vào số lượng, thứ tự các hoạt động cụ thể trong một
chuỗi hoạt động thống nhất, tức là phụ thuộc vào thủ tục tiến hành các hoạt động
quản lý đó [27].
Theo từ điển Luật học, “Thủ tục hành chính là cách thức và trình tự thực
hiện thẩm quyền quản lý hành chính Nhà nước và cách thức tham gia vào các
công việc quản lý hành chính Nhà nước của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong quản lý hành chính Nhà nước theo quy
định pháp luật”. [22]
Quan điểm này cũng được thể hiện trong các văn kiện của Đảng (Nghị quyết
đại hội Đảng VII, Nghị quyết trung ương lần thứ 8 khóa VII, Nghị quyết đại học
Đảng VIII, IX, X) và các văn bản pháp luật (Nghị quyết của Chính phủ số 38/CP
ngày 4/5/1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết của
công dân và tổ chức, Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước
giai đoạn 2001 – 2010); theo đó thì thủ tục hành chính có nội dung rất rộng, bao
gồm:

+ Số lượng các hoạt động cụ thể cần thực hiện để tiến hành những hoạt động
quản lý nhất định;
+ Nội dung, mục đích của các hoạt động cụ thể;
+ Cách thức tiến hành, thời hạn tiến hành các hoạt động cụ thể;
+ Trình tự các hoạt động cụ thể, mối liên hệ giữa các hoạt động đó.


Đây là cách hiểu đầy đủ nhất về thủ tục hành chính. Đồng thời cách hiểu này
cũng cho phép đánh giá đúng ý nghĩa, vai trò của thủ tục hành chính trong quản lý
Nhà nước, tạo điều kiện cho việc tìm hiểu nhu cầu, định ra phương hướng, biện
pháp thích hợp để cải cách thủ tục hành chính nhằm xây dựng nền hành chính hiện
đại, đáp ứng nhu cầu quản lý Nhà nước trong điều kiện hiện nay.
Như vậy, thủ tục hành chính là cách thức tổ chức thực hiện hoạt động quản
lý hành chính Nhà nước được quy định trong các quy phạm pháp luật hành chính
bao gồm trình tự, nội dung, mục đích, cách thức tiến hành các hoạt động cụ thể
trong quá trình giải quyết các công việc của quản lý hành chính Nhà nước.[27]
Thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng là một loại thủ tục hành chính
trong một lĩnh vực quản lý hành chính cụ thể của Nhà nước, đó là lĩnh vực công
chứng; do đó khi hiểu về khái niệm thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng
chúng ta cũng phải dựa trên những nội dung và đặc điểm của thủ tục hành chính
nói chung. Theo đó thì thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng cũng được
quy định trong các quy phạm pháp luật hành chính, bao gồm các vấn đề về: trình
tự, nội dung, mục đích, cách thức tiến hành các hoạt động cụ thể trong quá trình
giải quyết các công việc của quản lý hành chính trong lĩnh vực công chứng; chủ
thể thực hiện chúng là các chủ thể quản lý hành chính Nhà nước, các chủ thể này
bao gồm các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, cá nhân được Nhà nước trao quyền.
Các chủ thể đó có mối quan hệ nội bộ và giữa các chủ thể thì có mối quan hệ với
nhau, đồng thời cũng có mối quan hệ với các tổ chức, cá nhân khác, thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn mà Nhà nước trao để giải quyết các công việc của quản lý
hành chính trong lĩnh vực công chứng.

