MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguồn nhân lực được xem là nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự
phát triển kinh tế - xã hội mang tính bền vững của một quốc gia. Tuy nhiên,
hiện nay nguồn nhân lực Việt Nam vẫn còn tồn tại những hạn chế như sự lạc
hậu về cơ cấu nhân lực, bất cập về phân bố nhân lực, chất lượng nhân lực còn
thấp. Đặc biệt, chất lượng nguồn nhân lực thấp đã trở thành rào cản để nước
ta thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Trước tình
hình đó, một trong những yêu cầu cấp thiết đặt ra là Việt Nam phải nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực thông qua việc hoạch định và thực thi hệ thống
chính sách phát triển nguồn nhân lực như chính sách giáo dục đào tạo, chính
sách văn hóa, chính sách y tế, chính sách phát triển thể dục thể thao,… một
cách có hiệu quả. Trong các chính sách vĩ mô về phát triển nguồn nhân lực,
chính sách giáo dục đào tạo được xem là một trong những trụ cột chính nhằm
nâng cao về mặt trí lực nguồn nhân lực, và trong đó, đào tạo nghề là một bộ
phận quan trọng.
Trong thời gian qua, hệ thống đào tạo nghề đã và đang thực hiện đổi mới
khá mạnh mẽ, chuyển từ hệ thống đào tạo nghề với hai chương trình đào tạo
(dài hạn và ngắn hạn) sang hệ thống dạy nghề với ba cấp trình độ (sơ cấp
nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề); chuyển dần từ đào tạo theo hướng
cung sang hướng cầu của thị trường lao động. Số lượng học sinh học nghề và
tốt nghiệp tăng lên hằng năm đã phần nào đáp ứng nhu cầu phát triển nghề
nghiệp cho người lao động nói riêng và góp phần vào việc đáp ứng nhu cầu
nhân lực lao động kỹ thuật trực tiếp cho sự phát triển kinh tế đất nước nói
chung. Tuy nhiên, hệ thống dạy nghề đang phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thách thức như tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở (THCS) và trung học
phổ thông (THPT) vào học nghề còn rất thấp trong khi nhu cầu nhân lực trên
thị trường đang thiếu lao động lành nghề trầm trọng.
1
Huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp là một trong những địa phương có
dân số sống ở vùng nông thôn chiếm tỷ lệ khá cao (80%). Ngoài ra, trình độ
chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động huyện Tháp Mười còn thấp
(5%)1. Hầu hết lực lượng lao động của huyện có trình độ chuyên môn kỹ
thuật, tay nghề chưa cao, đa phần là làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp.
Trước tình hình đó, chính quyền đã có những giải pháp điều chỉnh cơ cấu đào
tạo nghề đáp ứng yêu cầu lao động trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, kết quả đạt
được chưa cao, vẫn còn tồn tại những hạn chế trong công tác quản lý nhà
nước (QLNN) đối với hoạt động đào tạo nghề như: công tác QLNN đối với
hoạt động đào tạo nghề chưa có cách thức đổi mới phương pháp làm việc, còn
nặng tính hành chính đơn thuần, giải quyết các sự việc mang tính sự vụ, kinh
nghiệm và đối phó; công tác thanh kiểm tra hoạt động đào tạo nghề đối với
các cơ sở tham gia đào tạo nghề trên địa bàn chưa được tiến hành một cách
sâu sát, còn gặp khó khăn; thiếu sự quan tâm đến công tác hướng nghiệp, đào
tạo nghề ở các trường trung học cơ sở (THCS), trung học phổ thông (THPT)
trên địa bàn huyện;…
Trước tình hình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, QLNN đối với
hoạt động đào tạo nghề trên địa bàn huyện Tháp Mười cần được quan tâm
nghiên cứu và có những giải pháp khoa học, hiệu quả. Một trong những yêu
cầu đặt ra là cần phải có nhận thức sâu sắc thực trạng đào tạo nghề của địa
phương, nhìn lại những ưu và khuyết điểm trong công tác QLNN để tiếp tục
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, ổn định đời sống và việc làm của người
dân trên địa bàn huyện.
Xuất phát từ những cơ sở trên, tác giả đã lựa chọn: “Quản lý nhà nước
đối với hoạt động đào tạo nghề trên địa bàn huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng
Tháp” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
1 Phòng LĐTBXH, 2015.
2
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm qua, vấn đề đào tạo nghề và công tác QLNN đối với hoạt
động đào tạo nghề nhận được sự quan tâm của nhiều đề tài nghiên cứu trong
cả nước, cụ thể:
Tác giả Nguyễn Đức Tĩnh với công trình “Quản lý nhà nước về đầu tư
phát triển đào tạo nghề ở Việt Nam”. Cuốn sách được viết năm 2010, khi Việt
Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) năm 2007. Giải pháp tác giả đưa ra là Việt Nam phải cam kết mở cửa
dịch vụ đào tạo để các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia vào hoạt động
dịch vụ đào tạo, mà đào tạo nghề, đặc biệt là những ngành nghề kỹ thuật cao
là loại hình dịch vụ có nhiều tiềm năng, chắc chắn thu hút mạnh đầu tư trong
và ngoài nước. Vì được viết trong bối cảnh nước ta bước đầu tham gia hội
nhập quốc tế, so với hiện nay thực tế đã có nhiều sự thay đổi, thì cuốn sách đã
có những nội dung không còn phù hợp. Tuy nhiên, các khuyến nghị của tác
giả vẫn có giá trị nhất định.
Tác giả Nguyễn Tiến Dũng, Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Dạy
nghề, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) với bài viết: “Đào
tạo nghề cho lao động nông thôn trong thời kỳ hội nhập quốc tế”. Tác giả đã
nêu ra một số kết quả bước đầu trong công tác đào tạo nghề cho lao động ở
nước ta và đề cập đến một số hướng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào
tạo nghề cho lao động nông thôn (LĐNT). Giải pháp mà khóa luận kế thừa từ
công trình này là thu hút sự tham gia của các chủ thể khác trong xã hội vào
công tác đào tạo nghề.
