Đề bài số 2: Bình luận các quy định về thu NSNN từ phí , lệ phí và bước
đầu đề xuất các giải pháp hoàn thiện.
BÀI LÀM
I.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong xã hội có nhà nước, điều mang tính quy luật là Nhà nước phải
tham gia vào quá trình phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân được
sáng tạo từ bản thân nền kinh tế. Múc đích của việc tham gia phân phối của
nhà nước là thu về tay mình những nguồn của cải để đáp ứng nhu cầu chi tiêu
của nhà nước, trước hết để duy trì sự tồn tại của bộ máy nhà nước, thực hiện
các chức năng kinh tế –xã hội mà nhà nước đảm nhiệm. Ngân sách nhà nước
là một hình thức để nhà nước tham gia vào quá trình phân phối đó. Ngân sách
nhà nước là việc nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần
nguồn tài chính quốc qia hình thành quỹ ngân sách nhà nước nhằm thoả mãn
các nhu cầu của nhà nước. Bên cạnh thuế, phí, lệ phí tồn tại như một tất yếu
khách quan trong mọi nền kinh tế với tư cách là một nguồn thu ngân sách cửa
mọi nhà nước. Phí và lệ phí là các khoản thu tuy chiếm trọng không lớn trong
tổng nguồn thu ngân sách nhà nước nhưng có ý nghĩa quan trọng vì nó liên
quan đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Bài tiểu luận “Bình luận các
quy định về thu NSNN từ phí , lệ phí và bước đầu đề xuất các giải pháp
hoàn thiện” sẽ góp phần đưa ra cái nhìn rõ nét hơn về vấn đề này.
II.
NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lí luận
Phí, lệ phí tồn tại như một tất yếu khách quan trong mọi nền kinh tế. Phí
mà đặc biệt là lệ phí tồn tại gắn liền với nhà nước, là kết quả của vieejcn hà
nước thực hiện chức năng công quyền của mình đối với xã hội. Quyền lực của
nhà nước trong quản lý đất nước, quản lý xã hội được thể hiện thông qua
những hoạt động quản lý. Những hoạt động này được thực hiện với mục tiêu
quản lý của nhà nước với bản chất là cơ quan công quyền. Mặt khác, hoạt
động đó mang lại cho người dan và các chủ thể khác trong xã hội những lợi
ích xã hội to lớn mà thông qua đó tạo nên một cộng đồng trong kỷ cương và
chật tự.
Để thể hiện quyền lực của mình đối với xã hội, đồng thời cũng là để người
dân nhận thức được quyền lực của nhà nước và những lợi ích quản lý mà nhà
nước đem lại, nhà nước đã thực hiện điều tiết một phần thu nhập của người
1
dân vào ngân sách của nhà nước, khoản thu đó của nhà nước được gọi là phí,
lệ phí.
Sự tồn tại của phí và lệ phí không chỉ căn cứ vào các yếu tố quyền lực nói
trên mà còn xuất phát từ các nguyên nhân kinh tế. Những hoạt động quản lý,
lợi ích mà nhà nước đem lại cho người dân, xét về mặt kinh tế là những hoạt
động cung cấp dịch vụ của nhà nước mà chúng ta gọi là dịch vụ công. Những
dịch vụ công này chỉ có nhà nước – một tổ chức công quyền mới có quyền
cung cấp, hoặc những loại dịch vụ thiết yếu đối với xã hội nhưng không một
tổ chức, cad nhân nào muốn làm hoặc làm nhưng không đem lại hiệu quả và
nhà nước phải đứng ra thoả mãn những nhu cầu đó của xã hội. Để cung cấp
được những dịch vụ đó, nhà nước phải sử dụng các bộ máy để thực hiện, do
vậy điều tất yếu để bù đắp những chi phí mà mình bỏ ra, nhà nước phải thu lại
từ chính sự đóng góp của nhân dân – những người sử dụng dịch vụ đó. Những
khoản đóng góp đó chính là phí, lệ phí.
