Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

bài tập nhóm số 2 môn tố tụng hình sự đề số 5 hãy nhận xét quyết định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can của cơ quan điều tra huyện k

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.05 KB, 10 trang )

1. Hãy nhận xét quyết định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can của cơ
quan điều tra huyện K.
a. Quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra huyện K.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra công an huyện K là không
đúng thầm quyền. Để làm rõ cho nhận định của mình, nhóm chúng em xin nêu ra
một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, căn cứ vào thẩm quyền xét xử theo đối tượng thì vụ án hình sự trên
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự khu vực huyện K.
Theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự năm 2002 : “Các tòa án
quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là:
1. Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong
thời gian tập trung huấn kuyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu ;dân
quân, tự vệ phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những
người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị trục tiếp quản lý;
2. Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 điều này mà
phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội”.
Theo tình huống đã cho thì A và B đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho quân đội.
Tại Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BCA ngày
18/4/2005 hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, tại điểm b mục 2
khoản I có quy định: “Gây thiệt hại cho Quân đội là gây thiệt hại đến tính mạng,
sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm của những người quy định tại khoản 1 Điều
3 của Pháp lệnh hoặc tài sản của những người này được Quân đội cấp phát để
thực hiện nhiệm vụ quân sự; gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân
đội. Tài sản của Quân đội là tài sản do Quân đội quản lý, sử dụng, kể cả trường
hợp Quân đội giao tài sản đó cho dân quân, tự vệ hoặc bất kỳ người nào khác
quản lý, sử dụng để chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc thực hiện nhiệm vụ quân
sự”. Cụ thể trong tình huống trên A và B đã cùng vào doanh trại quân đội trộm cắp
nhu yếu phẩm trong kho của đơn vị. Hành vi này đã gây thiệt hại về tài sản (nhu
yếu phẩm



ở trong kho của đơn vị (thuộc sự quản lí của doanh trại quân đội).
Như vậy, vụ án hình sự mà A và B thực hiện thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án quân sự khu vực huyện K. Đối với những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của
tòa án quân sự khu vực, thì thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án sẽ thuộc về cơ
quan điều tra hình sự khu vực của quân đội nhân dân. Vì cơ quan điều tra này có
thẩm quyền khởi tố các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại chương từ
Chương XII đến Chương XXIII của Bộ luật hình sự khi các tội phạm đó thuộc
thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự khu vực trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền
khởi tố của cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương (chỉ điều tra các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư
pháp).Vụ án trên không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện K
nên Cơ quan điều tra công an huyện K sẽ không có thẩm quyền khởi tố vụ án hình
sự trên.
b. Quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra huyện K.
Quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra công an huyện K không đúng
thẩm quyền.
Quyết định khởi tố bị can được đưa ra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,
như vậy cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra vụ án mới có quyền ra quyết định
khởi tố bị can.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 110 BLTTHS, cơ quan điều tra có thẩm quyền
điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Ở tình
huống trên, hành vi mà A và B thực hiện nếu cấu thành tội phạm sẽ thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án quân sự khu vực. Hơn nữa, trong vụ án này, A và B trộm
cắp tại doanh trại quân đội, vậy hoàn toàn có thể xác định được nơi tội phạm xảy
ra. Doanh trại quân đội là địa phận do quân đội quản lý, vì vậy theo quy định tại
điều khoản này, thì cơ quan điều tra hình sự khu vực có thẩm quyền điều tra vụ án
này. Điều đó đồng nghĩa với việc cơ quan điều tra công an huyện K không có thẩm
quyền điều tra vụ án và không có quyền ra quyết định khởi tố bị can đối với A, B.



