Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

bài tập lớ hôn nhân đề 7 hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về v

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.82 KB, 15 trang )

ĐỀ 7
Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

A- ĐẶT VẤN ĐỀ
Với người việt nam, hôn nhân và gia đình là những quan hệ xã hội quan
trọng nhất trong cuộc sống. Gia đình là nơi nuôi ta lớn, dạy dỗ ta thành người, giá
trị, phẩm chất của mối con người phụ thuộc rất nhiều vào hôn nhân, gia đình của
họ. Do đó, trong vấn đề về hôn nhân, gia đình nói chung và vấn đề tài sản trong gia
đình nói riêng người việt nam thường đề cao lợi ích của gia đình hơn là lợi ích của
mỗi cá nhân.đó cũng là lý do mà luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định
chế độ tài sản vợ chồng là chế độ “ cộng đồng tạo sản ”, ở đó, sở hữa của vợ chồng
là sợ hữa chung hợp nhất.
Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay, với sự biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường đã có những tác động không nhỏ đến đời sống gia đình trên thực tế. tài sản
chung của vợ chồng lúc này không chỉ được sử dụng vì những nhu cầu đảm bảo
đời sống gia đình mà còn được đưa vào kinh doanh với mục đích sinh lợi.vợ,
chồng phát sih những nhu cầu riêng biệt, vì vậy quyền sở hữu đối với tài sản riêng
là rất cần thiết. chia tài sản chung vợ chồng trong thời kì hôn nhân đã đáp ứng
được nhu cầu đó và ngày càng trở lên hữu ích. Thiết ngĩ, cần có sự nghiên cứa, tìm
hiểu sâu hơn về vấn đề này , nên em đã chọn đề tài : “ hậu quả pháp lý của việc
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân và một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật về vấn đề này ”
trong phạm vi khuôn khổ của bài viết, với trình độ chuyên môn và nhận thức còn
hạn chế, do vậy bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất ddingj. Em rất
mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo.

B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
IGiải thích một số khái niệm
1.Khái niệm tài sản?
theo điều 163 BLDS 2005 quy định : “ tài sản bao gồm vật, tiền, giấy


tờ có giá và các quyền tài sản ”
2. khái niệm tài sản chung của vợ chồng?
Căn cứ vào điều 27 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập


hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ
chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài
sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung”
3. hôn nhân là gì ?
Căn cứ vào khoản 6 điều 8 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy
định: “ hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn ”
4. thời kì hôn nhân ?
Thời kì hôn nhân : là khoảng thời gian mà quan hệ vợ chồng còn tồn
tại. cũng cần phải làm rõ một vấn đề : hôn nhân (quan hệ vợ chồng)
đang tồn tại phải là hôn nhân được pháp luật thừa nhận, bao gồm : hôn
nhân có đăng kí kết hôn và hôn nhân thực tế. trong trường hợp hai
người vẫn sống chung với nhau như vợ chồng mà không có giấy đăng
kí kết hôn, hay không thuộc trường hợp hôn nhân thực tế thì khi yêu
cầu chia tài sản chung cũng không được coi là tài sản chung trong thời
kì hôn nhân. Để xác định thời kì hôn nhân. Chúng ta có thể dựa vào
những trường hợp sau:
Đối với hình thức hôn nhân có đăng kí kết hôn, căn cứ vào khoản
7 điều 8 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “thời kì hôn
nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng
ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”
Đối với hình thức hôn nhân thực tế, theo hướng dẫn tại thông tư
liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3 tháng 1
năm 2001, hướng dẫn thi hành nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9

tháng 6 năm 2000 của quốc hội về việc thi hành luật hôn nhân và gia
đình, thời kì hôn nhân có thế được hiểu như sau: trường hợp quan hệ
vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987trở đi trước ngày
01/01/2001 mà chưa đăng kí kết hôn thì họ có nghĩa vụ phải đăng kí
kết hôn kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003. Trong khoảng
thời gian hai năm đó, nếu họ đăng kí kết hôn thì thời kì hôn nhân được
tính từ ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng cho đến
khi có các căn cứ chấm dứt hôn nhân. Nếu sau ngày 1/1/2003 họ mới
đăng kí kết hôn thì thời kì hôn nhân của vợ chồng không được tính từ
khi họ chung sống mà chỉ được tính từ ngày họ đăng kí kết hôn đến
khi hôn nhân chấm dứt hôn nhân. Nếu sau ngày 01/01/2003 họ mới
đăng kí kết hôn thì thời kỳ hôn nhân của vợ chồng không được tính từ