Tác giả Trần Trọng Hiếu (2011) với khóa luận“Nâng cao hiệu quả quản
lý nhà nước đối với hoạt động dạy nghề cho thanh niên trên địa bàn huyện
Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk”. Khóa luận đã nêu lên rằng công tác đào tạo nghề
cho thanh niên chưa nhận được sự quan tâm của xã hội, tỷ lệ thanh niên học
nghề chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu việc làm của thị trường lao động.
Cần có sự liên kết giữa cơ quan đào tạo và cá nhân, tổ chức sử dụng lao động
3
để hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho lao động sau khi đào tạo. Cơ quan quản lý
cần xây dựng một số cơ chế phù hợp để tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho
thị trường lao động của địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc tìm hiểu hoạt động đào tạo nghề và thực trạng QLNN đối với
hoạt động đào tạo nghề trên địa bàn huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp thời
gian qua (2015 – 2017), khóa luận cố gắng đề ra các giải pháp khả thi để nâng
cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề trên địa bàn huyện trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những cơ sở lý luận của công tác QLNN đối với đào tạo nghề.
Chỉ rõ thực trạng hoạt động đào tạo nghề trên địa bàn huyện Tháp Mười,
tỉnh Đồng Tháp thời gian qua và nguyên nhân của những mặt chưa được.
Làm rõ những mặt đạt và chưa đạt trong công tác QLNN đối với đào tạo
nghề.
Đề xuất những giải pháp ngắn hạn và dài hạn nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả QLNN đối với lĩnh vực đào tạo nghề trên địa bàn huyện Tháp Mười.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: công tác QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề
trên địa bàn huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
5. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
Thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2017
4
6. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai những nội dung do đề tài đặt ra, tác giả sử dụng một số
phương pháp sau:
- Phương pháp so sánh: được dùng để so sánh, đối chiếu giữa các số liệu
của các năm với nhau để từ đó đưa ra những đánh giá của bản thân về các nội
dung được nêu ra trong khóa luận.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp số liệu, tài liệu trong quá trình
nghiên cứu. Phương pháp phân tích được sử dụng xuyên suốt khóa luận, dùng
để phân tích các nguồn tài liệu (sách, tạp chí, khóa luận,...), phân tích các nội
dung của khóa luận. Phương pháp tổng hợp là phương pháp liên kết những
mặt, những bộ phận, những mối quan hệ thông tin đã thu thập được thành một
chỉnh thể để tạo ra một hệ thống thông tin mới đầy đủ và sâu sắc về chủ đề
nghiên cứu.
- Phương pháp phỏng vấn: tác động tâm lý xã hội trực tiếp giữa người đi
phỏng vấn và người được phỏng vấn. Phương pháp này dùng để phỏng vấn
một số cán bộ, công chức (CBCC) phụ trách lĩnh vực lao động, việc làm để từ
đó hiểu rõ hơn về công tác QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề trên địa bàn
huyện Tháp Mười.
7. Đóng góp của khóa luận
Thứ nhất, khóa luận trình bày những vấn đề cơ bản về đào tạo nghề và
QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề.
Thứ hai, cung cấp cho các nhà nghiên cứu và các nhà quản lý một bức
tranh tổng thể về thực trạng đào tạo nghề và công tác QLNN đối với hoạt
động đào tạo nghề ở huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Đây là sẽ cơ sở thực
tiễn để các nhà quản lý có những giải pháp quản lý đối với hoạt động đào tạo
nghề trên địa bàn huyện trong thời gian tới.
Thứ ba, đề tài cũng đề ra một số giải pháp có tính khả thi để nâng cao
hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề ở địa phương.
5
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung khóa luận gồm 3 chương như
sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với hoạt
động đào tạo nghề
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động đào tạo nghề
trên địa bàn huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt
động đào tạo nghề trên địa bàn huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO NGHỀ
1.1. Những vấn đề cơ bản về đào tạo nghề
1.1.1. Khái niệm đào tạo nghề
Đào tạo nghề là một hoạt động đã được tiến hành ở nước ta từ nhiều năm
qua nhưng đến nay vẫn chưa có sự thống nhất chung giữa các nhà nghiên cứu
về thuật ngữ này. Hiện nay có một số cách hiểu về đào tạo nghề như sau:
Theo luật Dạy nghề 2006, “đào tạo nghề” được sử dụng với với thuật
ngữ khác là “dạy nghề”, tuy nhiên về mặt nội hàm thì 2 khái niệm này có sự
đồng nhất. Cụ thể, theo Khoản 1, Điều 5, Luật Dạy nghề 2006 định nghĩa:
“Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái
độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm
hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khoá học”.
Đến luật Giáo dục nghề nghiệp 2014, “đào tạo nghề” lại được sử dụng
với thuật ngữ mới là “đào tạo nghề nghiệp”. Theo Khoản 2, Điều 3 trong luật
này định nghĩa: “Đào tạo nghề nghiệp là hoạt động dạy và học nhằm trang bị
kiến thức và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được
việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học hoặc để nâng cao
trình độ nghề nghiệp”.
Nguyễn Đức Tĩnh: Đào tạo nghề là hoạt động dạy nghề trong các cơ sở
dạy nghề, lớp dạy nghề, nhằm truyền đạt kiến thức về lý thuyết và kỹ năng
thực hành cho người học nghề, để người học nghề có được trình độ, kỹ năng,
kỹ xảo và đạt được những tiêu chuẩn nhất định của một nghề hoặc nhiều nghề
đáp ứng yêu cầu việc làm của thị trường lao động.2
2 Nguyễn Đức Tĩnh (2010), Quản lý nhà nước về đầu tư phát triển đào tạo nghề ở Việt Nam, NXB Dân Trí,
Hà Nội, tr.11-12.