2. Khi kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát thấy rằng việc điều tra của cơ quan
điều tra không đúng thẩm quyền, Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan điều tra công
an huyện K ra quyết định chuyển vụ án cho cơ quan điều tra trong quân đội
nhân dân. Quyết định đó của Viện kiểm sát đúng hay sai? Tại sao?
Quyết định như trên của Viện kiểm sát là sai.
Theo quy định tại Điều 116 BLTTHS 2003: “Trong trường hợp vụ án không
thuộc thẩm quyền điều tra của mình, Cơ quan điều tra phải đề nghị Viện kiểm sát
cũng cấp ra quyết định chuyển vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiếp
tục điều tra…”. Như vậy, quyền ra quyết định chuyển vụ án không thuộc Cơ quan
điều tra công an huyện K mà thuộc về Viện kiểm sát. Trong trường hợp này, Viện
kiểm sát thực hiện chức năng của mình bằng việc yêu cầu cơ quan điều tra công an
huyện khắc phục vi phạm bằng cách gửi văn bản đề nghị Viện kiểm sát ra quyết
định chuyển vụ án cho cơ quan điều tra có thẩm quyền. Theo đó, trong thời hạn ba
ngày kể từ ngày nhận được đề nghị của Cơ quan điều tra công an huyện K, Viện
kiểm sát có trách nhiệm ra quyết định chuyển vụ án cho cơ quan điều tra hình sự
khu vực. Quyết định chuyển vụ án được chuyển cho viện kiểm sát có thẩm quyền
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra
đối với vụ án đó, cụ thể ở đây là Viện kiểm sát quân sự khu vực.
3.

Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, cơ quan điều tra có thẩm quyền

phát hiện dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác do A và
bạn A là D đã thực hiện trước đó. Cơ quan điều tra giải quyết như thế nào?
Tại sao?
Đối với trường hợp trên, khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan điều tra
ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Theo đó, trong quá trình khởi tố vụ án, cần
thực hiện trình tự như sau:
Thứ nhất, căn cứ vào khoản 1 Điều 106 quy định: “Khi có căn cứ xác định tội
phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm

khác thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết


định khởi tố vụ án hình sự”. Trong trường hợp này, cơ quan điều tra hình sự khu
vực huyện K phát hiện dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do A và B đã
thực hiện trước đó thì về nguyên tắc cơ quan điều tra phải tiến hành khởi tố vụ án
hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên trước khi khởi tố vụ án
hình sự đối với A và B về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì cơ quan điều tra phải
xem xét nó có thuộc một trong các trường hợp không được khởi tố vụ án hình sự
theo quy định tại Điều 107 BLTTHS hay không. Đặc biệt trong trường hợp này cần
chú ý đến vấn đề tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của A và B còn thời hạn truy cứu
trách nhiệm hình sự nữa hay không. Trường hợp vụ án không thuộc quy định Điều
107 thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ
án, cơ quan điều tra hình sự khu vực phải gửi cho Viện kiểm sát quân sự cùng cấp
để kiểm sát việc khởi tố.
Thứ hai, sau khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản của A và B, cơ quan điều tra cần tiến hành các hoạt động điều tra để có
đủ căn cứ xác định A và B đã thực hiện hành vi phạm tội, từ đó ra quyết định bổ
sung quyết định khởi tố bị can đối với A và B theo quy định của Điều 127
BLTTHS. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định và tài liệu có liên
quan đến việc bổ sung đó cho Viện kiểm sát quân sự cùng cấp để xét phê chuẩn.
Thứ ba, trong tình huống A và B đã phạm hai tội là tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản và tội trộm cắp tài sản, nên cơ quan điều tra có thể tiến hành xem xét nhập
hoặc tách vụ án để điều tra theo quy định tại Điều 127 BLTTHS.
Theo quan điểm của nhóm em thì hai vụ án này không nhập lại làm một vì
chúng vì tuy hai vụ cùng có bị can là A và B nhưng chúng không có liên quan gì
đến nhau. Ngoài ra, việc tách vụ án trên không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật
khách quan và toàn diện của vụ án, vì giữa hai vụ án không có mối liên hệ mật
thiết, việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản không có ý nghĩa làm bổ trợ cho hành vi trộm

cắp tài sản của A và B diễn ra sau đó.