khi họ chung sống mà chỉ được tính từ ngày đăng kí kết hôn cho đến
khi hôn nhân chấm dứt.
5. chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là chế định
được quy định trong luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là việc chuyển một
phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng
thành tài sản riêng của vợ hoặc chồng theo sự thỏa thuận của vợ
chồng hoặc theo quyết định của tòa án.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là một
trong ba trường hợp chia tà sản chung của vợ chồng. khác với trường
chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên chết và khi ly hôn, chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là việc chia tài sản chung của vợ
chồng khi hôn chưa chấm dứt.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thể hiện
sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ tài sản. thời kì phong

kiến, người phụ nữ trong xã hội hầu như không có trong tay chút
quyền hành nào, đặc biệt là quyền sở hữu tài sản. đến xã hội ngày nay,
những vấn đề về nhân quyền, bình đẳng giới được đề cập đến một
cách rộng rãi thì địa vị của người phụ nữ trong gia đình nói riêng,
trong xã hội nói chung đã được nâng cao rõ rệt. một trong những biểu
hiện đó là sự đổi mới của những quy định trong bộ luật dân sự năm
2005, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 một lần nữa đã cụ thể hóa
quyền sở hữu riêng của vợ chồng thông qua quy định về tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân. Chế định này đã quy định một tư duy đổi mới
của các nhà lập pháp trong việc thừa nhận quyền sở hữu riêng của vợ,
chồng, đặc biệt của người phụ nữ. tạo ra sự bình đẳng giữa vợ và
chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng định đoạt tài sản chung. Đồng
thời giải phóng phụ nữ khỏi sự lệ thuộc vào chồng – một sự lệ thuộc
mà lịch sử từ ngàn năm nay đã thừa nhận đó là một điều bất di, bất
dịch.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không
làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật và vì thế không làm
chấm chế độ sở hữu chung hợp nhất giữa vợ và chồng. có thể thấy bản
chất của chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chính


việc hôn nhân của họ đang tồn tại trước pháp luật. và điều đó nghĩa
rằng: khi hôn nhân còn tồn tại thì dù họ chia một phần hay toàn bộ tài
sản chung vợ chồng thì chế độ sở hữu chung giữa họ vẫn không hề
chấm dứt. sau khi chia họ vẫn có thể nhập tài sản riêng vào tài sản
chung để duy trì khối tài sản chung hợp nhất. đây là một đặc điểm của
chế định này nhằm tránh cho vợ chồng rơi vào tình trạng biệt sản cũng
như để phân biệt với ly thân trong xã hội.
Có thể nói chế định này không chỉ là một bước đổi mới trong lịch
sử lập pháp, nó còn rất phù hợp với thực tế của xã hội việt nam trong

những năm gần đây, tạo điều kiện cho các cặp vợ chồng có cơ hội đầu
tư kinh doanh riêng, phát triển kinh tế gia đình, kinh tế đất nước. đồng
thời mở ra cho các cặp vợ chồng nhiều cách giải quyết mâu thuẫn hơn
là việc phải ra tòa.

II- Cơ sở pháp lý
1. Chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
Điều 29 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định : chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân:
1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh
riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng
có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn
bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện
nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận.
Điều 6 nghị định số 70/2001/ NĐ-CP quy định: chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:
1. Thoả thuận chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân quy định
tại khoản 1 Điều 29 của Luật Hôn nhân và gia đình phải được lập thành văn bản
và ghi rõ các nội dung sau đây:
a) Lý do chia tài sản;
b) Phần tài sản chia (bao gồm bất động sản, động sản, các quyền tài sản); trong
đó cần mô tả rõ những tài sản được chia hoặc giá trị phần tài sản được chia;
c) Phần tài sản còn lại không chia, nếu có;
d) Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung;
đ) Các nội dung khác, nếu có.
2. Văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải ghi rõ ngày, tháng,
năm lập văn bản và phải có chữ ký của cả vợ và chồng; văn bản thoả thuận có thể



có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ
chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Trong trường hợp vợ, chồng không thoả thuận được về việc chia tài sản chung,
thì cả hai bên hoặc một bên có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.
2. hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân
Điều 30 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định : hậu quả chia tài
sản chung của vợ chồng:
Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không
chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
Điều 8 nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định : hậu quả chia tài sản
chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân:
1. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của mỗi
người, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác.
Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung
của vợ, chồng.
2.Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp
pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng,
trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác.