1.1 Khái niệm thu ngân sách nhà nước
Thu ngân sách nhà nước là việc nhà nước dùng quyền lực của mình để tập
trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành Quỹ ngân sách nhà
nuwocs nhằm thoả mãn các nhu cầu của nhà nước.
Thu ngân sách nhà nước hoạt động rất quan trong của nhà nước, tạo ra thu
nhập tài chính của nhà nước và đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thu
ngân sách nhà nước là hoạt động mang nội dung kinh tế, vì các mục tiêu kinh
tế trực tiếp nhưng luôn hàm chứa các yếu tố quyền lực chính trị và không tách
rời với yếu tố nhà nước, pháp quyền và các mục tiêu chính trị của nhà nước.
1.2. Khái niệm phí, lệ phí
Phí, lệ phí là một hiện tượng quan trọng của đời sống kinh tế – xã hội.
Cùng với thuế, phí và lệ phí là nguồn thu quan trọng của NSNN. Khái niệm
phí được xác định đầu tiên vào năm 1992 tại Thông Tư 46/TC/TCT ngày
26/6/1993 của Bộ tài chính dướng dẫn chế độ quản lý thu phí, lệ phí ở xã,
phường với nội hàm và phạm vi điều chỉnh khá hẹp, cụ thể mới chỉ đề cập
đến” phí ở xã phường” và chưa có sự phân biệt giữa phí và lệ phí. Đến 1999,
khi chính phủ ban hành Nghị định số 04/1999/NĐ-CP về phí và lệ phí thuộc
NSNN, khái niệm này đã được làm rõ hơn đồng thời đã có sự phân biệt giữa
phí và lệ phí tuy nhiên khái niệm này cũng mới chỉ dừng lại ở phạm vi hẹp.
Tại Pháp lệnh Phí và lệ phí 28/8/2001, khái niệm phí đã mở rộng phạm vi
điều chỉnh đối với cả phí thuộc NSNN và không thuộc NSNN. Theo đó “Phí
là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân
khác cung cấp dịch vụ được quy định trong Danh mục phí ban hành ” , “Lệ
2
phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan nhà nước
hoặc tổ chức được uỷ quyền phục vụ công việc quản lý nhà nước được quy
định trong Danh mục lệ phí ban hành” .
1.3. Phí, lệ phí nộp vào Ngân sách nhà nước
-Phí thu từ các dịch vụ do Nhà nước đầu tư là khoản thu thuộc ngân sách
nhà nước. Trường hợp tổ chức thu phí đã được Ngân sách nhà nước bảo đảm
kinh phí cho hoạt động thu phí theo dự toán hàng năm thì tổ chức thu phải nộp
đầy đủ tiền phí thu được vào NSNN. Trường hợp tổ chức thu chưa được nhà
nước bảo đảm kinh phí cho hoạt động thu phí hoặc được uỷ quyền thu phí
ngoài chức năng, nhiệ vụ thường xuyên thì tổ chức thu được để lại một phần
số tiền phí thu được để trang chải chi phí cho việc thu phí, phần còn lại phải
nộp vào NSNN. Mức thu phí đối với các dịch vụ do nhà nước đầu tư phải đảm
bảo thu hồi vốn trong thời gian hợp lý, có tính đến các chính sách của nhà
nước trong từng thời kỳ. Trong khi đó Phí thu được từ các dịch vụ không do
nhà nước đầu tư hoặc do nhà nước đầu tư nhưng chuyển giao cho tổ chức
chức, cá nhân thực hiện theo nguyên tắc hạch toán là khoản thu không thuộc
NSNN. Tổ chức, cá nhân thu phí có quyền quản lý , sử dụng số tiền phí thu
được theo quy định của pháp luật.