Vì vậy, có thể hiểu thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng là trình tự,
thủ tục, cách thức tiến hành các hoạt động cụ thể trong quá trình giải quyết công
việc thuộc lĩnh vực công chứng của các cơ quan, tổ chức, cá nhân (gọi chung là
các chủ thể) được Nhà nước trao thẩm quyền, thông qua các quy định trong các
quy phạm pháp luật mà Nhà nước ban hành. Trong mối quan hệ với các cơ quan,
tổ chức và cá nhân công dân, các chủ thể này thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và
các cơ quan, tổ chức, cá nhân công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình


theo một trình tự nhất định khi tiến hành các hoạt động công chứng; để hướng tới
giải quyết các công việc của quản lý hành chính trong lĩnh vực công chứng.
1.1.3. Khái niệm cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng
Có nhiều cách hiểu về “cải cách”, ví dụ: “Cải cách là sửa đổi cho hợp lí,
cho phù hợp với tình hình mới” [36]; “Cải cách là sự đổi mới một số mặt của sự
vật nhưng không làm thay đổi căn bản sự vật đó” [37]; hoặc “Cải cách là sửa đổi
cái cũ đã trở thành lạc hậu để cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu của tình
hình”[38]...Nhưng có thể hiểu theo nghĩa chung nhất, cải cách là một biện pháp
được thực hiện để giải quyết những đòi hỏi của thực tiễn với mục tiêu rõ ràng,
chương trình cụ thể; để thay đổi cơ bản một trạng thái, một đối tượng, làm cho đối
tượng đó có sự biến đổi phù hợp với yêu cầu khách quan của quá trình phát triển,
làm cho nó tốt hơn theo nhu cầu của con người. [32]
Công cuộc cải cách hành chính do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Nhà nước
thực hiện trong hơn 15 năm qua đã được tiến hành tương đối đồng bộ, trong đó thủ
tục hành chính được chọn làm khâu đột phá. Thể chế hóa đường lối cải cách của
Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, trong đó có những văn bản
quy định trực tiếp về nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính như Nghị quyết của
Chính phủ số 38/CP ngày 4/5/1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính trong
việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức, Quyết định số 136/2001/QĐTTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình tổng thể
cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001- 2010.
Dựa trên khái niệm về thủ tục hành chính và cách hiểu chung nhất về cải

cách, chúng ta có thể hiểu cải cách thủ tục hành chính là các biện pháp được thực
hiện để giải quyết yêu cầu của thực tiễn khi thủ tục hành chính bộc lộ, tồn tại
nhiều nhược điểm; trong đó thực hiện các biện pháp với mục tiêu rõ ràng, chương
trình cụ thể để đổi mới, hoàn thiện trình tự, nội dung, cách thức tiến hành các
hoạt động cụ thể trong quá trình giải quyết các công việc của quản lý hành chính
Nhà nước, làm cho nó thay đổi phù hợp với yêu cầu của thời kỳ phát triển mới của
đất nước.


Vấn đề cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng được đặt ra
trong bối cảnh chung của cải cách nền hành chính với việc lấy cải cách thủ tục
hành chính là khâu đột phá ở nước ta. Do đó, nội dung, mục đích của cải cách thủ
tục hành chính trong lĩnh vực công chứng cũng không nằm ngoài phạm vi quá
trình cải cách thủ tục hành chính nói chung. Công chứng là một loại hình dịch vụ
công do công chứng viên thực hiện, đối tượng của hoạt động công chứng là các
hợp đồng, giao dịch về dân sự, kinh tế, thương mại...Cải cách thủ tục hành chính
trong lĩnh vực công chứng nhằm để hoàn thiện nội dung, trình tự, thủ tục, cách
thức tiến hành các hoạt động của loại hình dịch vụ công này; mà quan trọng nhất
là biện pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến thủ tục hành
chính trong lĩnh vực công chứng, nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân và yêu cầu
của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Xây
dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng thiết
yếu, bình đẳng cho mọi người dân...Đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung
ứng dịch vụ công...Phát huy tiềm năng, trí tuệ và các nguồn lực vật chất trong
nhân dân, của tất cả xã hội để cùng Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội và
chăm lo phát triển các dịch vụ công cộng”.[33]
Vậy có thể hiểu cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng là
các biện pháp được tiến hành để điều chỉnh, đổi mới, hoàn thiện về nội dung,
trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành các hoạt động cụ thể trong quá trình giải
quyết công việc trong lĩnh vực công chứng; đáp ứng nhu cầu của người dân và