III)Phân tích hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân :
Thực tế giải quyết các vụ án về hôn nhân và gia đình trong những năm
qua cho thấy còn gặp và vướng mắc khi mắc khi luật hôn nhân và gia đình
năm 1986 và nghị quyết số 01 – NQ/HĐTP ngày 20-01-1988 của hội đồng
thẩm phán tòa án nhân tối cao năm 1988 không có quy định và hướng dẫn về
vấn đề hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân đang tồn tại. vì thế, điều 30 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã
khắc phục bất cập trên của luật hôn nhân và gia đình năm 1986 bằng cách quy

định hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhâ.
1.Hậu quả pháp lý về nhân thân:
Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm
dứt các quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng. mặc dù có sự phân chia tài
sản giữa vợ và chồng nhưng quan hệ hôn nhân vẫn tồn tại, vì vậy thì các
quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng không hề thay đổi, vợ
chồng tiếp tục phải thực hiện những quyền và nghĩa vụ đó. Thực tế cho
thấy, nhiều cặp vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân nhằm mục đích tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh riêng
vì không muốn ảnh hưởng đến lợi ích gia đình, mặt khác là đảm bảo đời


sống ổn định của gia đình, đây là điểm tích cực cần khuyến khích. Do
vậy cũng cần khẳng định rằng việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân không phải là gián tiếp quy định chế định ly thân. Mặt khác, luật
hôn nhân gia đình không quy định chế độ ly thân. Việc cho phép vợ
chồng có thể chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa vợ và
chồng không làm ảnh hưởng đến việc thực các nghĩa vụ nhân thân giữa
vợ và chồng. tuy nhiên việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
cũng phản ánh một phần những rạn nứt, mâu thuẫn trong đời sống vợ
chồng dẫn đến việc quyền lợi cũng như lợi ích của các thành viên trong
gia đình không được đảm bảo. đây cũng là vấn đề cần xem xét và
nghiên cứu nhiều hơn khi ta nghiên cứu vấn đề này.
2 -hậu quả pháp lý về tài sản
Theo quy định tại điều 29 và điều 30 luật hôn nhân và gia đình năm
2000, chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có thể chia toàn bộ hoặc
chia một phần tài sản chung tùy theo sự thỏa thuận của vợ chồng. nếu
vợ chồng không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết. đây là
điểm khác so với điều 18 hôn nhân gia đình năm 1986 quy định “ khi
hôn nhân tồn tại , nếu một bên yêu cầu và có lí do chính đáng thì có thể

chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định ở điều 42 của luật này”
tức là chia tài sản như ly hôn. Vì vậy, “ sau khi chia tài sản chung theo
điều 18 thì nên hiểu chế độ tài sản chung của vợ chồng sẽ chấm dứt kể
từ thời điểm phán quyết của tòa án có hiệu lực pháp luật”. so với điều
18 hôn nhân gia đình năm 1986 thì quy định tại điều 29 và 30 luật hôn
nhân gia đình năm 2000 là hợp lí hơn việc chia một phần tài sản chung
có ý nghĩa thiết thực, phù hợp với thực tiễn đời sống chung của vợ
chồng, bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ về tài sản của vợ (chồng)
đồng thời vẫn bảo đảm được lợi ích chung của gia đình.
Về phia các bên vơ chồng, yêu cầu chia toàn bộ tài sản chung chỉ đặt
ra trong những hoàn cảnh đặc biệt như phải thực hiện nghĩa vụ tài sản
quá lớn mà nếu một phần tài sản chung thì không đủ hoặc một bên có
yêu cầu chia khi bên kia có hành vi phá hoại tài sản,nghiện hút, cờ bạc...
việc chia một phần tài sản chung khác với chia toàn bộ tài sản chung ở
chỗ nó không gây ra những ảnh hưởng lớn đến đời sống chung của gia
đình, không làm mất ổn định cuộc sống chung. Ngoài phần tài sản được
chia riêng cho mỗi bên vợ chồng thì phần tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân sẽ phát sinh những hậu quả pháp lý về tài sản như sau:
a. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân sẽ
xác lập quyền sở hữu riêng của vợ và chồng với tài sản đã được
chia.