Đối với lệ phí, mọi khoản lệ phí thu được đều thuộc NSNN. Tổ chức thu lệ
phí phải nộp đầy đủ, kịp thời số lệ phí thu đươc vào NSNN. Trong trường hợp
uỷ quyền thu thì tổ chức được uỷ quyền thu lệ phí được để lại một phần trong
số lệ phí thu được để trang trải chi phí cho việc thu lệ phí, phần còn lại phải
nộp vào ngân sách nhà nước. Mức thu lệ phí được ấn định trước đối với từng
công việc, không nhằm mục đích bù đắp chi phí, phù hợp với thông lệ quốc tế.
1.4. Phân biệt phí với lệ phí
Về mục đích, việc thu phí nhằm bù đắp cho một phần chi phí đã bỏ ra để
thực hiện hoạt động cung ứng hàng hoá, dv công cộng ngoài khoản ngân sách
được nhà nước hỗ trợ trực tiếp. Trong khi đó việc thu lệ phí chủ yếu nhằm đáp
ứng nhu cầu về quản lý nhà nước, bảo đảm quyền lợi vè mặt hành chính pháp
lý cho người nộp, không dùng để bù đắp chi phí.
Về thẩm quyền, lệ phí gắn với yếu tố công quyền nên chỉ có cơ quan nhà
nước mới được phép thu lệ phí, còn phí gắn với yếu tố kinh tế, có thể được thu
bởi các đơn vị hành chính sự nghiệp hoặc các tổ chức, cá nhân thuộc khu vực
tư nhân ( trong trường hợp hàng hoá dịch vụ do đơn vị này cung cấp hoặc
được chuyển giao thu phí). Chính vì vậy, mọi khoản lệ phí thu được đều thuộc
NSNN, trong khi đó phí có thể thuộc NSNN hoặc không thuộc NSNN.
3
Về nguyên tắc thu, phí là giá cả hàng hoá, do đó mức thu phí được xác định
trên nguyên tắc bảo đảm thu hổi vốn trong khoảng thời gian hợp lý có tính đến
các chính sách của nhà nước trong từng thời lỳ hoặc khả năng của người nộp.
Còn lệ phí được ấn định trước đối với từng công việc phù hợp với thông lệ
quốc tế (trừ lệ phí trước bạ).
1.5. Vai trò của phí, lệ phí
Phí và lệ phí nhìn chung đều có vai trò là nguồn thu của ngân sách
nhà nước từ đó làm tăng khả năng đầu tư vào sản xuất trở lại hàng hoá dịch vụ
đồng thời duy trì bảo dưỡng, tái tạo chúng. Bên cạnh đó phí và lệ phí còn có
một số vai trò khác:
Phí góp phần thực hiện công bằng xã hội ( giữa người hưởng và không
hưởng dịch vụ), nâng cao ý thức của người dân về giữ gìn của công.
Lệ phí dùng để đáp ứng nhu cầu về quản lý nhà nước, bảo đảm quyền lợi
về mặt hành chính pháp lý cho người nộp.
2.
Các quy định của pháp luật về thu NSNN từ phí , lệ phí và một số
bình luận
Pháp luật về phí, lệ phí là tập hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong quá trình thu, nộp quản lý, sử dụng phí, lệ phí.
Ngày 28/8/20 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành pháp lệnh phí, lệ
phí có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2002. Để triển khai thi hành Pháp lệnh,
ngày 3/6/2002 Chính phủ ban hành Nghị định số 57/2002 quy định chi tiết thi
hành Pháp lệnh phí, lệ phí. Tiếp đó ngày 11/6/2002, Thủ tường Chính phủ có
chỉ thị số 13/2002/CT-TTg về việc triển khai thực hiện Pháp lệnh phí và lệ phí,
ngày 24/7/2002 Bộ tài chính có Thông tư số 63/2002/TT-BTC hướng dẫ thực
hiện các quy định về phí và lệ phí.
