Đề số 2:
A có ý định giết B (đang có thai) để trả thù. Biết B đi chơi chưa về nhà nên
khoảng 8 giờ tối A đến nấp ở bụi cây gần cổng nhà B, đợi B về giết. Thấy A có
giấu hiệu khả nghi, đội tuần tra đã yêu cầu A xuất trình giấy tờ. A bỏ chạy và sau
đó đã bị bắt. Hành vi của A được xác định là phạm tội giết người theo khoản 1
Điều 93 Bộ luật hình sự.
Câu hỏi:
1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự, hãy phân loại tội phạm đối
với tội giết người.
2. Căn cứ vào cách phân loại cấu thành tội phạm theo mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi được cấu thành tội phạm phản ánh, hãy xác định loại
cấu thành tội phạm đối với tội giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự).
3. Xác định lỗi đối với hành vi phạm tội của A và giải thích rõ tại sao.
4. Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại
sao.
5. Mức hình phạt cao nhất Tòa án có thể áp dụng đối với A là bao nhiêu?
Giải thích rõ tại sao.
6. Giả sử A là người nước ngoài và hành vi nói trên của A xảy ra ở Việt Nam
thì A có bị xử lý theo luật hình sự Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao.
1
Bài làm
1. Căn cứ khoản 3 Điều 8 BLHS, phân loại tội phạm đối với tội giết người.
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự,
an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa” (khoản 1 Điều 8 BLHS). Tuy vậy mỗi hành vi phạm tội cụ thể lại có tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau vì thế mà vấn đề phân hóa và cá
thể hóa hình phạt được đặt ra và coi là nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam.
Nguyên tắc này không chỉ có ý nghĩa khi áp dụng luật hình sự mà trước hết nó
đòi hỏi phải có sự phân hóa trách nhiệm hình sự ngay trong luật và đó là cơ sở để
có thể cá thể hóa hình phạt trong thực tiễn áp dụng. Thể hiện nguyên tắc này, luật
hình sự Việt Nam phân tội phạm ra thành 4 nhóm và được quy định tại khoản 3
Điều 8: “ Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội
phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng
là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là
tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”. Như
vậy có thể thấy rằng, khung hình phạt chính là dấu hiệu có tính độc lập tương đối
để phân biệt các nhóm tội phạm với nhau.
2
Điều 93 BLHS quy định hai khung hình phạt đối với tội giết người:
Khoản 1 Điều 93 quy định “Người nào giết người thuộc một trong các
trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung
thân hoặc tử hình…”. Mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội giết người
theo khoản 1 Điều 93 là tù chung thân hoặc tử hình. Như vậy những hành vi cấu
thành tội giết người theo khoản 1 Điều 93 thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.
Khoản 2 Điều 93 quy định “Phạm tội không thuộc các trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm”. Mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội giết người theo khoản 2 Điều 93 là 15
năm tù giam. Như vậy những hành vi cấu thành tội giết người theo khoản 2 Điều
93 thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.
Khoản 3 Điều 93 quy định các hình phạt bổ sung có thể áp dụng đối với
người phạm tội do đó ta không phân loại tội phạm đối với khoản này.
2. Loại cấu thành tội phạm đối với tội giết người.
Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng
cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Để phân loại cấu
thành tội phạm có thể dựa vào mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được cấu
thành tội phạm phản ánh hoặc dựa vào đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm.
Căn cứ vào mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được cấu thành tội phạm
phản ánh, có thể chia thành:
- Cấu thành tội phạm cơ bản: là cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội
– dấu hiệu mô tả tội phạm và cho phép phân biệt tội này với tội khác.
- Cấu thành tội phạm tăng nặng: là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu
định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy
hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể ( so với trường hợp bình
thường).
3
- Cấu thành tội phạm giảm nhẹ: là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu
định tội còn có dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm
cho xã hội giảm xuống một cách đáng kể (so với trường hợp bình thường).