Tài sản chung sau khi được chia thì đó trở thành tài sản riêng của
vợ và chồng, họ có quyền đối với khối tài sản riêng của mình, có
đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc quyền
sở hữu của mình. Vợ chồng tự quản lý tài sản riêng của mình, nghĩa
vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán bằng tài sản riêng
(khoản 1 điều 33 luật HNGĐ 2000). Như vậy có thể coi việc chia tài
sản chung trong thời kì hôn nhân chính là căn cứ xác lập quyền sở

hữu của vợ chồng đối với tài sản riêng. Khoản 1 điều 8 nghị định
70/2001/NĐ-cp cũng quy định “hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp
vợ chồng có thỏa thuận khác.
Cũng như nghị định trên theo quy định tại điều 29 và 30 luật hôn
nhân gia đình năm 2000 thì vợ chồng có quyền sở hữu riêng đối với
tài sản đã được chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản đã
được chia.
Ví dụ: hai vợ chồng có ba ngôi nhà là tài sản chung, họ thỏa thuận
chia mỗi người sở hữu một ngôi nhà, còn một ngôi nhà được dùng
làm chỗ ở chung của gia đình. Sau khi chia, vợ hoặc chồng có thể
độc lập quyết định việc dùng ngôi nhà đã chia thể cho thuê,
bán...mà không phụ thuộc vào ý chí của bên kia. Tiền thuê nhà là tài
sản riêng của mỗi bên. Đối với những tài sản này vợ chồng có
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt theo quy định tại điều 33 luật
hôn nhân và gia đình năm 2000, vậy trong trường hợp này, vợ
(chồng) có tài sản rieeng có bị hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng
đó theo quy định tại khoản 5 điều 33 luật hôn nhân và gia đình năm
2000 không? Theo quan điểm của cá nhân em thì trong trường hợp
này vợ chồng không bị ràng buộc bởi quy định tại khoản 5 điều 33
khi định đoạt tài sản riêng của mình vì vợ, chồng đã có sự thỏa
thuận trước về việc chia tài sản đó.
b. Quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với phần tài sản chung.
Điều 30 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “...; phần
tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng.”.
điều 8 nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định rõ thêm : “...hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu
chung của vợ, chồng”.
Đối với phần tài sản chung này, quyền và nghĩa vụ của vợ,
chồng không thay đổi chế độ sở hữu chung của vợ chồng chưa

chấm dứt, nó vẫn đương nhiên tồn tại và là sở hữu chung hợp nhất.
sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng khi chia một phần tài sản
chung sẽ bao gồm:


- Phần tài sản chung của vợ chồng chưa chia.
- Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ những tài sản này.
- Tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, được thừa kế
chung sau khi chia tài sản chung. Vì quan hệ hôn nhân vẫn
đang tồn tại nên tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung,
được thừa kế chung là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất
của vợ chồng.
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi chia tài
sản chung. Ví dụ: đất được nhà nước giao, giao khoán, đất
mà vợ chồng thuê của nhà nước, được chuyển nhượng,được
thừa kế chung, cho chung..trong những trường hợp này,
quyền sử dụng đất vẫn là tài sản chung của vợ chồng vì theo
quy định tại điều 27 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì
“...quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn
là tài sản chung của vợ chồng...”
- Quyền sử dụng đất mà mỗi beebb vợ hoặc chồng coa được
sau khi chia tài sản chung do được nhà nước giao, giao
khoán, hoặc được thuê của nhà nước... theo quy định tại
điều 27 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và các điều
24,điều 25 nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì đây là tài sản
chung của vợ chồng nếu nó không liên quan đến lý do chia
tài sản chung của vợ chồng. ví dụ: sau khi chia tài sản
chung, vợ hoặc chồng thuê đất hoạc được giao để đầu tư
kinh doanh riêng hoặc nuôi chồng thủy sản...thì quyền sử
dụng đất đó là tài sản riêng của mỗi người. ngược lại, nếu

vợ, chồng yêu cầu chia một phần tài sản chung để thực hiện
nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên như nghĩa vụ đền bù
thiệt hại, nghĩa vụ trả nợ...mà sau đó vợ hoặc chồng được
giao đất, thuê đất...thì quyền sử dụng đất đó là tài sản chung
của vợ chồng. đây là những trường hợp đặc biệt cần được
quy định cụ thể khi chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân. Theo quan điểm của cá nhân, trong trường
hợp này cần quy định theo hướng: quyền sử dụng đất mà vợ
chồng hoặc mỗi bên vợ hoặc chồng có được sau khi khi chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân vẫn là tài sản chung
của vợ chồng, trừ trường hợp quyền sử dụng đất đó có được
xuất phát từ việc chia tài sản để đầu tư kinh doanh riêng.
- Một vấn đề rất quan trọng là tài sản mà vợ, chồng làm ra sau
khi chia tài sản chung: tiền lương, tiền công lao động... là tài
sản chung của vợ chồng hay là tài sản riêng của mỗi bên ?