Theo Danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Pháp lệnh phí và lệ phí
ngày 28/8/2001 có 12 nhóm (loại) phí gồm:
1. Phí thuộc lãnh vực nông nhiệp, lâm nghiệp, thủy sản: thủy lợi phí…
2. Phí thuộc lãnh vực công nghiệp, xây dựng: phí xây dựng…
3. Phí thuộc lãnh vực thương mại, đầu tư: phí chợ…
4. Phí thuộc lãnh vực lưu thông vận tải: phí sử dụng đường bộ…
5. Phí thuộc lãnh vực thông tin, liên lạc: phí sử dụng và bảo vệ tần số vô tuyến
điện…
6. Phí thuộc lãnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội: phí trông giữ xe…
7. Phí thuộc lãnh vực văn hóa xã hội: phí tham quan…
8. Phí thuộc lãnh vực giáo dục và đào tạo: học phí…
4
9. Phí thuộc lãnh vực y tế: viện phí…
10. Phí thuộc lãnh vực khoa học, công nghệ và môi trường: phí vệ sinh…
11. Phí thuộc lãnh vực tài chính, ngân hàng, hải quan: phí hoạt động chứng
khoán…
12. Phí thuộc lãnh vực tư pháp: án phí…
5 nhóm lệ phí gồm:
1. Lệ phí quản lý Nhà nước liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân: lệ
phí tòa án..
2. Lệ phí quản lý Nhà nước liên quan đến quyền sở hữu, quyền sử dụng tài
sản: lệ phí trước bạ…
3. Lệ phí quản lý Nhà nước liên quan đến sản xuất kinh doanh, cung cấp thông
tin về Lệ phí Đăng ký kinh doanh.
4. Lệ phí quản lý Nhà nước đặc biệt về chủ quyền quốc gia: lệ phí ra vào
cảng…
5. Lệ phí quản lý Nhà nước trong các lãnh vực khác: lệ phí hải quan, lệ phí
chứng thực, lệ phí công chứng.
Trên cơ sở Danh mục phí, lệ phí được ban hành kèm theo Phí lệnh phí
và lệ phí ,chính phủ đã ban hành nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 3/6/2002
quy định thi hành Pháp lệnh và ban hành danh mục chi tiết về phí và lệ phí.
Danh mục này bao gồm tất cả các loại phí và lệ phí cụ thể hiện hành, gồm 159
loại phí và 126 loại lệ phí.
Ưu điểm
Việc nâng cấp các quy định pháp luật về phí, lệ phí từ Nghị định của
Chính phủ lên thành Pháp lệnh phí, lệ phí đã là một bươc ngoặt lớn, đặt nền
tảng vững chắc cho các hoạt động thu, quản lý, sử dụng phí và lệ phí đi vào nề
nếp và khuôn khổ nhất định , tạo điều kiện cho các hoạt động này được phát
triển trong hành lang pháp lý an toàn.
Có thể thấy so với trước đây, kể từ khi Pháp lệnh Phí và lệ phí có hiệu
lực thi hành đến nay, hệ thống văn bản pháp luật, pháp quy về phí và lệ phí
được chính phủ và bộ tài chính ban hành khá đầy đủ, tạo ra được hành lang
pháp lý rõ ràng, minh bạch đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước về phí và
lệ phí. Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về phí và lệ phí trước hết
tạo điều kiện cho người dân dễ dàng tiếp cận với pháp luật phí, lệ phí đồng
thời giúp các cơ quan có thẩm quyền dễ dàng hơn trong việc áp dụng pháp
luật phí, lệ phí vào thực tiễn. Tiếp đó, tạo điều kiện cho Nhà nước thực hiện
kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật đối với các cơ quan thu phí , quy
định rõ thẩm quyền ban hành, thu nộp phí ngăn chặn tình trạng tuỳ tiện ban
hành không đúng thẩm quyền và tổ chức thu phí không đúng quy định; Bên
cạnh đó góp phần thực hiện tốt chính sách xã hội hoá và cải cách thủ tục hành
5
chính của Đảng và Nhà nước; tập trung nguồn thu, chống thất thu Ngân sách
nhà nước.