Mỗi loại tội phạm có một cấu thành tội phạm cơ bản, ngoài ra có thể có
một hoặc nhiều cấu thành tội phạm tăng nặng hay giảm nhẹ.
Đối với tội giết người theo Điều 93 BLHS: Điều 93 BLHS quy định tội
giết người nhưng không mô tả cụ thể dấu hiệu định tội của tội này mà chỉ nêu tội
danh. Do đó để xác định cấu thành tội phạm đối với tội giết người theo Điều 93
ta không thể dựa vào dấu hiệu định tội như các tội phạm khác. Mà qua thực lý
luận cũng như thực tiễn xét xử đã được thừa nhận, có thể định nghĩa tội giết
người là hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác. Từ đó ta
thấy rằng trong Điều 93:
- Cấu thành tội phạm cơ bản là khoản 2 Điều 93. Vì khoản 2 Điều 93 quy
định hình phạt đối với người phạm tội giết người trong trường hợp thông
thường (giết người không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1). Và
khung hình phạt cơ bản được quy định là từ 7 đến 15 năm.
- Cấu thành tội phạm tăng nặng là khoản 1 Điều 93. Vì khoản 1 Điều 93 có
thêm các dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho
xã hội tăng lên một cách đáng kể so với trường hợp giết người thông
thường (có thể gây nguy hại đặc biệt cho xã hội). Đó là các trường hợp
giết người có các tính tiết định khung tăng nặng:
a) Giết nhiều người;
b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
c) Giết trẻ em;
d) Giết người đang thi hành công vụ;
e) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy cô giáo của mình;
4
f) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội
rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
j) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
k) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
l) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
m) Có tính chất côn đồ;
n) Có tổ chức;
o) Tái phạm nguy hiểm;
p) Có động cơ đê hèn.
Người nào có hành vi giết người thỏa mãn những dấu hiệu nêu trên thì
khung hình phạt sẽ được chuyển từ khung hình phạt cơ bản (7 đến 15 năm tù) lên
khung hình phạt tăng nặng (phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử
hình).
Trong BLHS Việt Nam 1999, hầu hết các tội đều được luật quy định cấu
thành tội phạm cơ bản ở khoản 1 điều luật quy định về tội danh đó. Riêng đối với
tội giết người (Điều 93) lại quy định cấu thành tội phạm cơ bản ở khoản 2, còn
cấu thành tội phạm tăng nặng ở khoản 1. Bởi có thể thấy rằng tội giết người được
coi là một trong những tội phạm nguy hiểm nhất, nó tước đoạt quyền thiêng
liêng nhất của con người là quyền được sống. Do đó, các nhà làm luật đã quy
định cấu thành tội phạm tăng nặng lên trước nhằm nhấn mạnh tính chất nguy
hiểm của tội phạm này.
5
3. Lỗi đối với hành vi phạm tội của A.
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức
cố ý hoặc vô ý.
Về các loại lỗi cố ý, theo Điều 9 BLHS thì lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của
người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn
hậu quả xảy ra. Còn lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước được hậu quả của hành vi đó, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để
mặc cho hậu quả xảy ra.
Về các loại lỗi vô ý, theo Điều 10 BLHS thì: Lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi
trong trường hợp người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu
quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể
ngăn ngừa được nên vẫn thực hiện và đã gây ra hậu quả nguy hại đó. Lỗi vô ý do
cẩu thả là lỗi trong trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả nguy hại cho
xã hội nhưng do cẩu thả nên không thấy được hành vi của mình có thể gây ra hậu
quả đó, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước.
Từ sự phân biệt trên, ta thấy rằng hình thức lỗi của A khi phạm tội là lỗi cố ý
trực tiếp, căn cứ vào các dấu hiệu sau:
- Về lý trí: A hoàn toàn có thể nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi
của mình và A cũng có thể thấy trước được hậu quả là B có thể chết do
hành vi đó gây ra. Tuy đề bài không nêu rõ là A định giết B bằng phương
pháp và công cụ nào nhưng chắc chắn với động cơ để trả thù B và mục
đích tước đoạt tính mạng của B, A đã có sự chuẩn bị để hành vi của mình
đạt đến mức độ nguy hiểm nào đó khiến B thiệt mạng. Tuy thấy trước
6
được hậu quả nhưng A vẫn cố tình thực hiện hành vi của mình, A đã nấp ở
bụi cây gần cổng nhà B, đợi B đi chơi về để thực hiện hành vi giết người.