Như vậy, sau khi phát hiện ra dấu hiệu của tội cướp tài sản mà A và B đã thực
hiện trước đó, cơ quan điều tra có thẩm quyền phải ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, sau đó ra quyết định khởi tố bị can
đối với A và B về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, sau đó tiến hành tách vụ án để
thuận lợi cho điều tra theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định.
4. Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát thấy rằng việc điều tra của cơ
quan điều tra chưa đầy đủ, Viện kiểm sát giải quyết như thế nào?
Trong giai đoạn truy tố, nếu Viện kiểm sát thấy rằng việc điều tra của cơ quan
điều tra hình sự khu vực của quân đội nhân dân huyện K chưa đầy đủ thì Viện kiểm
sát quân sự khu vực có thể xem xét theo một trong hai hướng giải quyết sau:
Thứ nhất, đối với trường hợp Viện kiểm sát quyết định trả hồ sơ để điều tra
bổ sung. Căn cứ vào khoản 1 Điều 168 BLTTHS quy định: “Viện kiểm sát ra quyết
định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung khi nghiên cứu thấy: Còn
thiếu sót những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự
mình bổ sung được”. Như vậy, nếu việc điều tra không đầy đủ có liên quan đến các
chứng cứ, mà theo Viện kiểm sát quân sự khu vực huyện K thì đó là những chứng
cứ quan trọng đối với việc truy tố các bị can như: những chứng cứ liên quan đến
việc định tội hoặc ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự và hình phạt của bị can mà
Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được thì Viện kiểm sát sẽ ra quyết định
trả lại hồ sơ cho cơ quan điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra phải tiến hành bổ
sung cho đầy đủ.
Thứ hai, Viện kiểm sát không ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung mà
vẫn ra quyết định truy tố bình thường đối với bị can. Theo khoản 1 Điều 168 có thể
nhận thấy rằng, việc Viện kiểm sát không ra quyết định trả lại hồ sơ cho cơ quan
điều tra bổ sung trong trường hợp này xuất phát từ vai trò của những chứng cứ, tài
liệu còn thiếu trong hồ sơ vụ án là không quan trọng đối với việc truy tố các bị can
và Viện kiểm sát có thể tự mình bổ sung được hoặc không bổ sung được nhưng

Viện kiểm sát lại có quyền yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành bổ sung cho đầy đủ


trong một thời hạn phù hợp, có thể là trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa.
Tuy nhiên, các chứng cứ này không có vai trò trong việc xác lập tội danh đối với bị
can mà Viện kiểm sát tiến hành truy tố.
5. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, A và B bỏ trốn khỏi nơi cư trú, Thẩm
phán được phân công chủ tọa phiên tòa sẽ giải quyết như thế nào?
Khi giai đoạn chuẩn bị xét xử, A và B từ tư cách bị can sẽ chuyển thành tư
cách bị cáo. Tòa án sẽ gửi giấy triệu tập đến cho các bị cáo trong phiên tòa xét xử.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 50 BLTTHS: “Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu
tập của Toàn án; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể
bị áp giải; nếu bỏ trốn sẽ bị truy nã”. Trong tình huống đã nêu, khi A và B bỏ trốn
khỏi nơi cư trú thì căn cứ vào Điều 180 BLTTHS, Thẩm phán được phân công chủ
tọa phiên tòa sẽ ra quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với A và B. Đồng thời, Tòa án
yêu cầu cơ quan điều tra truy nã A, B. Từ đây sẽ xảy ra hai trường hợp như sau:
Thứ nhất, nếu việc truy nã A, B có kết quả và A, B bị áp giải về nơi cư trú, thì
việc giải quyết vụ án lại tiến hành.
Thứ hai, nếu việc truy nã A, B không có kết quả thì Tòa vẫn có thể mở phiên
tòa xét xử tội danh với A, B dù A, B không có mặt tại phiên tòa theo quy định tại
khoản 2 Điều 187 BLTTHS.
6. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo B yêu cầu thay đổi thẩm phán chủ tọa
phiên tòa vì cho rằng thẩm phán có mối quan hệ thân thiết với C là nguyên
đơn dân sự trong vụ án. Hội đồng xét xử phải giải quyết như thế nào?
Theo quy định tại điểm 2 Điều 43 BLTTHS thì bị cáo A có quyền yêu cầu thay đổi
thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm. Lí do A đưa ra là Thẩm phán có mối quan hệ
thân thiết với C là nguyên đơn dân sự trong vụ án, lí do này phù hợp với quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 46 và điểm 1 Điều 42 BLTTHS.
Do A có yêu cầu thay đổi thẩm phán tại phiên tòa sơ thẩm nên Hội đồng xét xử
phải áp dụng quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 46 BLTTHS để giải quyết: việc