Vào những năm trước năm 2000 tình hình phí và lệ phí ở nước ta rất lộn
xộn, không thể kiểm soát được. Sau khi có Nghị định số 57/2002/NĐ CP ngày 3-6-2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về Phí
và Lệ phí ra đời, với mục đích lập lại trật tự về tình hình thu phí và lệ phí ở
nước ta nên đã có những quy định rất chặt chẽ như: Những loại phí, lệ phí có
tên trong Nghị định mới được thu, những loại phí chưa có hướng dẫn thi hành
cũng không được thu; phân cấp rõ ràng cấp nào được ban hành những loại phí
gì; đặc biệt, lần đầu tiên đưa ra quy định về mức thu sao cho hợp lý....
Căn cứ vào đó Bộ Tài chính đã rà soát và loại bỏ được trên 300 loại phí
và lệ phí không có tên trong danh mục; hạ được giá phí, lệ phí xuống mức hợp
lý. Nhiều loại phí và lệ phí đã được rà soát lại, hầu hết các ngành đều giảm
được nhiều loại thu như: Hàng hải giảm được 30%, cầu đường giảm 20%,
thông tin liên lạc. Các thẻ ưu tiên cũng góp phần đem lại sự công bằng trong
công tác nộp phí và lệ phí... Mặc dù, các khoản thu có giảm nhưng tổng thu
phí lại không những không giảm mà còn tăng, hằng năm thu về cho ngân sách
Nhà nước xấp xỉ 1.000 tỷ đồng. Đây chính là thắng lợi lớn trong thu phí và lệ
phí.
Một số bất cập
Trên cơ sở thực trạng pháp luật về phí trong một số lĩnh vực cho chúng
ta thấy sự hoàn thiện tương đối của hệ thống pháp luật và vai trò của nó trong
việc góp phần ổn định và đưa hoạt đông thu nộp sử dụng phí, lệ phí vào trật tự
nhất định tăng nguồn thu ngân sách, phát triển kinh tế xã hội. Song xét một
cách toàn diện do trình độ lập pháp nước ta vẫn còn hạn chế nên ở chừng mực
nào đó, hệ thống pháp luật vẫn tồn tại những khiếm khuyết không thể phủ
nhận và cần khắc phục.
Pháp lệnh phí và lệ phí có quy định: hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương quyết định thu phí, lệ phí, được phân cấp do ủy ban
nhân dân cùng cấp trình lên. Như vậy, tùy theo nhận định của từng cấp đơn vị
hành chính mà mỗi nơi sẽ quy định các loại phí theo các cách khác nhau làm
việc quyết định loại phí, mức phí, cách thức tổ chức thu, nộp, quản lý, sử dụng
không đồng bộ, chồng chéo lên nhau. Hoặc các văn bản quy định một đường
nhưng thực tế lại làm một nẻo nhưng không thấy các cơ quan ban ngành đưa
ra giải pháp để xử lý. Cơ chế kiểm tra, kiểm soát đối với việc tổ chức thu phí,
quản lý sử dụng các loại phí này của các tổ chức, cá nhân được quyền thu phí
còn lỏng lẻo. Cơ quan thu thuế cấp cao nhất nước là Bộ Tài chính đã công
6
nhận, trên cả nước hiện có những loại phí và lệ phí không nằm trong những
qui định do chính Bộ này ban hành. Con số thực chưa ai xác định được vì còn
nhiều loại phí và lệ phí do các ngành, các UBND ban hành. Ở cấp quận huyện,
phường xã vẫn có đủ thứ khoản thu khác nhằm “tự cân đối”, “tự bổ sung”
ngân sách của từng đơn vị. Các khoản nộp này nhiều khi không có biên lai.