7
Tổ chức lao động quốc tế (ILO): Đào tạo nghề là nhằm cung cấp cho
người học những kỹ năng cần thiết để thực hiện tất cả các nhiệm vụ liên quan
đến công việc, nghề nghiệp được giao.3
Từ các định nghĩa trên, chúng ta có thể thấy mục tiêu của đào tạo nghề là
cung cấp cho người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ
khác nhau, nhằm hun đúc cho họ có được đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý
thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khỏe, tạo điều kiện cho người lao
động có khả năng tìm việc làm, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
củng cố quốc phòng, an ninh, đạt được những tiêu chuẩn nhất định của một
nghề hoặc nhiều nghề, tốt nghiệp các khóa đào tạo được cấp bằng hoặc chứng
chỉ nghề.
Đào tạo nghề được kết hợp chặt chẽ giữa giảng dạy lý thuyết với rèn
luyện kỹ năng thực hành, để sau khi tốt nghiệp người lao động có khả năng
hành nghề. Đào tạo nghề được tiến hành một cách khoa học, đảm bảo tính hệ
thống, hợp lý, toàn diện trên cả 3 phương diện: kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo;
thái độ lao động; đạo đức nghề nghiệp.
Nói tóm lại, theo tác giả thì đào tạo nghề là một quá trình nhằm mục
đích trang bị những kiến thức, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp cho người học để
giúp họ tìm kiếm được việc làm hoặc có thể tự tạo được việc làm sau khi kết
thúc khóa học.
1.1.2. Đặc điểm của đào tạo nghề
Thứ nhất, người lao động ở nông thôn được tham gia chương trình đào
tạo nghề của Chính phủ ban hành. Trong đó ưu tiên dạy nghề cho các đối
tượng là: người thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với
cách mạng, hộ nghèo, hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ
nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người bị thu hồi đất canh tác.
3 Nguyễn Đức Tĩnh (2010), Quản lý nhà nước về đầu tư phát triển đào tạo nghề ở Việt Nam, NXB Dân Trí,
Hà Nội, tr.12.
8
Thứ hai, kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề được lấy từ ngân sách trung ương
(TƯ), địa phương và nguồn tài chính từ các doanh nghiệp. Trong đó, ngân
sách TƯ đảm bảo kinh phí để thực hiện chính sách hỗ trợ lao động nông thôn
học nghề, hoạt động đào tạo; các cá nhân, doanh nghiệp tham gia công tác
đào tạo nghề được hưởng mức thuế ưu đãi theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, đào tạo nghề phải gắn với giải quyết việc làm cho người lao
động. Đây là đặc điểm nổi bật của Đề án 1956 của Chính phủ về đào tạo nghề
cho người lao động nông thôn. Thực trạng ở nước ta hiện nay, người lao động
chủ yếu sinh sống ở khu vực nông thôn và làm nghề nông nghiệp. Phần lớn
trong số họ đều sản xuất theo kiểu truyền thống, nặng về kinh nghiệm được
truyền từ đời này sang đời khác, sự hạn chế kiến thức chuyên môn về nông
nghiệp đã ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc. Một khi người nông dân quen
với cách thức canh tác lâu đời thì rất khó thay đổi, dẫn đến mức sống khó cải
thiện. Trước tình hình đó, Chính phủ đã xây dựng đề án 1956 nhằm nâng cao
chất lượng cuộc sống ở khu vực nông thôn bằng cách dạy nghề cho họ, giảm
tỷ lệ hộ nghèo, đặc biệt là hộ nghèo người dân tộc thiểu số.
Thứ tư, đào tạo nghề hướng tới từng bước xoá bỏ sự cách biệt cứng nhắc
giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị, giữa lao động chân tay và lao
động trí óc. Người lao động nói chung và lao động qua đào tạo nghề nói riêng
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tác động trực tiếp đến cơ cấu, trình độ và việc sử
dụng lao động. Khi tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ trong nền kinh tế tăng lên
dẫn đến lao động trong ngành công nghiệp tăng lên đồng thời lao động trong
nông nghiệp giảm xuống. Khi đào tạo nghề thì lao động nông nghiệp hoặc trở
thành lao động công nghiệp, dịch vụ hoặc vừa lao động trong khu vực nông
nghiệp, vừa lao động trong khu vực công nghiệp, dịch vụ. Đồng thời cùng với
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đào tạo nghề giúp người lao động
nông nghiệp chuyển đổi nghề để ổn định cuộc sống, từ đó làm thay đổi bộ
9
mặt nông thôn, từng bước xóa bỏ sự cách biệt giữa khu vực nông thôn và
thành thị.
Thứ năm, có sự liên kết giữa các bên tham gia ở tất cả các khâu của quá
trình đào tạo nghề. Từ khâu tuyển sinh đầu vào đến quá trình đào tạo và đầu
ra phải có sự phối hợp ăn ý giữa chính quyền - đại diện QLNN, doanh nghiệp
- đại diện sử dụng lao động qua đào tạo nghề, người lao động - đại diện bên
hưởng thụ hỗ trợ dự án. Trong đó, chính quyền quản lý đóng vai trò cầu nối
trung gian cho nhà tuyển dụng doanh nghiệp và người lao động, thường
xuyên điều tra khảo sát nhu cầu lao động của nhà tuyển dụng lao động và
thông tin rộng rãi đến các cấp và trực tiếp đến người lao động, đặc biệt người
lao động chưa có việc làm hoặc mới nghỉ việc. Tính liên kết trong đào tạo
nghề không thể thiếu đối với bất kỳ mô hình đào tạo nào, từ truyền thống cho
đến hiện đại. Trong xã hội ngày càng hiện đại, sự xuất hiện các tổ chức làm
nhiệm vụ trung gian là điều tất yếu. Chính quyền quản lý hoạt động của tổ
chức trên từng phạm vi của lãnh thổ, nhờ vào việc tổ chức dịch vụ nên nắm
được thông tin về kết quả cần chuyển giao của nghiên cứu và nhu cầu của nơi
cần sự ứng dụng khoa học và công nghệ nên hiệu quả đào tạo nghề sẽ tăng
lên. Để làm tốt được sự liên kết nêu trên, đại diện mỗi bên tham gia phải tìm
tiếng nói chung và cùng ký vào một bản ký kết trong đó quy định nghĩa vụ,
quyền lợi cụ thể khi tham gia vào từng mắt xích của hệ thống.