thay đổi thẩm phán tại phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định trước khi bắt đầu


xét hỏi bằng cách biểu quyết tại phòng nghị án. Khi xem xét thành viên nào thì
thành viên đó được trình bày ý kiến của mình. Dựa trên cơ sở yêu cầu thay đổi
thẩm phán do A trình bày cùng với ý kiến của thẩm phán cần thay đổi, Hội đồng
xét xử sẽ xem xét và quyết định theo đa số. Trong trường hợp phải thay đổi thẩm
phán thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa. Việc cử thành viên mới của
hội đồng xét xử do Chánh án toàn án quyết định.
7. Tòa sơ thẩm đã xử phạt A 2 năm tù, B 18 tháng tù, A còn phải bồi
thường cho C số tiền là 3 triệu đồng. Anh C không đồng ý và đã tới Tòa án
cấp phúc thẩm để trực tiếp kháng cáo yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại
và tăng mức hình phạt áp dụng cho B. Tòa án cấp phúc thẩm phải giải quyết
như thế nào?
Nguyên đơn dân sự là một trong những đối tượng có quyền kháng cáo. Tại đoạn
3 Điều 231 BLTTHS có quy định “Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại
diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên
quan đến việc bồi thường thiệt hại”. Như vậy, phạm vi kháng cáo của nguyên đơn
dân sự chỉ dừng lại ở các quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
So sánh với trường hợp đã nêu trên, ta thấy rằng yêu cầu tăng mức bồi thường
của C (là nguyên đơn dân sự) là hoàn toàn hợp pháp. Tuy nhiên, C không có quyền
yêu cầu tăng mức hình phạt áp dụng đối với B vì quyết định hình phạt của Tòa án
đối với B không liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. Do đó, Tòa án cấp phúc
thẩm sẽ không chấp nhận đơn kháng cáo của C với nội dung yêu cầu tăng bồi
thường thiệt hại và tăng mức hình phạt dành cho B.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được kháng cáo của C, Tòa án cấp sơ
thẩm phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người
tham gia tố tụng được biết.
8. Giả sử trong thời gian luật định B không kháng cáo, tại phiên tòa phúc
thẩm B lại xin giảm nhẹ hình phạt, nếu yêu cầu của B có căn cứ Hội đồng

phúc thẩm sẽ giải quyết như thế nào? Tại sao?


Về nguyên tắc, Hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn có thể xem xét giải quyết yêu
cầu của B. Nguyên tắc này được thể hiện trong quy định tại Điều 241 BLTTHS:
“Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần
thiết thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo,
kháng nghị của tòa án”. Như vậy, tuy trong thời hạn luật định B không kháng cáo
nhưng Tòa án cấp phúc thẩm vẫn có thể xem xét các phần không bị kháng cáo này.
Mặt khác, tại khoản 2 Điều 249 BLTTHS có nêu rõ: “Nếu có căn cứ, tòa án
cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về
tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình
phạt tù và cho hưởng án treo cho cả những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị
kháng cáo, kháng ngh.”. Ở đây, Tòa án phúc thẩm nếu xét thấy yêu cầu của B có
căn cứ thì có thể giảm hình phạt dành cho B.
9. Khi bản án đã có hiệu lực pháp luật, có căn cứ cho rằng việc giải quyết
vụ án ở cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, cần kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm. Ai có thẩm quyền kháng nghị, thủ tục và thời
gian kháng nghị như thế nào?
Trong tình huống trên, căn cứ cho rằng việc giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm
có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là một căn cứ để kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm.
Thứ nhất, về thẩm quyền kháng nghị:
Như đã xác định ở trên, việc xét xử sơ thẩm vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa
án quân sự khu vực huyện K, tức bản án đã có hiệu lực pháp luật là của Tòa án
quân sự khu vực huyện K. Theo quy định tại khoản 1 Điều 279 thì Ủy ban Thẩm
phán Tòa án quân sự cấp quân khu sẽ giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của tòa án quân sự khu vực.
Mặt khác, theo các khoản 2 và khoản 3 Điều 275 BLTTHS thì người có thẩm
quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm này bao gồm:

1. Chánh án Tòa án quân sự trung ương và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự
trung ương.


2. Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu và Viện trưởng Viện kiểm sát quân
sự cấp quân khu. Đây là các cấp trên trực tiếp của Tòa án quân sự khu vực
huyện K.
Đồng thời, Chánh án Tòa án quân sự và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự ra
kháng nghị trên còn có quyền tạm đình chỉ việc thi hành án hoặc quyết định bị
kháng nghị (Điều 276 BLTTHS) nếu thấy trong thời hạn chờ xét xử giám đốc thẩm
việc tiếp tục thi hành bản án hoặc quyết định đó có thể gây thiệt hại cho người phải
thi hành án.
Thứ hai, về thủ tục kháng nghị:
Những người có thẩm quyền kháng nghị (như đã xác định ở ý trên) cần xác
định rõ căn cứ kháng nghị. Khi đã có căn cứ và đã kháng nghị thì trong bản kháng
nghị phải nêu rõ căn cứ, lí do kháng nghị. Bản kháng nghị và những tài liệu bổ
sung (nếu có) cần được gửi cho các đối tượng sau:
- Tòa án Quân sự khu vực huyện K.
- Tòa án Quân sự trung ương hoặc Tòa án quân sự quân khu.
- Người A, B (là người bị kết án) và C ( là người có quyền và lợi ích liên quan
đến việc kháng nghị)
Thứ ba, về thời hạn kháng nghị:
Điều 278 bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định thời hạn kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm là khác nhau đối với các trường hợp khác nhau.
Trong tình huống đã nêu, nhóm em sẽ phân chia ra các trường hợp như sau:
- Việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho A, B (là người bị kết án) sẽ
được tiến hành trong thời hạn một năm, kể từ ngày bản án hoặc quyết định
có hiệu lực pháp luật.
- Việc kháng nghị theo hướng có lợi cho A, B sẽ được tiến hành bất cứ lúc
nào, kể cả trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.

- Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên đơn dân sự C
sẽ được tiến hành theo quy định của pháp luật tố tụn về dân sự. Theo Điều
288 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về thời hạn kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm thì thời hạn kháng nghị về dân sự đó sẽ là ba năm.


10. Trong thời hạn đang chấp hành hình phạt tại trại tạm giam, A đã trốn
khỏi trại giam. Giám thị trại giam ra quyết định khởi tố vụ án trốn khỏi nơi
giam giữ (Điều 311 BLHS) và quyết định khởi tố bị can và ra lệnh truy nã đối
với A. Hãy nhận xét quyết định của Giám thị trại giam.
a. Về quyết định khởi tố vụ án trốn khỏi nơi giam giữ của Giám thị trại
giam:
Như đã xác định ở trên, tội trộm cắp tài sản mà A thực hiện thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa án quân sự khu vực, do đó A phải chấp hành hình phạt tù tại trại
giam thuộc quyền quản lí của Bộ quốc phòng.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 25 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004
về quyền hạn điều tra của các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thì Giám thị trại giam trong khi làm
nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra hình sự đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự
thì ra quyết định khởi tố vụ án, khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai, khám xét,
thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án. Như
vậy, việc giám thị trại giam ra quyết định khởi tố vụ án trốn khỏi nơi giam giữ theo
Điều 311 Bộ luật hình sự đối với A là đúng.
b. Về quyết định khởi tố bị can và ra lệnh truy nã của Giám thị trại giam:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 25, Giám thị trại giam chỉ có thẩm quyền ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự, sau khi tiến hành thu thập các chứng cứ, tài liệu
liên quan trực tiếp đến vụ án, sau đó trong vòng bảy ngày kể từ ngày ra quyết định
khởi tố phải tiến hành chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan điều tra hình sự có thẩm
quyền. Như vậy, quyền hạn của giám thị trại giam chỉ dừng lại ở việc ra quyết định

khởi tố vụ án. Do đó, việc giám thị trại giam ra quyết định khởi tố bị can và ra lệnh
truy nã đối với A là không đúng thẩm quyền.



×