về vấn đề này, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không có
quy định cụ thể nhưng trong nghị định số 70/2001/NĐ-CP
có quy định tại khoản 2 điều 8 như sau: “ thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập
hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài
sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa
thuận khác”. Theo quan điểm của cá nhân em thì quan điểm
này là không hợp lý cả về lý luận lẫn thực tiễn. quy định này
bộc lộ một số điểm bất cập và mâu thuẫn sau:
 Thứ nhất: theo quy định tại điều 27 thì tài sản do bất cứ
ai, vợ hay chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân đều là tài
sản chung của vợ chồng, không phân biệt mức đóng góp,
mức thu nhập của mỗi bên, không đòi hỏi phải do cả hai

vợ chồng cùng trực tiếp tạo ra. Khi chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân, vì hôn nhân vẫn đang tồn tại và
do tính chất cộng đồng của hôn nhân chi phối nên thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và
những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên vợ, chồng về
nguyên tắc vẫn là tài sản chung của vợ chồng trừ trường
hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Nhưng theo quy định
tại khoản 2 điều 8 nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì cần
phải hiểu rằng sau khi chia tài sản chung, mọi tài sản mà
vợ chồng tạo ra cũng như mọi thu nhập từ lao động của
mỗi bên vợ hoặc chồng sẽ không cò là tài sản thuộc sở
hữu chung hợp nhất nữa bất kể từ nguồn gốc nào. Và
như vậy đương nhiên sẽ dẫn đến tình trạng không còn
tồn tại sở hữu chung hợp nhất nữa vì sở hữu chung hợp
nhất của vợ chồng cơ bản có được từ lao động của mỗi
bên vợ chồng. điều này hoàn toàn mâu thuẫn với quy
định tại điều 27 luật hôn nhân và gia đình năm 2000, do
đó, cần kịp thời có sự sửa đổi quy định này.
 Thứ 2: quy định trên cũng không phù hợp với ý chí mà
mong muốn của vợ chồng, bởi vì khi có yêu cầu chia tài
sản chung, vợ hoặc chồng chỉ mong muốn chia tài sản
để có điều kiện thực hiện các ngĩa vụ riêng về tài sản
hoặc đầu tư kinh doanh riêng ... mà không muốn chấm
rứt chế độ sở hữu chung . ngay trong trường hợp chia tài
sản chung để đầu tư kinh doanh nhưng trong đời sống vợ
chồng nhiều khi các bên vợ chồng cũng tự nguyện nhập
hoa lợi, lợi tức phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh


doanh vào tài sản chung. Vì vậy, nếu không có thỏa

thuận khác thì thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất
kinh doanh phát sinh từ phần tài sản đã được chia là tài
sản riêng của mỗi bên vợ chồng. việc chia tài sản chung
để đầu tư kinh doanh riêng một mặt tạo điều kiện cho
đương sự có vốn cần thiết để sản xuất kinh doanh nhưng
lý do khác quan trọng hơn là vì lợi ích chung của gia
đình, xuất phát từ ý chí của đương sự là không muốn
những rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh ảnh
hưởng đến gia đình tránh tình trạng “ khuynh gia bại
sản”. khi chia tài sản chung với mục đích để đầu tư kinh
doanh riêng cần phân biệt hai loại thu nhập phát sinh sau
khi chia tài sản chung là: hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
phần tài sản đã được chia do chính hoạt động sản xuất
kinh doanh đó ( loại thu nhập này là tài sản riêng của vợ,
chồng không liên quan đến phần tài sản đã được chia
như: tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền đền bù giá
trị quyền sử dụng đất khi giải phóng mặt bằng..cũng như
những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng như tiền xổ
số vì hôn nhân vẫn còn tồn tại nên về nguyên tắc tất cả
những tài sản này vẫn thuộc sở hữu chung hợp nhất của
vợ chồng chứ không thể là tài sản riêng của mỗi bên. Vì
vậy thu nhập do lao động, hoạt động, hoạt động sản xuất
kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi
bên sau khi chia tài sản chung chỉ là tài sản riêng của vợ
chồng nếu những thu nhập đó có được gắn liền với phần
tài sản được chia, ngược lại, những thu nhập đó là tài sản
chung của vợ chồng nếu nó có được không liên quan đến
phần tài sản đã được chia. Do vậy, quy định như khoản 2
điều 8 nghị định số 70/2001/NĐ-cp là không chính xác.
 Thứ 3: sau khi chia tài sản chung, đa số các cặp vợ