Thứ sáu, từng bước thay đổi những định hướng giá trị nghề nghiệp, trong
đó cần có sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích, nhu cầu của cá nhân và xã hội.
Quan niệm “chỉ học nghề khi không trúng tuyển cao đẳng, đại học” còn rất
phổ biến, xem trọng nghề được đào tạo rất ít mà hầu hết cho rằng “học nghề
cho có” bởi vì chỉ có người có bằng cao đẳng, đại học mới có thể kiếm được
việc làm. Hơn nữa, người lao động đăng ký tham gia học nghề chỉ vì được
miễn học phí và được hỗ trợ chi phí ăn ở, đi lại trong thời gian đào tạo mà họ
chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học nghề theo chủ trương định
hướng của chính quyền. Việc thay đổi nhận thức phải được tiến hành trong
10
một thời gian dài thì mới hy vọng có sự chuyển biến của người lao động, chỉ
khi nào họ nhận thức đúng vai trò của công tác đào tạo nghề thì chất lượng
mới có thể thay đổi theo hướng tích cực.
Thứ bảy, chuyển dần từ đào tạo nghề một lần sang đào tạo, bồi dưỡng
liên tục, suốt đời. Chuyển từ đào tạo kỹ năng sang đào tạo và hình thành năng
lực, đặc biệt là các năng lực mềm (tư duy, thích nghi, biến đổi…). Đây là đặc
điểm có tính đột phá trong đào tạo nghề, từ việc thay đổi trong suy nghĩ của
người lao động đến việc hình thành năng lực tư duy lâu dài, từ việc được ý
thức cho đến tự ý thức. Với những thay đổi không ngừng trong quá trình hội
nhập và phát triển ở bất kỳ khu vực lao động nào như hiện nay đã đặt ra cho
công tác đào tạo nghề nhiều thách thức đòi hỏi phải xây dựng kế hoạch đào
tạo lâu dài để đáp ứng được điều kiện thay đổi của thực tế. Hầu hết những cơ
sở đào tạo nghề hiện nay mới hướng tới những giá trị đạt chỉ tiêu hiện tại,
chưa xác định được định hướng trong phát triển tương lai, điều này đòi hỏi ở
người lao động ngày càng nhiều yêu cầu.
1.1.3. Vai trò của đào tạo nghề
* Hình thành và phát triển năng lực cho người lao động
Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn
tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: (i) áp
dụng công nghệ mới, (ii) phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và (iii) nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, động lực quan trọng nhất của sự tăng
trưởng kinh tế bền vững chính là những con người được đào tạo, đặc biệt là
nhân lực có kỹ năng nghề cao. Trong bối cảnh các nguồn lực tự nhiên và
nguồn lực khác là hữu hạn và ngày càng có nguy cơ cạn kiệt, thì nguồn nhân
lực có chất lượng chính là vũ khí mạnh mẽ nhất để giành thắng lợi trong cạnh
tranh giữa các nền kinh tế.
Nguồn nhân lực chất lượng cao, là những con người được đầu tư phát
triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo (nói
11
cách khác, đó chính là năng lực thực hiện của nguồn nhân lực). Năng lực thực
hiện này chỉ có thể có được thông qua giáo dục - đào tạo và tích lũy kinh
nghiệm trong quá trình làm việc. Tuy nhiên, ngay cả việc tích lũy kinh
nghiệm này cũng phải dựa trên một nền tảng là giáo dục - đào tạo nghề
nghiệp cơ bản.
* Nâng cao khả năng cạnh tranh của thị trường lao động
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động, những người
học vấn thấp, kỹ năng, tay nghề thấp hoặc không có tay nghề khó có thể cạnh
tranh được so với những người có trình độ, có kỹ năng tay nghề cao. Khi đó,
họ sẽ trở thành nhóm người “yếu thế”, phải làm những việc thu nhập thấp,
thậm chí không kiếm được việc làm, trở thành người thất nghiệp dài hạn và
tạo gánh nặng cho xã hội. Người lao động cần được trang bị những kỹ năng
cần thiết để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường lao động mà cách
hiệu quả nhất là đầu tư vào giáo dục, đào tạo nghề.
Thị trường lao động lại bao gồm người lao động và người tuyển dụng lao
động, khi chất lượng của người lao động được nâng lên, các nhà tuyển dụng
cũng có nhiều cơ hội hơn nữa trong việc tìm kiếm nhân lực đáp ứng được các
yêu cầu của công việc. Nhìn chung, đào tạo nghề cho lao động góp nâng cao
chất lượng của thị trường lao động chung.
* Cung ứng lao động cho quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước
Vai trò của đào tạo nghề đối với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
được thể hiện thông qua chính nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Nhu cầu
của nền kinh tế công nghiệp đòi hỏi phải phát triển đội ngũ lao động có kiến
thức, có kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng làm chủ được các phương
tiện, máy móc, công nghệ. Quá trình công nghiệp hóa dài hay ngắn, ngoài các
yếu tố về cơ chế, chính sách và thể chế còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực
12
của đội ngũ lao động kỹ thuật này. Đây có thể nói là nhu cầu khách quan của
nền kinh tế, đòi hỏi Chính phủ các nước phải đầu tư cho đào tạo nghề.
Ở nước ta, ngay từ Đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định: “Phát
triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững”. Phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội; xây dựng nền giáo dục theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa”; thực hiện công bằng trong giáo dục.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng đã đề ra chủ trương
phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề giai đoạn 2006 - 2010 là: “Phát triển
mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo cao đẳng
nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế động lực và
cho xuất khẩu lao động” tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn tới.4
1.1.4. Các trình độ trong đào tạo nghề
Căn cứ vào Điều 33, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 đào tạo nghề
có ba trình độ đào tạo là sơ cấp, trung cấp, cao đẳng.
