LỜI MỞ ĐẦU
Nguyên tắc của luật tố tụng dân sự là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo,
định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự. Một trong
những nguyên tắc quan trọng, chi phối tới quá trình giải quyết vụ việc chính là
nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Nhằm góp
phần đem lại những hiểu biết sâu sắc hơn về vấn đề này, em xin lựa chọn đề tài
“Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến
nghị nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự.” làm đề tài
bài tập học kì.
BÀI LÀM
I. Những vấn đề lý luận về nguyên tắc tự định đoạt của đương sự
trong TTDS.
1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự trong tố tụng dân sự.
a. Khái niệm.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một
nguyên tắc điều chỉnh hoạt động riêng biệt của tố tụng dân sự, chi phối quá trình
tố tụng dân sự và là một nguyên tắc cấu thành nên hệ thống các nguyên tắc cơ
bản của Luật tố tụng dân sự. Việc ghi nhận nguyên tắc này cho phép các đương
sự có quyền tự quyết định việc bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước Tòa án.
Từ đây chúng ta có thể đưa ra một cách hiểu khái quát nhất về quyền tự định
đoạt của đương sự như sau: “ Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự là
nguyên tắc cơ bản trong luật tố tụng dân sự Việt Nam, theo đó, đương sự được
quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong việc lựa chọn thực hiện các hành vi tố
tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; quyết định quyền và lợi
ích của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và trách nhiệm của Tòa
án trong việc bảo đảm cho đương sự thực hiện được quyền tự định đoạt của họ
trong tố tụng dân sự.”
b. Ý nghĩa của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự.
Với nguyên tắc quyền tự định đọat của đương sự, Nhà nước ta đã ghi
nhận và đảm bảo cho các đương sự có điều kiện, bằng hành vi của mình quyết
định quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Đồng thời, nguyên tắc quyền tự định đoạt
của đương sự còn có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm của Tòa án trong
việc đảm bảo quyền và lợi ích của đương sự “…Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ
việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết
trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó…”(Điều 5 BLTTDS). Ngoài ra,
nguyên tắc này còn góp phần đảm bảo tính đúng đắn, khách quan trong hoạt
động xét xử, phát huy được vai trò của hoạt động này trong đối với việc ổn định
trật tự và kỷ luật xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích của mọi người.
2. Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự.
a. Cơ sở lý luận.
Theo quy định tại Điều 9 BLTTDS: “Ðương sự có quyền tự bảo vệ hoặc
nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho
đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ.”. Như vậy, pháp luật cho phép đương
sự có quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Và muốn việc đảm bảo
quyền và lợi ích của đương sự thì cần có những quy định giúp đương sự thực
hiện tốt điều này. Đương sự có quyền khởi kiện, yêu cầu tòa án giải quyết vụ
việc dân sự khi quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Việc yêu cầu và thay
đổi yêu cầu này hoàn toàn dựa trên ý chí của đương sự. Hơn nữa, để bảo đảm
quyền tự bảo vệ của đương sự pháp luật còn quy định trong quá trình giải quyết
vụ việc dân sự các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi, bổ sung yêu câu…
b. Cơ sở pháp lý.
Trong khoa học pháp lí, luật tố tụng dân sự là luật hình thức, là cơ chế bảo
đảm của luật nội dung. Luật tố tụng dân sự quy định cách thức, trình tự tố tụng
để giải quyết quan hệ pháp luật về nội dung đang bị tranh chấp hay vi phạm
hoặc giải quyết yêu cầu của đương sự theo quy định của pháp luật để bảo vệ
quyền về dân sự, về hôn nhân và gia đình mà luật nội dung đó quy định. Như
vậy, quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự có cơ sở về nội dung
của nó là quy phạm pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình. Quyền tự định đoạt
của đương sự trong tố tụng dân sự luôn gắn liền với quyền tự định đoạt của chủ
thể trong quan hệ pháp luật nội dung. Có thể nói rằng các quy định của pháp luật
nội dung là cơ sở pháp lí để quy định quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự. Tuy nhiên, quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
còn phụ thuộc bởi những quy định của pháp luật về năng lực pháp luật và năng
lực hành vi của chủ thể và về thẩm quyền xét xử của tòa án...
c. Cơ sở thực tiễn.
Các tranh chấp trong dân sự là trách nhiệm giữa các công dân với nhau.
Khi các tranh chấp xảy ra, các đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của
mình, tự bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng cách yêu cầu tòa án
giải quyết vụ việc dân sự của mình. Và tòa án chỉ đươc giải quyết khi có yêu cầu
của đương sự và khi nhận được yêu cầu của đương sự thì tòa án cần phải tiến
hành xem xét và giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng, kịp thời để bảo vệ
quyền và lợi ích của đương sự.