chồng vẫn sống chung, chỉ trong hoàn cảnh đặc biệt họ
mới sống riêng. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân không phải là quy định về ly thân nên không đương
nhiên sẽ dẫn đến chế độ biệt sản. sau khi chia tài sản
chung ( dù chia một phần hay chia toàn bộ ) vợ chồng
vẫn sống chung nên việc duy trì đời sống chung là trách
nhiệm của cả hai vợ chồng, không phân biệt mức độ thu
nhập của mỗi bên. Nếu một bên không có thu nhập,
không có tài sản thì bên kia vẫn phải chăm lo đời sống


chung của gia đình. Tuy nhiên, trách nhiệm đóng góp
của vợ chồng vào đời sống chung của gia đình như thế
nào thì lại chưa có quy định, trong khi đó theo quy định
tại khoản 2 điều 8 nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì toàn
bộ thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh
và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi
chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng. như
vậy, trong trường hợp vợ,chồng chia hết (chia toàn bộ tài
sản chung) mà sau đó không có tài sản chung nào khác:
không có tài sản thừa kế, không được tặng cho chung tài
sản...thì đời sống chung của gia đình sẽ được bảo đảm
như thế nào? Rõ ràng là vấn đề này, quy định trên đã thể
hiện sự không đầy đủ, thiếu chặt chẽ và lôgic. Trong
pháp luật các nước, vợ chồng có thể thỏa thuận về tài sản
trước khi kết hôn, có thể là phân chia tài sản chung và
bất cứ tài sản nào mà vợ hoặc chồng có được sau khi
chia tài sản chung sẽ là tài sản riêng của người đó. Đối
với tài sản mà vợ chồng được thừa kế hoặc được tặng
cho sau khi chia tài sản chung sẽ trở thành tài sản riêng

chia đều cho cả vợ và chồng. trách nhiệm của vợ, chồng
đối với đời sống chung của gia đình sau khi chia tài sản
chung cũng được quy định rõ ràng như: “...cả hai vợ
chồng phải chịu trách nhiệm thanh toán những chi tiêu
của gia đình theo tỉ lệ tương ứng với số tài sản riêng của
mỗi người”. vì vậy, theo quan điểm cá nhân, nếu đã quy
định như khoản 2 điều 8 nghị định số 70/2001/NĐ-CP
thì cần phải có quy định cụ thể về trách nhiệm của vợ
chồng đối với đời sống chung của gia đình sau khi chia
tài sản chung.
c.Vấn đề khôi phục chế độ tài sản chung
trong luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không có
quy định nào về việc khôi phục chế độ tài sản chung.
Tuy nhiên, trong nghị định số 70/2001/NĐ-CP tại điều 9
và điều 10 lại có quy định này về vấn đề này. Xét về hiệu
lực pháp lý, các quy định của nghị định phải phù hợp với
quy định trong luật vì luật có hiệu lực pháp lý cao hơn,
nghị định chỉ có thể quy định chi tiết việc thi hành luật
mà không thể quy định trái với luật. hơn nữa, quy định
quy định về việc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ


chồng trong nghị định cũng còn thể hiện một số điểm
không hợp lý. Cụ thể là :
- Thứ nhất: việc khôi phục chế độ tài sản chung chỉ có thể đặt
ra khi đã chia hết tài sản chung, nhưng không phải trong
trường hợp chia tài sản chung nào trong thời kỳ hôn nhân
cũng chia hết tài sản chung như đã phân tích ở trên, vì vậy
nếu chưa chia hết tài sản chung thì chế độ tài sản chung vẫn
đương nhiên tồn tại mà không phụ thuộc vào thỏa thuận

khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng. ngay trong
quy định tại điểm c khoản 1 điều 9 của nghị định số
70/2001/NĐ-CP cũng đã thể hiện rõ mâu thuẫn này.
- Thứ hai : việc khôi phục chế độ tài sản chung sẽ là cần thiết,
có ý nghĩa và lôgic nếu có quy định rằng việc chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ làm chấm dứt hoàn toàn
chế độ sở hữu chung của vợ chồng, bất cứ tài sản nào mà vợ
chồng có được sau khi chia tài sản chung đều là tài sản riêng
của mỗi bên vợ, chồng, kể cả những tài sản mà vợ chồng
được thừa kế chung, được tặng cho chung sẽ được chia đều
cho mỗi bên và là tài sản riêng của vợ, chồng. nói cách
khác, việc khôi phục chế độ tài sản chung sẽ là hợp lý nếu
thừa nhận rằng việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân sẽ dẫn đến chế độ biệt sản. với các quy định trong nghị
định số 70/2001/NĐ-CP thì có thể dẫn tới cách hiểu này.
Song điều đó rõ ràng không phải là ý muốn của các nhà lập
pháp.
- Thứ 3: việc quy định về khôi phục chế độ tài sản chung theo
quan điểm cá nhân là không cần thiết. bởi vì: theo quy định
tại khoản 2 điều 32 luật hôn nhân và gia định năm 2000 thì :
“vợ, chông có quyền nhập hoặc không tài sản riêng vào
khối tài sản chung” . vì pháp luật nước ta không quy định
vợ chồng có quyền lập hôn ước nên khi nhập tài sản riêng
vào khối tài sản chung thì khối tài sản chung đó sẽ tuân theo
chế độ tài sản pháp định, tức là chế độ sở hữu chung hợp
nhất. việc khôi phục chế độ tài sản chung thực chất là đem
phần tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng góp vào tài sản
chung và như vậy chế độ sở hữu chung của vợ chồng sẽ
không còn là sở hữu chung hợp nhất nữa mà là sở hữu
chung theo phần. điều đó là mâu thuẫn với các quy định về

chế độ sở hữu tài sản của vợ chồng trong pháp luật nước ta,
làm phức tạp thêm các mối quan hệ của vợ chồng về tài sản


đồng thời không bảo vệ được lợi ích chung của gia đình một
cách hiệu quả nhất.
Với điều kiện kinh tế hiện nay ở nước ta, việc quy
định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là cần thiết,
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. song để giải tốt nhất
các tranh chấp có thể xảy ra, bảo đảm hiệu quả điều chỉnh
của pháp luật thì các quy định của pháp luật về vấn đề này
được quy định một cách chặt chẽ, thống nhất và hợp lý hơn.

IV-Một số giải pháp về hoàn thiện pháp luật về vấn
đề chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
1. Giới hạn quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để thực hiện
nghĩa vụ dân sự riêng.
Pháp luật cần quy định cụ thể về nghĩa vụ mà vợ, chồng có quyền thỏa
thuận hoặc yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Đó là những
nghĩa vụ riêng mà vợ, chồng không có hoặc không đủ tài sản riêng để thực
hiện hoặc tài sản riêng đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ nhưng do đang được
sử dụng chung và hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đang là nguồn sống duy
nhất của gia đình nên phải thực hiện nghĩa vụ bằng phần tài sản của mình
trong tài sản chung.
2. Quy định cụ thể về lý do chính đáng
Pháp luật cần quy định cụ thể tiêu chuẩn đánh giá lý do là chính đáng hay
không chính đáng. Theo chúng tôi lý do là chính đáng khi thuộc một trong
các trường hợp: Vợ hoặc chồng thường xuyên có hành vi phá tán tài sản
chung; vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc trong việc quản lý, sử dụng, định
đoạt tài sản chung; một bên vợ hoặc chồng bị coi là vắng mặt tại nơi cư trú

hoặc bị tuyên bố mất tích theo quy định tại Điều 74 và Điều 78 BLDS năm
2005.
3 . Quy định quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng cho người thứ ba
(người có quyền)
Theo chúng tôi, quy định cho người có quyền được yêu cầu chia tài sản chung của
vợ chồng là cần thiết để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho họ và phù hợp với quy
định về quyền yêu cầu của người có quyền tại Khoản 2 Điều 224 BLDS năm 2005.
12
4.Quy định cụ thể trường hợp vợ chồng yêu cầu Tòa án chia tài sản chung và
nguyên tắc chia tài sản chung tại Tòa án
Pháp luật nên có hướng dẫn cụ thể về trường hợp vợ chồng không thỏa
thuận được về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để làm cơ sở cho vợ
chồng thực hiện cũng như Tòa án khi thụ lý, giải quyết yêu cầu của vợ
chồng. Đồng thời, Luật HN&GĐ năm 2000 cũng cần được bổ sung nguyên