Đơn cử như việc bán nhà, ngoài các khoản phải nộp cho cơ quan nhà đất, còn
có khoản “ủng hộ” cho phường xã, tùy theo giá trị ngôi nhà mà “bắt buộc ủng
hộ” từ vài trăm ngàn đến vài triệu đồng. Tiền dân phòng, tiền xóa đói giảm
nghèo, tiền điện chiếu sáng, tiền phòng cháy chữa cháy, tiền lao động công
ích... Đặc biệt hải quan tiến hành thu với hàng chục loại phí: Lệ phí niêm
phong, lệ phí áp tải, lệ phí kiểm dịch, lệ phí hàng hóa... Đó là những loại được
công khai đàng hoàng, có giấy tờ rõ ràng, bên cạnh đó các loại lót tay riêng thì
chưa kể đên. Bất cập này xảy ra là do mỗi ngành, mỗi đơn vị đều phải tự lo,
tự cứu đồng thời sự trượt giá của đồng tiền trong bối cảnh những qui định về
lệ phí đã lạc hậu với mức thu quá thấp. Việc các địa phương tự đặt ra quá
nhiều các khoản phí và lệ phí đang là một gánh nặng đối với người dân, đồng
thời là mần mống sinh ra các tiêu cực. Bên cạnh đó có những khoản phí, lệ
phí mới phát sinh không có tên trong danh mục nhưng lại phát sinh trong quá
trình thực hiện các điều ước quốc tế như: Phí phê duyệt, đánh giá kế hoạch an
ninh tàu biển, lệ phí cầu chứng nhận an ninh tàu biển, phí thẩm định đánh giá
an ninh cảng biển….
Luật NSNN quy định: “Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản
thu từ thuế, phí, lệ phí…”. Song thực tế, các cơ quan hành chính Nhà nước vẫn
được để lại một phần từ nguồn thu phí, lệ phí để bù đắp chi phí thu, phần còn
lại mới nộp vào NSNN. Việc để lại chi phí thu như vậy chưa đáp ứng được
nguyên tắc đầy đủ của NSNN và gây phức tạp trong công tác quản lý. Mặt
khác, việc xác định tỷ lệ để lại chưa thống nhất, dẫn đến một số cơ quan hành
chính không chỉ bù đắp cho chi phí thu mà còn để sử dụng cho các nhiệm vụ
khác, gây bất bình đẳng giữa các cơ quan với nhau.
Đối với các khoản thu phí, lệ phí của các đơn vị sự nghiệp, hiện nay, một
số phí dịch vụ mới chỉ đảm bảo một phần chi phí như học phí, viện phí… Về
bản chất, đây là các khoản thu để bù đắp một phần chi phí của các dịch vụ
công. Vì vậy, nếu đưa toàn bộ số thu, chi này vào cân đối NSNN thì sẽ gây
khó khăn trong công tác điều hành ngân sách do số thu phí, lệ phí rất khó dự
toán được chính xác. Đặc biệt, với việc áp dụng quy trình chi mới (rút dự
toán), nếu thu không đạt dự toán thì cũng rất khó giảm được chi. Đã có nhiều
khoản thu như học phí, viện phí… được để lại đơn vị để bù đắp chi, nếu quy
định phải nộp rồi sau đó chi theo dự toán thì không khuyến khích thu, còn nếu
7
nộp rồi cấp lại thì chỉ làm tăng thủ tục hành chính về ngân sách mà không giải
quyết được vấn đề cần thiết là kiểm soát và tăng hiệu quả sử dụng.
3. Một số đề xuất về giải pháp hoàn thiện
Hoàn thiện pháp luật về phí thực chất là hoạt động sửa đổi, bổ sung các quy
định pháp luật nhằm đảm bảo tính phù hợp, tính toàn diện, tính đồng bộ và
trình độ kĩ thuật pháp lý. Trên cơ sở thực trạng pháp luật về phí, lệ phí có thể
đưa ra một số giải pháp bước đầu như sau.