II. Nội dung của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong
TTDS.
1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải
quyết vụ việc dân sự
a) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự,
yêu cầu giải quyết dân sự.
Quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện vụ án dân sự được ghi nhận
tại điều 161: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua
người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện)
tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.”. Bên cạnh đó tại Điều162 BLTTDS 2004 quy định quyền khởi kiện vụ án
dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và
lợi ích của Nhà nước do các cơ quan tổ chức thực hiện.
Với các quy định trên, pháp luật đã ghi nhận quyền khởi kiện vụ án dân
sự một cách cụ thể cho từng đối tượng khi muốn khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Theo đó, đương sự được quyền định
đoạt trong việc khởi kiện vụ án dân sự, nộp đơn yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.
Quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu giải quyết việc dân sự. Do
trong việc dân sự không có tranh chấp giữa các bên, nên không xuất hiện khái
niệm nguyên đơn và bị đơn dân sự mà dùng khái niệm người yêu cầu và người
bị yêu cầu. Người yêu cầu trong vụ việc dân sự có lợi ích pháp lý độc lập nên
được đưa ra yêu cầu cho tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mặc
dù vậy phạm vi yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu tòa án công
nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền và nghĩa vụ của họ.
b) Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn.
Có thể thấy, không phải lúc nào việc khởi kiện của nguyên đơn cũng
đúng, và trong nhiều trường hợp khi nguyên đơn khởi kiện, bị đơn lại cảm thấy
quyền lợi của mình bị xâm phạm. Do đó BLTTDS 2004 đã quy định thêm quyền
phản tố của bị đơn tại điểm c khoản 1 Điều 60 BLTTDS như sau: “Ðưa ra yêu
cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn
hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu”. Như vây, BLTTDS
2004 không chỉ ghi nhận quyền tự định đoạt của nguyên đơn mà còn ghi nhận
quyền tự định đoạt của bị đơn. Nếu nguyên đơn khởi kiện thì bị đơn cũng có
quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. Đây là một điểm quan trọng
và phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các công dân khi
tham gia quan hệ dân sự.
c) Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền và
nghĩa vụ liên quan
Việc người có quyền và nghĩa vụ liên quan có quyền thể hiện sự tự định
đoạt của mình được quy định tại điều 177 BLTTDS 2004. Theo đó, trong trường
hợp người có quyền, nghĩa vụ không liên quan đến nguyên đơn hoặc bên bị đơn
thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện nhất định. Việc cho người
có quyền, nghĩa vụ được tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu khi đáp ứng
được những điều kiện nhất định cũng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của những
người này, tránh việc giải quyết các vấn đề liên quan tới một vụ việc dân sự đã
xét xử nhiều lần.
2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, rút
yêu cầu và thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ việc dân sự.
a) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu
cầu
Nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết vụ án dân sự, nhưng
trong quá trình giải quyết nguyên đơn có thể muốn bổ sung hoặc sửa đổi yêu cầu
của mình; tùy vào từng giai đoạn tố tụng mà yêu cầu đó được chấp nhận hay
không chấp nhận. Trước khi mở phiên tòa thì quyền này là quyền tuyệt đối,
không bị giới hạn phạm vi thay đổi, yêu cầu, bổ sung của nguyên đơn. Nhưng
sau khi mở phiên tòa sơ thẩm việc thay đổi, bổ sung, yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn bị giới hạn không vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu (Điều 218
BLTTDS 2004).
Trường hợp rút đơn khởi kiện, rút đơn yêu cầu trong mọi giai đoạn tố tụng
đều có thể được Tòa án chấp nhận. Nguyên đơn có thể rút một phần yêu cầu
hoặc rút toàn bộ yêu cầu (điểm b khoản 1 Điều 59 BLTTDS). Nếu nguyên đơn
rút đơn khởi kiện trước phiên tòa, thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc giải
quyết vụ án (điểm c khoản 1 Điều 192). Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, nguyên
đơn rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút đơn đó là tự nguyện
thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn
bộ yêu cầu nguyên đơn đã rút (khoản 2 Điều 218). Người yêu cầu trong việc dân
sự có thể rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình. Tại phiên họp giải quyết
việc dân sự trường hợp người yêu cầu rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của
mình và yêu cầu đó là tự nguyện thì tòa án chấp nhận và đình chỉ giải quyết đối
với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu của người yêu cầu.
Khi nguyên đơn, người yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu trước khi
mở phiên tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc tại phiên tòa xét xử phúc
thẩm, HĐXX phúc thẩm phải hỏi ý kiến của bị đơn. Nếu bị đơn đồng ý, thì chấp
nhận rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, quyết định hủy bản án sơ thẩm, đình chỉ
vụ việc. Nếu bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn kiện của
nguyên đơn.
b) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thận giải quyết vụ
việc dân sự.