đáp ứng yêu cầu phát triển của kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới.
Cùng với các chương trình cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành
chính, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến việc cải cách thủ tục hành chính
trong lĩnh vực công chứng, đề ra các hướng hoàn thiện và phát triển cho hoạt động
công chứng ở nước ta. Đảng không ngừng chỉ đạo và Nhà nước không ngừng thực
hiện các biện pháp để cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng. Để
cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước cũng đã xây dựng nhiều văn
bản pháp luật để điều chỉnh và chỉnh sửa, bổ sung cho hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội qua mỗi giai đoạn của đất nước. Đặc biệt là sự ra đời của
Luật công chứng 2006 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành đã cho thấy bước đột


phá lớn trong tiến trình cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng ở
nước ta. Bên cạnh đó, các biện pháp liên quan, phục vụ cho công tác cải cách thủ
tục hành chính trong lĩnh vực công chứng cũng được Chính phủ quan tâm, như
ngày 10/02/2010, trên cơ sở đánh giá tình hình sau hai năm thực hiện Luật công
chứng, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 250/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án
“Xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt
Nam đến năm 2020”; Năm 2012, để đánh giá toàn diện kết quả đã đạt được và
những vướng mắc, bất cập phát sinh trong quá trình thi hành Luật Công chứng, chỉ
rõ nguyên nhân và tìm ra các giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu
quả của tổ chức và hoạt động công chứng, ngày 30/7/2012, Bộ Tư pháp đã ban
hành Quyết định số 2215/QĐ-BTP về phê duyệt kế hoạch tổng kết 5 năm thi hành
Luật Công chứng...
1.2. Một số đặc trưng của quá trình cải cách thủ tục hành chính trong
lĩnh vực công chứng ở nước ta.
1.2.1. Cơ sở của việc tiến hành cải cách.
- Cơ sở chính trị:
Như đã đề cập ở trên, việc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công
chứng ở nước ta nằm trong chương trình cải cách hành chính nói chung mà Đảng

ta chủ trương khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam năm 1986. Nhưng phải nói rằng giai đoạn phát triển mạnh mẽ trong tư
duy, quan niệm, nhận thức của Đảng về nền hành chính nhà nước và cải cách hành
chính là từ 1992 đến 1995, tức là bắt đầu từ những năm 90 của thế kỉ trước. Trải
qua các kỳ Đại hội của Đảng và nhiều Nghị quyết Trung ương các Khóa, Đảng ta
luôn thể hiện quyết tâm cải cách, đổi mới nền hành chính để đáp ứng, thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, củng cố, tăng sự tin tưởng của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng [39]. Công cuộc cải cách hành chính thực hiện trong
gần 20 năm qua được tiến hành tương đối đồng bộ, cải cách thủ tục hành chính
được chọn làm khâu đột phá, vì xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và tầm quan trọng
của nó, liên quan trực tiếp tới việc thực hiện thẩm quyền của các chủ thể quản lý
hành chính nhà nước, tới việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức.


Cùng với quá trình cải cách thủ tục hành chính nói chung, Đảng và Nhà
nước đã rất quan tâm đến việc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công
chứng, đề ra các hướng hoàn thiện và phát triển cho hoạt động công chứng ở nước
ta. Đặc biệt thể hiện ở các văn kiện của Đảng như: Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ
Chính trị ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về chiến lược
cải cách Tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 01 tháng 6
năm 2005 về chiến lược xây dựng pháp luật đến năm 2020, theo đó Nghị quyết
khẳng định chiến lược cải cách tư pháp: “Hoàn thiện chế định công chứng. Xác
định rõ phạm vi của công chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công
chứng. Xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước
chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã
hội hoá công việc này”. Thể hiện chủ trương của Đảng về đổi mới và xã hội hóa
hoạt động công chứng, là một cơ sở mang tính chất tiền đề để thúc đẩy, tăng
cường cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng.
Để cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước đã tiến hành