1.1.4.1. Trình độ sơ cấp
Đào tạo nghề trình độ sơ cấp được thực hiện từ ba tháng đến dưới một
năm học nhưng phải đảm bảo thời gian thực học tối thiểu là 300 giờ học đối
với người có trình độ học vấn phù hợp với nghề cần học.
1.1.4.2. Trình độ trung cấp
Đào tạo nghề trình độ trung cấp được thực hiện từ một đến hai năm học
tuỳ theo chuyên ngành hoặc nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp
THCS trở lên. Người có bằng tốt nghiệp THCS, nếu có nguyện vọng tiếp tục
4 Mạc Văn Tiến, Vai trò của đào tạo nghề đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
/>tabid=466&a=1382&pid=23. Truy cập ngày 24/4/2017.
13
học lên trình độ cao đẳng thì phải học và thi đạt yêu cầu khối lượng văn hóa
THPT.
1.1.4.3. Trình độ cao đẳng
Đào tạo nghề trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học
tuỳ theo chuyên ngành hoặc nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp
THPT; từ một đến hai năm học tuỳ theo chuyên ngành hoặc nghề đào tạo đối
với người có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề cùng ngành, nghề đào tạo và có
bằng tốt nghiệp THPT hoặc đã học và thi đạt yêu cầu đủ khối lượng kiến thức
văn hóa THPT.
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo nghề
* Đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước về phát triển đào tạo nghề
Trong mỗi giai đoạn, những đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước phù hợp sẽ góp phần thúc đẩy công tác đào tạo nghề
phát triển, góp phần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển kinh
tế - xã hội. Trong những năm vừa qua do đổi mới cơ chế quản lý, phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi và nhân
tố mới đa dạng để các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở, các tổ chức xã hội và
toàn dân chủ động tạo chỗ làm việc mới, đã giải quyết được một bước yêu cầu
về việc làm và đời sống của người lao động, góp phần ổn định tình hình kinh
tế - xã hội. Kết quả đạt được trong tất cả lĩnh vực kinh tế - chính trị - văn hoá
- xã hội kể từ sau khi đổi mới, trước tiên phải nói đến tính đúng đắn trong việc
đề ra những chính sách liên quan đến đào tạo nghề cho người lao động của
Đảng và Nhà nước.
Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định
“Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, các hoạt động của quốc gia
đều chịu sự lãnh đạo của Đảng; lệ thuộc về chính trị là một trong những
nguyên tắc của quản lý hành chính nhà nước. Sự phát triển trong tất cả các
14
lĩnh vực của một quốc gia phụ thuộc vào ý chí của Đảng cầm quyền, định
hướng của Đảng là căn cứ trực tiếp để các cơ quan triển khai thực hiện công
tác quản lý nhà nước đào tạo nghề. Bên cạnh đó, các chủ trương, đường lối
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng cũng là các nhân tố gián tiếp tác động đến
hoạt động đào tạo nghề.
* Quy mô phát triển của nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Thực tế cũng cho thấy, khi nền kinh tế nước ta trong thời kỳ khủng
hoảng (thập kỷ 80 của thế kỷ XX), nhu cầu công nhân kỹ thuật, nhân viên
nghiệp vụ cũng giảm theo, đồng thời làm cho hệ thống các trường dạy nghề
suy giảm. Tuy nhiên, khi nền kinh tế dần phục hồi, thì nhu cầu nhân lực về
công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ tăng cả về số lượng, chất lượng, từ
đó, làm cho công tác đào tạo nghề phát triển theo. Trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế, nhiều vấn đề nảy sinh đòi hỏi cách nhìn nhận đúng đắn đâu là
vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết và nếu giải quyết rốt ráo sẽ mang lại lợi
ích cho xã hội.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu
lao động. Điều này đòi hỏi cần phải đào tạo nghề cho người lao động đang
hoạt động trong những lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp sang hoạt động trong
lĩnh vực công nghiệp - thương mại - dịch vụ, v.v. Việt Nam là một nước đang
phát triển, tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ khá cao trong cơ cấu ngành
kinh tế, ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế quốc gia. Do vậy, đào tạo
nghề nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công
nghiệp - dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp là việc làm có ý nghĩa
quyết định đến sự phát triển chung nền kinh tế ở hiện tại và tương lai. Sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tác động trở lại đối với công tác đào tạo
nghề theo hai hướng, một mặt thúc đẩy đào tạo nghề phát triển cũng như thúc
đẩy nền kinh tế phát triển nếu có sự phù hợp giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành và công tác đào tạo nghề, mặt khác sẽ kìm hãm việc đào tạo nghề nếu
15
không phù hợp hoặc phát triển không tương ứng với nhu cầu thực tế đang đòi
hỏi.
* Bối cảnh của toàn cầu hóa và yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế
Để có thể cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, thì chất
lượng nguồn lao động phải được nâng cao để đáp ứng nhu cầu. Toàn cầu hoá
là cơ hội và thách thức cho toàn bộ các quốc gia, từ phát triển hay đang phát
triển cho đến chưa phát triển. Hội nhập kinh tế toàn cầu là cơ hội lớn về xuất
khẩu lao động nước ngoài, thu hút vốn đầu tư của các nước phát triển, tiếp thu
trình độ khoa học - kỹ thuật tiên tiến…
Xuất khẩu lao động là giải pháp cấp thiết trong vấn đề giải quyết việc
làm cho người lao động, tạo cơ hội tăng thu nhập cá nhân và ngoại hối về cho
quốc gia. Người lao động có được cơ hội học hỏi nâng cao tay nghề, trình độ
hiểu biết, hình thành lối văn hoá ứng xử theo hướng công nghiệp. Sự tiếp thu
văn hóa nhanh chóng sẽ đẩy nhanh quá trình hội nhập toàn cầu của người lao
động nói riêng và của quốc gia, dân tộc nói chung.