Đặc điểm của quan hệ dân sự chính là sự bình đẳng giữa các bên tham
gia, được tự do cam kết, xác lập thỏa thuận các quyền và nghĩa vụ dân sự không
trái pháp luật và đạo đức xã hội. Và xuất phát từ bản chất trên, trong quá trình
Tòa án giải quyết vụ việc dân sự các bên có quyền thương lượng, hòa giải với
nhau việc giải quyết vụ việc.
Điểm a Khoản 2 Điều 180 BLTTDS quy định việc hòa giải phải được tiến
hành theo nguyên tắc “Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự,
không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải
thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình”. Mọi sự tác động từ bên ngoài
trái với ý chí vủa đương sự đều bị coi là trái pháp luật. Như vậy,việc hòa giải
phải do chính các đương sự thực hiện bằng chính ý chí và sự tự nguyện của
mình.
Theo quy định tại Điều 220 BLTTDS tại phiên tòa so thẩm, Hội đồng xét
xử sẽ hỏi các đương sự có thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hay
không, nếu đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa
thuận của họ là tự nguyện, không trái đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra
quyết định công nhận việc thỏa thuận của đương sự. Trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm, theo quy định tại Mục 5.1, phần III của Nghị quyết số 05/2006/NQHĐTP ngày 4/8/2006 thì nếu tại Tòa án cấp phúc thẩm các đương sự tự thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận đó là tự nguyện,
không trái pháp luật, đạo đức thì HĐXX phúc thẩm ra bản án phuc thẩm, sửa
bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong việc hòa giải còn thể hiện ở
quyền tự thỏa thuận của đương sự. Theo đó, các đương sự có quyền tụ thỏa
thuận không thông qua tòa án, trong trường hợp Tòa án không phải người chủ
động đưa vụ án ra hòa giải mà các đương sự tự khỏa thuận với nhau.
3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại
diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và kháng cáo bản
án, quyết định của tòa án
a) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các đương sự thường tự
mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Tuy nhiên, vì lý do nào đó mà họ
không tự mình thực hiện thì đương sự có thể ủy quyền cho người khác thay
mình tham gia tố tụng. Đương sự có thể ủy quyền cho người đại diện thực hiện
một phần hoặc toàn bộ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Sau khi ủy
quyền cho người đại diện, đương sự vẫn có quyền tham gia tố tụng để bổ sung
cho hoạt động của người đại diện.
Bên cạnh đó, theo Điều 63 BLTTDS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, đương sự có quyền nhờ luật sư hoặc người khác được Tòa án chấp
nhận tham gia tố tụng. Đây chính là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Do việc tham gia tố tụng theo yêu cầu của đương sự nên việc thay
đổi, chấm dứt do ý chí của hai bên. Như vây, một lần nữa quyền tự định đoạt của
đương sự lại được thể hiện, tất cả đều hướng tới lợi ích của đương sự.
b) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo bản án, quyết
định của tòa án.
Quyền kháng cáo là một quyền tố tụng cơ bản của đương sự , được quy
định tại điểm s khoản 2 Điều 58 BLTTDS. Do đương sự tự mình thực hiện
quyền này nên quyền kháng cáo cũng được hiểu là một trong những nội dung
của quyền tự định đoạt của đương sự. Ngoài ra BLTTDS còn quy định đương sự
có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo trước khi bắt đầu bắt đầu phiên tòa tại
phiên tòa nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu.
4. Trách nhiệm của tòa án trong việc đảm bảo nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự trong TTDS.
Bên cạnh các quy định quyền tự định đoạt của đương sự trong việc tham
gia tố tụng, BLTTDS cũng quy định rõ trách nhiệm của tòa án trong việc bảo
đảm cho đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS. Cụ
thể là tòa án chỉ được quyền thụ lý, giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương
sự. Đây là điều hoàn toàn khác với TTHS, cũng thể hiện rõ sự tôn trọng của Nhà
nước đối với quyền tự định đoạt của đương sự. Bên cạnh đó Tòa án trong các
giai đoạn tố tụng đều luôn thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự
từ việc thỏa thuận, thay đổi,bổ sung, rút đơn yêu cầu… của đương sự.
III. Thực tiễn thực hiện và kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện nguyên
tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS.