nhiều biện pháp để thực hiện cải cách thủ tục hành chính, trong đó thủ tục hành
chính trong lĩnh vực công chứng cũng được tiến hành cải cách, đổi mới một cách
mạnh mẽ. Chính phủ liên tiếp ban hành nhiều văn bản chỉ đạo như: Chỉ thị số
10/CT-TTg ngày 19/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai Nghị
quyết 08/NQ-TW của Bộ chính trị, khẳng định: “Xây dựng đề án từng bước xã hội
hóa hoạt động công chứng” [23]. Đặc biệt là sự ra đời của Luật công chứng 2006
và các văn bản hướng dẫn thi hành, đánh dấu sự cải cách mạnh mẽ thủ tục hành
chính trong lĩnh vực công chứng ở nước ta. Rồi Quyết định số 250/QĐ-TTg, phê
duyệt Đề án “Xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công
chứng ở Việt Nam đến năm 2020” ngày 10/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ;
Quyết định số 2215/QĐ-BTP về phê duyệt kế hoạch tổng kết 5 năm thi hành Luật
Công chứng của Bộ Tư pháp ngày 30/7/2012..v.v.
- Cơ sở kinh tế - xã hội:
Kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, nước ta bắt đầu chuyển sang thời
kỳ đổi mới, mở cửa thị trường, phát triển kinh tế. Từ đầu những năm 90 thế kỉ


trước đến nay, kinh tế - xã hội nước ta chuyển biến một cách mạnh mẽ, trong xu
thế giao lưu, hội nhập toàn cầu, trước tình hình đó, thủ tục hành chính nói chung
và các thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng nói riêng tỏ ra nhiều hạn chế,
bất cập, không đáp ứng và làm cản trở quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất
nước. Thủ tục hành chính nói chung ở nước ta mang đậm dấu ấn của thời bao cấp,
nặng về cơ chế “xin - cho”; rườm rà, phức tạp, nhiều cấp trung gian, coi trọng sự
thuận lợi cho hoạt động của Nhà nước, ít chú ý đến lợi ích và sự thuận tiện cho
nhân dân; phân tán, chồng chéo, thiếu thống nhất, thiếu công khai. Những bất cập
của thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng cũng không nằm ngoài những
bất cập chung đó. Đặc biệt, công chứng một loại hình dịch vụ công, đối tượng của
hoạt động này là các hợp đồng, giao dịch về dân sự, kinh tế, thương mại...và
những bất cập trong thủ tục hành chính không được khắc phục thì sẽ làm trì trệ
quá trình phát triển các giao lưu về dân sự, kinh tế, thương mại. Kinh tế đất nước

mở cửa, hội nhập và phát triển thì nhu cầu giao lưu dân sự, thương mại ngày càng
lớn, số lượng các hợp đồng, giao dịch người dân cần đến hoạt công chứng ngày
một tăng, do đó, song song với quá trình triển khai các hoạt động trong lĩnh vực
công chứng thì các biện pháp cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công
chứng cũng phải được nghiên cứu, tiến hành để đáp ứng nhu cầu của người dân.
1.2.2. Quá trình cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng
ở nước ta trải qua nhiều giai đoạn với các văn bản pháp luật điều chỉnh khác
nhau.
Có thể nói cho đến nay, quá trình cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực
công chứng ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng
vào quá trình cải cách hành chính nói chung của đất nước. Nhưng để đạt được kết
quả như hiện nay thì nước ta đã trải qua các giai đoạn với nhiều văn bản pháp luật
điều chỉnh hoạt động công chứng khác nhau; qua mỗi giai đoạn, mỗi văn bản ra
đời và có hiệu lực thi hành, Nhà nước lại rút ra được kinh nghiệm, các giải pháp
để tiếp tục đổi mới, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng, trong
đó quan trọng nhất là ban hành quy định pháp luật mới, tiến bộ hơn. Chính vì vậy,
trong vòng 10 năm (1991 – 2000), Chính phủ đã ban hành ba nghị định về tổ chức
và hoạt động công chứng, chứng thực nhà nước, đó là: Nghị định số 45/HĐBT


ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và hoạt động công chứng nhà
nước; Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động
công chứng nhà nước và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của
Chính phủ về công chứng, chứng thực.
Được xây dựng trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của 10 năm hoạt
động công chứng và nhất là tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trên lĩnh vực công
chứng, chứng thực, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ
về công chứng, chứng thực đã có nhiều nội dung được cải cách, đổi mới so với các
văn bản trước đó, trong đó có các thủ tục về công chứng, chứng thực theo tinh
thần đơn giản, giảm phiền hà cho công dân, tổ chức có nhu cầu công chứng, chứng

thực. Thẩm quyền cũng như thủ tục công chứng, đã có nhiều nội dung được cải
cách, đổi mới nhất nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người yêu cầu công
chứng. Tuy nhiên, do sự phát triển không ngừng của kinh tế xã hội, sự gia tăng về
quy mô, số lượng của các hợp đồng, giao dịch, sự đòi hỏi của xã hội về chất
lượng, về sự nhanh chóng, thuận tiện, chính xác của hoạt động công chứng; về thái
độ, trách nhiệm phục vụ của đội ngũ công chứng viên...nên thủ tục hành chính
trong lĩnh vực công chứng ở nước ta cũng bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập; ví dụ
như: thủ tục công chứng các hợp đồng, giao dịch đất đai và một số bất động sản
khác còn phức tạp bởi do yêu cầu phải chứng thực tính xác thực về nội dung của
công chứng đối với tài sản; việc quy định công chứng bản sao giấy tờ khiến các
phòng công chứng đã phải hoạt động vượt quá khả năng cho phép trong công việc
công chứng bản sao; các thủ tục công chứng bó hẹp trong phạm vi những công
việc giải quyết của Phòng công chứng thuộc Nhà nước, nên là môi trường thuận
lợi cho tệ quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, biến hoạt động dịch vụ thành
hoạt động công vụ thuần tuý của các công chức nhà nước;..v.v. [24]
Phải nói rằng, đánh dấu bước đột phá của quá trình cải cách thủ tục hành
chính trong lĩnh vực công chứng là từ thời điểm Luật công chứng 2006 ra đời và
có hiệu lực thi hành, tiếp sau đó là sự ra đời các văn bản hướng dẫn thi hành. Luật
công chứng 2006 ra đời trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của hơn 15 năm
hoạt động công chứng và nhất là tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trên lĩnh vực
công chứng, do đó đã đổi mới, cải cách một cách khá toàn diện, đáp ứng yêu cầu


phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đem lại những thành tựu to lớn. Luật Công
chứng ra đời đã thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về
cải cách hành chính và cải cách tư pháp, phát triển đội ngũ công chứng viên đủ về
số lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, vững về bản lĩnh chính trị, trong sáng về
đạo đức để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội về công chứng. Đổi mới
hình thức công chứng theo hướng từng bước xã hội hóa, tạo cho người dân nhiều
sự lựa chọn và chất lượng dịch vụ sẽ tốt hơn; xây dựng quan hệ bình đẳng giữa

công chứng viên và người yêu cầu công chứng; minh bạch hóa, đơn giản hóa trình
tự, thủ tục công chứng. Tuy nhiên, qua thời gian triển khai thực hiện trên thực tiễn,
hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động công chứng hiện nay cũng đã bộc lộ
nhiều hạn chế, bất cập cần được tiếp tục chỉnh sửa, bổ sung cùng với việc tiến
hành đồng bộ các biện pháp khác để tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh
vực công chứng ở nước ta thời gian tới.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1:
Trên đây là một số vấn đề lý luận về cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh
vực công chứng ở nước ta. Dựa trên việc nghiên cứu các khái niệm về công
chứng, thủ tục hành chính và cải cách thủ tục hành chính, Chương 1 đã giải quyết
khái niệm về thủ tục hành chính và cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực
công chứng; đồng thời, khái quát một số đặc trưng cơ bản của quá trình cải cách
thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng ở nước ta. Qua đó chúng ta cũng
thấy rằng cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng là một trong
những nội dung quan trọng của cải cách hành chính, được Đảng và Nhà nước quan
tâm chỉ đạo, triển khai thực hiện trong nhiều năm qua.



×