Thứ nhất, các quy định của pháp luật hiện hành về phí, lệ phí cho thấy
có sự không đồng bộ, không thống nhất và chồng chéo giữa các văn bản quy
phạm pháp luật, hoặc văn bản pháp luật được ban hành nhưng lại không được
thực thi trên thực tế do không có cơ chế đảm bảo thực hiện, cụ thể ở đây là các
văn bản liên quan đến vấn đề phí và lệ phí đồng thời cơ chế pháp luật về phí
và lệ phí hiện nay chưa đủ mạnh để khiến các đối tượng thực hiện nhát nhất
tuân thủ nó. Do vậy trong thời gian tới cần xây dựng một đạo luật riêng về
phí, lệ phí để thống nhất và chuẩn hóa, khắc phục các bất cập nêu trên. Trong
khi chờ đợi xây dựng một đạo luật riêng về phí, lệ phí, cũng rất cần sửa pháp
lệnh để giải tỏa kịp thời những bức xúc cho người dân, tạo nền móng cho việc
xay dựng hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ và toàn diện
Thứ hai, để tránh nảy sinh các khoản thu phí và lệ phí bừa bãi, các quy
định về các khoản thu phí, lệ phí cần công khai trên các loại phương tiện
thông tin đại chúng, được niêm yết công khai tại các điểm thu. Trên những
bản niêm yết này, phải có tên tuổi của người chịu trách nhiệm và cần ghi rõ
thêm câu: “Ngoài các khoản này, không thu thêm khoản nào khác”. Thứ đến,
phải xem lại việc phân bổ ngân sách cho các ngành, các cấp một cách hợp lí,
tránh tình trạng nơi thì quá nhiều, nơi thì nhỏ giọt, vốn là mầm mống của bất
công và tiêu cực. Và trên hết là yêu cầu tiết kiệm phải đặt lên hàng đầu, xem
đó là chuẩn mực để đánh giá năng lực và phẩm chất của cán bộ, từ cơ quan
cao nhất đến cơ quan thấp nhất.
Thứ ba, theo Pháp lệnh Phí và lệ phí năm 2001, Nghị định 57/2002 và
Nghị định 24/2006 của Chính phủ có rất nhiều cơ quan được quyền quyết định
việc thu phí:
Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền ban hành danh mục phí, lệ phí.
Chính phủ quy định chi tiết danh mục trên đồng thời có quyền quy định
đối với một số phí quan trọng, có số thu lớn, liên quan đến nhiều chính sách
kinh tế – xã hội của Nhà nước. Trong từng loại phí co Chính phủ quy định,
8
Chính phủ có thể uỷ quyền cho Bộ, cơ quan ngang Bộ quy định mức thu đối
với từng trường hợp cụ thể cho phù hợp với tình hình thực tế.
HĐND cấp tỉnh có quyền quy định đối với một số quản lý đất đâi, tài
nguyên thiên nhiên; một số khoản phí gắn với chức năng quản lý hành hcinhs
nhà nước của chính quyền địa phương.
Bộ Tài chính quy định đối với các khoản phí còn lại để áp dụng thống
nhất trong cả nước.
Thiết nghĩa Quốc hội cần xem xét để sửa đổi Pháp lệnh Phí và lệ phí
theo hướng thu hẹp các cơ quan có quyền ban hành phí, lệ phí để tránh tình
trạng chống chéo, không đồng bộ.