Thu hút vốn đầu tư của nước ngoài cũng là cách hữu hiệu trong việc xây
dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh trong
nước nhằm thu hút sự đầu tư ngày một tăng. Các tập đoàn xuyên quốc gia
luôn hướng tới việc đầu tư cho các nước đang phát triển trong khu vực và trên
thế giới, mang lại lợi ích cho cả đôi bên. Năm 1998, nước ta gia nhập Diễn
đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, trở thành thành viên của Tổ
chức Thương mại Thế giới (2007), thành viên của Cộng đồng Kinh tế chung
ASEAN (2015),… thu hút rất nhiều sự đầu tư của các doanh nghiệp nước
ngoài. Tính đến năm 2013, có 9093 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
đang hoạt động, thu hút 3,2 triệu lao động, trong đó 98,7% doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng - dịch vụ, đóng góp cho ngân
sách 214,3 nghìn tỷ đồng.5 Trong tương lai, cùng với việc ban hành Luật Đầu
tư 2014, mở rộng đầu tư cho các doanh nghiệp nước ngoài vừa là cơ hội vừa
5 Tổng cục Thóng kê, 2013.
16
là thách thức đối với việc giải quyết việc làm cho lao động và công tác đào
tạo nghề.
* Thái độ của xã hội về học nghề và công tác đào tạo nghề
Thái độ coi trọng của người dân về học nghề quyết định việc họ có tham
gia vào quá trình đào tạo nghề hay không. Quan niệm cho rằng “chỉ có bằng
đại học mới có thể tìm được việc làm có lương cao, ổn định” đã gây ảnh
hưởng đến công tác tuyển sinh, đào tạo nghề, đồng thời dẫn đến tình trạng
“thừa thầy, thiếu thợ”, chưa tận dụng được tiềm lực của toàn bộ nguồn nhân
lực. Bên cạnh nhận thức về học nghề của người lao động chưa cao, quan niệm
của các bậc phụ huynh học sinh vẫn nặng về bằng cấp, bằng mọi giá phải cho
con em mình thi vào các trường cao đẳng, đại học. Đến nay, quan niệm cho
rằng trình độ học vấn càng có khả năng tìm việc làm ổn định vẫn còn ăn sâu
vào trong nếp nghĩ của đông đảo quần chúng nhân dân, bằng cấp đối với họ
rất quan trọng nên chưa thấy được hết vai trò của việc học nghề. Đòi hỏi thời
gian dài để thay đổi được nhận thức của xã hội và là một việc làm lâu dài, tác
động thuận lợi đến hiệu quả của công tác đào tạo nghề cho người lao động.
Đào tạo nghề là một bộ phận quan trọng trong hệ thống giáo dục của một
quốc gia, phần nào quyết định đến chất lượng nguồn lao động của đất nước.
Khi quốc gia nhận thức được tầm quan trọng của công tác đào tạo nghề sẽ ban
hành những chính sách thích hợp để phát triển nguồn nhân lực và ngược lại.
1.2. Quan điểm của Đảng về đào tạo nghề
Đào tạo nghề trong những năm gần đây đã được sự quan tâm đặc biệt
của Đảng và Nhà nước. Điều đó được thể hiện thông qua các Nghị quyết của
Đảng.
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển nhanh và
phân bố hợp lý hệ thống trường dạy nghề trên địa bàn cả nước, mở rộng các
hình thức đào tạo nghề đa dạng, linh hoạt, năng động”. Kết luận Hội nghị Ban
17
chấp hành TƯ Đảng lần thứ 6 - Khoá IX nhận định: “Cơ cấu giáo dục còn bất
hợp lý, mất cân đối giữa đào tạo nghề với đại học…”; đồng thời khẳng định
nhiệm vụ “Hiện đại hoá một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công
nhân bậc cao có trình độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và công nghệ
cao”, “Hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành với nhiều cấp trình
độ”. Báo cáo kiểm điểm nửa đầu nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn
quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định “Cơ cấu lại hệ thống đào tạo,
hoàn thiện hệ thống đào tạo thực hành định hướng nghề nghiệp”.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra chủ
trương phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề giai đoạn 2006 - 2010 là:
“Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo
cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế
động lực và cho xuất khẩu lao động” và “Tạo chuyển biến căn bản về chất
lượng dạy nghề tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Đẩy
mạnh xã hội hoá, khuyến khích phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng,
linh hoạt: dạy nghề ngoài công lập, tại doanh nghiệp, tại làng nghề”.
Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành TƯ Đảng khoá X đã ban hành Nghị
quyết 20-NQ/TW ngày 28/1/2008 về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: “Đào
tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí
thức hoá giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt quan tâm
xây dựng thế hệ công nhân trẻ có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề
nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập trường giai cấp và bản lĩnh
chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công nhân”.
Thông báo Kết luận số 242-TB/TW ngày 15 tháng 4 năm 2009 của Bộ
Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết TƯ 2 (khoá VIII) phương
hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020: “Để đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh hội nhập
quốc tế, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta phải đổi mới căn bản, toàn
18
diện và mạnh mẽ”.“Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, kể cả những nghề thuộc
lĩnh vực công nghệ cao. Mở rộng mạng lưới cơ sở dạy nghề, phát triển trung
tâm dạy nghề quận, huyện”. “Chú trọng xây dựng một số trường dạy nghề đạt
chuẩn khu vực và quốc tế. Tăng nhanh quy mô công nhân và cán bộ kỹ thuật
lành nghề ở những lĩnh vực công nghệ cao, tiếp cận trình độ tiên tiến thế
giới”.
Nghị quyết Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng
đã xác định: “Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có
cơ chế và chính sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với
cơ sở đào tạo. Xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân
lực cho các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, đồng thời chú trọng đào tạo nghề cho
nông dân, đặc biệt đối với người bị thu hồi đất; nâng cao tỉ lệ lao động qua
đào tạo” và “Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng dạy nghề và giáo dục
chuyên nghiệp. Rà soát, hoàn thiện quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng
lưới trường đại học, cao đẳng và dạy nghề trong cả nước”.