- Về ý chí: A mong muốn hậu quả là B bị chết sẽ xảy ra vì A với B có mâu
thuẫn từ trước, và động cơ phạm tội của A là giết giết B để trả thù, nên A
mong muốn B sẽ chết.
4. Giai đoạn phạm tội của A.
Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội phạm cố ý,
bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Trong
đó:
- Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra
những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu
thực hiện tội phạm đó. Có thể hiểu “Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa
soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để
thực hiện tội phạm” (Điều 17 BLHS)
- Phạm tội chưa đạt là có ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện
được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
- Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các
dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm.
Như vậy, trong tình huống trên, hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn
chuẩn bị phạm tội. Vì:
A đã bắt đầu có những hành vi tạo ra những điều kiện vật chất, tinh thần
giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội có thể xảy ra và xảy ra được thuận lợi,
dễ dàng hơn. Thể hiện ở chỗ: A đã có sự chuẩn bị kế hoạch phạm tội, thăm dò
địa điểm phạm tội từ trước, biết B đi chơi chưa về nhà nên A đến nấp ở bụi cây
gần cổng nhà B, đợi B về để giết. Tuy nhiên A chưa thực hiện được hành vi
khách quan tác động đến B thì đã bị đội tuần tra phát hiện và bị bắt. Như vậy, tất
cả những hành vi của A mới chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị những điều kiện
7
cần thiết để thực hiện tội phạm, nó chưa trực tiếp làm biến đổi tình trạng của B
để gây thiệt hại cho khách thể của tội giết người là quyền được sống, quyền được
tôn trọng và bảo vệ tính mạng của B.
5. Mức hình phạt cao nhất mà Tòa án có thể áp dụng đối với A.
Theo Điều 17 BLHS thì “Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng
hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định
thực hiện”.
Căn cứ khoản 2 Điều 52 thì “Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu
điều luật áp dụng có quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung
thân hoặc tử hình, thì mức phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai mươi
năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá một phần hai mức
phạt tù mà điều luật quy định”.
Hành vi phạm tội của A được xác định là phạm tội giết người theo khoản 1
Điều 93 BLHS ( giết phụ nữ mà biết là có thai) ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Mà như đã phân tích ở trên thì khoản 1 Điều 93 thuộc loại tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng nên A sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện.
Khoản 1 Điều 93 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân
hoặc tử hình nên mức hình phạt mà Tòa án có thể áp dụng đối với A là không
quá 20 năm tù. Do đó, trong trường hợp này mức hình phạt cao nhất mà Tòa án
có thể áp dụng với A là 20 năm tù.
6. Trường hợp A là người nước ngoài và hành vi phạm tội của A xảy ra ở
Việt Nam.
Điều 5 BLHS đã quy định hiệu lực của Bộ luật Hình sự đối với những
hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo
khoản 1 Điều 5 thì “Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội
thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Bổ sung cho
quy định này, khoản 2 Điều 5 quy định phạm vi những người nước ngoài phạm
8
tội trên lãnh thổ Việt Nam được xử lý bằng con đường ngoại giao “Đối với
người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu
đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết, thì trách nhiệm hình sự
của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao”.
Như vậy, nếu A là người nước ngoài, hành vi phạm tội của A xảy ra ở Việt
Nam và A không thuộc trường hợp quy định ở khoản 2 Điều 5 BLHS thì A vẫn bị
xử lý theo luật hình sự Việt Nam. Trường hợp A là đối tượng thuộc khoản 2 Điều
5 BLHS, khi đó trách nhiệm hình sự của A sẽ được giải quyết bằng con đường
ngoại giao.
9