Thứ tư, cần phân định các khoản thu phí, lệ phí gắn với mục tiêu, tính
chất và đặc điểm của từng loại phí, lệ phí cũng như gắn với từng loại hình cơ
quan, đơn vị để xác định khoản thu nào nộp NSNN, khoản thu nào để lại cho
đơn vị. Cụ thể: Phí, lệ phí do cơ quan hành chính Nhà nước thu thì nộp toàn
bộ số thu vào NSNN, còn chi phí thực hiện nhiệm vụ thu của các cơ quan này
sẽ được NSNN đảm bảo theo đúng định mức tiêu chuẩn chi ngân sách được
pháp luật quy định. Đối với các khoản phí, lệ phí do các đơn vị sự nghiệp
công lập thực hiện thu, thì căn cứ lộ trình đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài
chính của các đơn vị sự nghiệp công lập, khi chuyển đổi phương thức quản lý
đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, phí, lệ phí của đơn vị sự nghiệp hoạt
động trong các lĩnh vực dịch vụ (giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội…) được coi là
nguồn thu của đơn vị. Nhà nước giao toàn bộ cho đơn vị sự nghiệp quản lý, sử
dụng, kế toán, quyết toán và công bố công khai theo quy định của pháp luật,
không hạch toán vào NSNN. Đây cũng giống như một doanh nghiệp công,
những khoản thu được chính là doanh thu. Tuy nhiên, có đặc trưng là cơ quan
Nhà nước nên vẫn sẽ được hỗ trợ một phần từ ngân sách, chỉ quản lý phần
ngân sách hỗ trợ đó.
Thứ năm, tăng cường quản lý nhà nước đối với các hoạt động thu, chi
nguồn thu từ phí, lệ phí. Việc tăng cường quản lý nhà nước đối với các hoạt
động thu chi nguồn thu từ phí, lệ phí nhằm đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả,
đúng mục đích trong việc sử dụng trên cơ sở tăng cường công tác kiểm tra,
thanh tra, kiểm soát việc thực hiện thu – chi về phí đến các địa bàn, trong các
lĩnh vực. Thực hiện chế độ công bố thông tin của các đơn vị thu đảm bảo thực
hiện dân chủ hoá, xã hội hoá và công khai hoá các thông tin tài chính, tạo điều
kiễn cho các đối tượng có liên quan có quyền tiế cận thông tin dễ dàng từ đó
phát huy khả năng giám sát của các cơ quan chức năng cũng như toàn xã hội.
Đồng thời các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần thương xuyên kiểm tra
việc thu và sử dụng phí, lệ phí cũng như việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ công
tại các đơn vị.
9
Thứ sáu, Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật
về phí, lệ phí để tăng cường ý thức trách nhiệm của nhân dân trong việc tuân
thủ các quy định pháp luật, đồng thời để nhân dân biết và thực hiện tốt vai trò
giám sát việc áp dụng pháp luật về phí của các cơ quan, tổ chức trên địa bàn ,
địa phương cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật
bằng nhiều hình thức thích hợp. Ý thức pháp luật có ý nghĩa rất lớn trong việc
triển khai các chính sách pháp luật do đó trong quá trình thực hiện, các cơ
quan quản lý nhà nước cần hợp tác với các ngành đẩy mạnh tuyên truyền, hỗ
trợ, hướng đãn để người dân hiểu và thực hiện đúng các quy định của pháp
luật
III.
KẾT LUẬN
Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về thuế nói chung và chính
sách pháp luật phí, lệ phí nói riêng là một nhu cầu cấp thiết. Mặc dù hoạt động
thu phí, lệ phí đã được đưa vào trật tự, nề nếp và và phát triển an toàn trong
một hành lang pháp lý được kiến thiết tương đối đầy đủ nhưng trong điều kiện
Việt Nam hiện nay, đứng trước yêu cầu về hội nhấp kinh tế quốc tế, các chính
sách pháp luật nói chung và pháp luật phí lệ phí nói riêng không những phải
phù hợp với đời sống kinh tế xã hội trong phạm vi quốc gia mà đòi hỏi sự
thích ứng với xu thế chung của thế giới.
10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tài chính, Hà Nội, 2007.
2. Trương Thị Thương Huyền, Hoàn thiện pháp luật về các loại phí trong điều
kiện Việt Nam hiện này, Luận văn thạc sĩ luật học ,2006.
3. Tạp chí Tài chính Điện tử số 69 ngày 15/3/2009, 5 năm thực hiện Luật
Ngân sách Nhà nước - 7 bất cập lớn cần sửa đổi
MỤC LỤC
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………...11
12