Nghị Quyết số 35/2009/NQ-QH12 của Quốc Hội, ngày 19 tháng 6 năm
2009 về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo
dục và đào tạo từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 - 2015: nhà nước
đảm bảo vai trò đầu tư chủ yếu cho giáo dục và đào tạo; hỗ trợ các cơ sở giáo
dục và đào tạo ngoài công lập đào tạo nâng cao trình độ giáo viên và cán bộ
quản lý; ưu tiên ngân sách cho phát triển dạy nghề.6
Thể chế hoá chủ trương của Đảng về phát triển đào tạo nghề, Quốc hội
đã ban hành Luật Giáo dục năm 2005, Luật Dạy nghề năm 2006, Luật Giáo
dục nghề nghiệp năm 2014. Trong Luật Giáo dục nghề nghiệp đã xác định:
“Mục tiêu chung của giáo dục nghề nghiệp là nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp
cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, có năng lực nghề tương ứng với trình độ
đào tạo; có đạo đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng
tạo, thích ứng với môi trường làm việc trong bối cảnh hội nhập quốc tế; bảo
6 Bộ Nội vụ, Bộ tài liệu chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng công chức xã theo Đề án 1956 của Thủ
tướng Chính phủ.
19
đảm nâng cao năng suất, chất lượng lao động; tạo điều kiện cho người học sau
khi hoàn thành khóa học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học
lên trình độ cao hơn”.
1.3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động đào tạo nghề
1.3.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động đào tạo nghề
Bản chất quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu chung. Vì vậy, QLNN đối với hoạt động
đào tạo nghề là tác động của cơ quan quản lý trực tiếp từ TƯ đến địa phương
theo quy định của pháp luật có liên quan trực tiếp đến hoạt động đào tạo nghề.
QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề là một hoạt động đã có nhiều năm
ở nước ta nhưng hiện nay rất ít tài liệu đề cập đến khái niệm này. Xuất phát từ
quan điểm QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề là một bộ phận của QLNN
nên có thể hiểu theo cách hiểu trong Luận văn thạc sĩ “QLNN trong lĩnh vực
dạy nghề ở Việt Nam” của tác giả Bùi Đức Tùng, cụ thể như sau: QLNN
trong lĩnh vực dạy nghề là quản lý theo ngành do một cơ quan TƯ thực hiện.
Đó là việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ
chế và chính sách phát triển lĩnh vực dạy nghề của đất nước, phù hợp với sự
phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay ở nước ta việc QLNN về đào tạo nghề do
Bộ LĐTBXH đảm nhiệm. Trong đó Bộ đã giao trực tiếp việc này cho Tổng
cục Dạy nghề làm đơn vị trực tiếp quản lý đối với hoạt động đào tạo nghề trên
phạm vi toàn quốc.7
QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề là hoạt động của các cơ quan nhà
nước thực hiện quyền lực công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt
động đào tạo nghề nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo đề ra.
Chủ thể QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề là các cơ quan trong bộ
máy Nhà nước từ TƯ tới địa phương theo quy định của pháp luật. Trong luật
7 Bùi Đức Tùng (2007), Quản lý nhà nước trong lĩnh vực dạy nghề ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Tài chính
ngân hàng, Đại học Kinh tế.
20
Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014 (Điều 71) đã quy định khá cụ thể trách
nhiệm của cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện nhiệm vụ QLNN đối với hoạt
động đào tạo nghề. Chính phủ thống nhất giao Bộ LĐTBXH là cơ quan
QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề.
Đối tượng QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề là mọi hoạt động liên
quan đến đào tạo nghề từ lập kế hoạch, tổ chức nhân sự đến việc thực hiện,
kiểm tra các cơ sở, trung tâm tổ chức đào tạo nghề.
Mục tiêu quản lý là giúp cho hoạt động đào tạo nghề diễn ra theo đúng
mục tiêu đã đề ra, cùng với các hoạt động khác góp phần thực hiện thành
công mục tiêu phát triển – kinh tế xã hội của nước ta.
1.3.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với hoạt động đào tạo
nghề
Sự cần thiết của hoạt động QLNN về đào tạo nghề ở nước ta xuất phát từ
những lý do sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ vai trò của đào tạo nghề (đã làm rõ ở mục số
1.1.3).
Thứ hai, QLNN về đào tạo nghề nhằm hạn chế những tiêu cực, tạo ra
môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực đào tạo nghề. Đây là một yêu
cầu khách quan của hoạt động quản lý vì nếu trong bất kỳ quá trình hoạt động
nào mà thiếu đi khâu kiểm tra, giám sát thì khả năng hoạt động sẽ chệch
hướng khỏi mục tiêu ban đầu. Những hiện tượng tiêu cực, hạn chế, yếu kém
không được phát hiện và khắc phục kịp thời thì sẽ làm cho kế hoạch đề ra sẽ
không thành công, gây ra bức xúc trong dư luận xã hội. Do vậy, nhà nước
đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động đào tạo nghề.
Thứ ba, hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của WTO, chúng ta phải
cam kết mở của dịch vụ đào tạo đề các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia
vào hoạt động dịch vụ đào tạo, mà đào tạo nghề, đặc biệt là những ngành
nghề kỹ thuật cao là loại hình dịch vụ có nhiều tiềm năng, chắc chắn thu hút
21
mạnh đầu tư trong và ngoài nước, đồng thời cũng tạo môi trường cạnh tranh
quyết liệt. Sự tham gia cạnh tranh có yếu tố nước ngoài buộc Việt Nam phải
thay đổi cơ chế, chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời có cơ chế,
chính sách khuyến khích các cơ sở đào tạo nghề trong nước vươn lên, tham
gia hội nhập.
Mặc dù hoạt động đổi mới đào tạo nghề cho phù hợp với nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế đã bước đầu được triển khai tích cực. Tuy nhiên,
chất lượng đào tạo nghề vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu phát triển.