tắc chia tài sản chung tại Tòa án. Có thể quy định nguyên tắc chia theo
hướng Tòa án căn cứ vào lý do, mục đích chia tài sản chung để quyết định
phạm vi tài sản chung được chia. Việc chia tài sản chung được giải quyết
theo các nguyên tắc chia tài sản chung khi ly hôn.
5. quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung đều phải công chứng, chứng
thực hoặc được Tòa án công nhận
Nhằm kiểm soát hiệu quả thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng và bảo vệ
quyền, lợi ích của những người liên quan, pháp luật nên quy định mọi văn bản thỏa
thuận chia tài sản chung đều phải công chứng hoặc được Tòa án công nhận đồng
thời nhà làm luật cũng cần quy định trách nhiệm thông báo của vợ, chồng đối với
người xác lập giao dịch với mình về việc vợ chồng đã chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân.
6. Bổ sung thêm quy định về hậu quả pháp lý của chế định chia tài sản chung
trong

thời kỳ hôn nhân
Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cần được quy
định chặt chẽ và hợp lý hơn "Tài sản mà vợ chồng có được sau khi chia tài sản
chung do được thừa kế chung, tặng cho chung là tài sản chung của vợ chồng, trừ
trường hợp người để lại tài sản thừa kế, người tặng cho tài sản đã có sự phân định
rõ quyền của mỗi bên vợ, chồng trong khối tài sản đó. Thu nhập do lao động, hoạt
động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi
chia tài sản chung là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa
thuận khác". Vấn đề khôi phục chế độ tài sản chung cần được luật hóa để đảm bảo
tính thống nhất và nâng cao hiệu lực pháp lý của các quy định về hậu quả pháp lý
của chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đồng thời, pháp luật
nên quy định bổ sung Khoản 4 vào Điều 10 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP với nội
dung như sau: "Trong trường hợp Tòa án cho chia tài sản chung theo quy định tại
Khoản 3 Điều 6 Nghị định này, thì văn bản thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản
chung cũng phải được Tòa án công nhận và có hiệu lực kể từ ngày quyết định của
Tòa án công nhận thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng có hiệu
lực pháp luật."
7. Quy định cụ thể về thuế, lệ phí liên quan đến tài sản được chia khi vợ chồng
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Để tránh tình trạng né tránh làm văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ
chồng đang diễn ra phổ biến trong thực tế, chúng tôi đề nghị các văn bản luật có
liên quan, cụ thể là luật thuế thu nhập cá nhân hoặc văn bản hướng dẫn và Nghị
định quy định về lệ phí trước bạ phải dự liệu thêm trường hợp chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân (đối với các tài sản là bất động sản, tài sản khác phải đăng
ký quyền sở hữu) là trường hợp được miễn thuế, không phải nộp lệ phí trước bạ.


C-KẾT THÚC VẤN ĐỀ
hiện nay ở nước ta, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
chưa thực sự phổ biến. tuy nhiên, với sự hội nhập, hòa nhập sâu rộng cả về kinh tế

và văn hóa như hiện nay, trong những năm tới, các quy định pháp luật về vấn đề
này sẽ trở nên hết sức thiết thực. Mặt khác, để pháp luật có thể bám sát đời sống và
thực hiện chức năng điều chỉnh xã hội, các nhà làm luật đòi hỏi phải có sự linh
hoạt, nhạy bén và chặt chẽ trong công tác làm luật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật hôn nhân và gia đình việt nam – trường đại học luật hà nội
(nhà xuất bản công an nhân dân)
2. Nguyễn Văn Cừ (2008), Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và
Gia đình Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
3. Trần Quang Cường (2011), "Tài sản riêng hay chung", Tòa án nhân dân,
(01), tr. 36, 24
4. Chính phủ (2001), Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10 quy định chi
tiết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình, Hà Nội
5. Nguyễn Ngọc Điện (2004), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
6.
7. Đoàn Thị Phương Điệp (2008), "Nguyên tắc suy đoán tài sản chung trong
luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam và luật Dân sự Pháp", nghiên cứu Lập
pháp, (18), tr. 47-49, 54.
8.

/>


×