Chính vì vậy đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động đào
tạo nghề.
Thứ tư, Nhà nước cần quản lý về hoạt động đào tạo nghề để tránh các
hạn chế sau: công tác QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề chưa có cách
thức đổi mới phương pháp làm việc, còn nặng tính hành chính đơn thuần, giải
quyết các sự việc mang tính sự vụ, kinh nghiệm và đối phó; công tác thanh
kiểm tra hoạt động đào tạo nghề đối với các cơ sở tham gia đào tạo nghề trên
địa bàn chưa được tiến hành một cách sâu sát, còn gặp khó khăn; thiếu sự
quan tâm đến công tác hướng nghiệp, đào tạo nghề ở các trường trung học cơ
sở (THCS), trung học phổ thông (THPT); công tác đào tạo nghề chưa được
đặt đúng vị trí tương xứng, phù hợp trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội; Chính quyền chưa quan tâm đúng mức đến việc quy hoạch đội ngũ cán
bộ, giáo viên làm công tác đào tạo nghề;… Ngoài ra, trước tình hình chất
lượng nguồn nhân lực thấp đã trở thành rào cản để nước ta thực hiện thành
công quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, một trong những yêu cầu cấp
thiết đặt ra là Việt Nam phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua
việc hoạch định và thực thi hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực mà
vai trò của nhà nước là chủ đạo. Bởi vậy, hoạt động đào tạo nghề cần thiết
phải có sự quản lý của Nhà nước.
22
1.3.3. Phân cấp quản lý nhà nước đối với hoạt động đào tạo nghề
Phân cấp QLNN là “chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan
QLNN cấp trên cho cơ quan QLNN cấp dưới thực hiện thường xuyên, lâu dài
ổn định trên cơ sở pháp luật”.8
Nhà nước thực hiện chức năng QLNN trên tất cả các lĩnh vực trong đó
có lĩnh vực đào tạo nghề thông qua một cơ quan quản lý chung đó là Chính
phủ và Bộ LĐTBXH là cơ quan thường trực. Chính phủ giao trách nhiệm cho
Bộ LĐTBXH chủ trì, phối hợp với các Bộ, Cơ quan ngang bộ có liên quan
thực hiện các nhiệm vụ theo quy định. Đối với địa phương: ở cấp tỉnh có Sở
LĐTBXH, ở cấp huyện có Phòng LĐTBXH phụ trách chuyên môn về hoạt
động đào tạo nghề.
8 Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách khoa, tr.612.
23
Chính phủ
Bộ LĐTBXH
Bộ, cơ quan ngang bộ có
liên quan
Tổng cục Dạy
nghề
Sở LĐTBXH
UBND
cấp tỉnh
Phòng LĐTBXH
UBND
cấp huyện
UBND
cấp xã
Sơ đồ 1: Phân cấp quản lý nhà nước đối với hoạt động đào tạo nghề
Phân công QLNN đối với hoạt động đào tạo nghề (giáo dục nghề
nghiệp) ở nước ta được quy định tại Luật giáo dục nghề nghiệp 2014 và Nghị
định 48/2015/NĐ-CP ngày 15/5/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của Luật Giáo dục nghề nghiệp, quy định cụ thể như sau:
- Chính phủ thống nhất QLNN về giáo dục nghề nghiệp. Chính phủ quy
định cụ thể thẩm quyền và nội dung QLNN về giáo dục nghề nghiệp.
- Trách nhiệm của cơ quan QLNN về giáo dục nghề nghiệp ở TƯ
Bộ LĐTBXH chủ trì, phối hợp với bộ, ngành liên quan hướng dẫn và tổ
chức thực hiện quy định của pháp luật về giáo dục nghề nghiệp.
- Trách nhiệm của Bộ, cơ quan ngang Bộ
Bộ, cơ quan ngang Bộ phối hợp với cơ quan QLNN về giáo dục nghề
nghiệp ở TƯ thực hiện QLNN về giáo dục nghề nghiệp theo thẩm quyền và
trực tiếp quản lý cơ sở giáo dục nghề nghiệp của bộ, ngành mình (nếu có)
theo chức năng, nhiệm vụ được phân công.
- Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh
24
UBND cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện
QLNN về giáo dục nghề nghiệp theo phân cấp của Chính phủ; xây dựng và tổ
chức thực hiện kế hoạch giáo dục nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu nhân lực
của địa phương; kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục nghề nghiệp
của các cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp, các tổ chức, cá nhân có tham
gia giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn theo thẩm quyền; thực hiện xã hội hóa
giáo dục nghề nghiệp; nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục nghề nghiệp
tại địa phương.
- Trách nhiệm của UBND cấp huyện
UBND cấp huyện theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao thực
hiện QLNN về giáo dục nghề nghiệp theo thẩm quyền và chịu trách nhiệm
trước UBND cấp tỉnh về phát triển giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn huyện
theo quy định tại Nghị định số 48/2015/NĐ-CP.
- Trách nhiệm của UBND cấp xã
UBND cấp xã theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao thực hiện
QLNN về giáo dục nghề nghiệp theo thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước
UBND cấp trên về phát triển giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn xã theo quy
định tại Nghị định số 48/2015/NĐ-CP .
1.4. Bài học kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với hoạt động đào
tạo nghề của một số quốc gia trên thế giới
1.4.1. Bài học kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với hoạt động
đào tạo nghề của Trung Quốc
Trung Quốc là một quốc gia có nhiều tương đồng với nước ta, cả về
đường lối phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Những năm gần đây, Trung
Quốc nổi lên là một nước có mô hình kinh tế chuyển đổi đạt nhiều thành công
vĩ đại, có nhiều thành công trong phát triển nguồn nhân lực. QLNN về đào tạo
nghề của Trung Quốc là những kinh nghiệm quý cho Việt Nam.
Hệ thống đào tạo nghề của Trung Quốc gồm ba cấp trình độ: sơ cấp
nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề. Trong những năm gần đây, Trung
25