1. Những kết quả đạt được.
Là một nguyên tắc cơ bản của luật TTDS, quyền tự định đọat của đương
sự trong thời giai gần đây đã được quan tâm hơn bao giờ hết. Các cơ quan tiến
hành tố tụng ngày càng tạo điều kiện cho các đương sự tham gia thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình. Thực tiễn xét xử trong những năm gần đây cho
thấy nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong TTDS ngày càng được quan
tâm và coi trọng hơn. Trong việc giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, các Tòa
án đã tích cực hòa giải, hướng dẫn các đương sự thực hiện đúng nghĩa vụ về
cung cấp chứng cứ, tài liệu trong vụ án, đồng thời chủ động xác minh, thu thập
chứng cứ trong trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật. Và theo báo
cáo tổng kết năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ nhiệm vụ công tác năm 2010
của ngành TAND ngày 25 tháng 01 năm 2010, TANDTC khẳng định đã thụ lý
và giải quyết được 214.174 trong tổng số 245.385 vụ việc, đạt 90,7%. Tỷ lệ các
vụ việc được giải quyết bằng hòa giải chiếm tỷ lệ 45% tổng số các vụ đã giải
quyết, năm hơn năm trước 1% và so với trước khi BLTTDS ra đời đã tăng 5%.
Với những số liệu trên cho thấy rằng quyền tự định đoạt của người dân đã ngày
càng được quan tâm, điều đó thể hiện rõ qua họat động của ngành Tòa án trong
những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu, từ đó các đương sự có điều kiện
chủ động hơn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Những mặt hạn chế.
a/ Về các quy định của pháp luât.
Thứ nhất, Điều 269 BLTTDS quy định nguyên đơn rút đơn khởi kiện
trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm phải được sự đồng ý của bị
đơn là vi phạm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Quyền tự
định đoạt được thể hiện bằng việc đương sự có quyền rút đơn khởi kiện, do đó,
quy định như vậy là không đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự.
Thứ hai, BLTTDS mới chỉ quy định quyền yêu cầu phản tố của bị đơn và
quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi , nghĩa vụ liên quan mà chưa quy
định cụ thể thời điểm thực hiện việc phản tố của bị đơn và đưa ra yêu cầu độc
lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Điều này dẫn tới khó khăn trong
việc giải quyết vụ việc, tạo ra cách hiểu không thống nhất trong ngành tòa án, có
tòa án chấp nhận yêu cầu phản tố nhưng lại cho rằng hết thời hạn yêu cầu và
cũng có tòa không chấp nhận các yêu cầu trên.
Thứ ba, pháp luật chưa có quy định cụ thể về đương sự trong việc dân sự;
sự phân biệt giữa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập so
với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập còn lúng
túng, chưa rõ ràng.
b/ Về mặt thực hiện pháp luật.
Về phía đương sự, do không hiểu biết đầy đủ các quy định của pháp luật
nên không thực hiện đúng được các quyền, nghĩa vụ TTDS của mình. Trên thực
tế đã không ít trường hợp đương sự khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc
dân sự khi đã hết thời hiệu khởi kiện bị trả lại đơn. Ngoài ra, đương sự còn thực
hiện quyền kháng cáo, đối với bản án, quyết định của Tòa án trong nhiều trường
hợp cũng không đúng, vượt quá thời hạn do pháp luật quy định nhưng đương sự
vẫn kháng cáo.
Về phía tòa án, đội ngũ thẩm phán còn thiếu về số lượng và yếu về chất
lượng dẫn tới những hạn chế trong quá trình xét xử, nhiều trường hợp trả lại đơn
kiện, xét xử vắng mặt đương sự, áp dụng không đúng pháp luật. Thực tế những
sai sót trong việc trả lại đơn khởi kiện, không xem xét yêu cầu của đương sự
hoặc vượt quá phạm vi yêu cầu của đương sự…đã ảnh hưởng lớn tới tính chính
xác của bản án, không đảm bảo sự công bằng cho đương sự. Điều này hạn chế
lớn tới việc thự hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS .
3. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc quyền
tự định đoạt của đương sự trong TTDS.
Thứ nhất, nên quy định lại việc rút đơn của nguyên đơn trước khi mở
phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm không cần có sự đồng ý của bị đơn. Và
nếu bị đơn thấy việc nguyên đơn có yêu cầu khởi kiện rồi rút lại đơn khởi kiện
mà gây thiệt hại cho họ về danh dự, nhân phảm hoặc với tài sản thì họ có quyền
khởi kiện nguyên đơn bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, cần có sự quy
định rõ về địa vị pháp lý giữa người có yêu cầu độc lập và người có quyền và
nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập bởi khi tham gia tố tụng quyền và
nghĩa vụ khác nhau thì vai trò của các chủ thể sẽ khác nhau.
Thứ ba, quy định rõ thời điểm bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố. Cụ thể như
sau: “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước khi Toà án ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm”. Ngoài ra, nên quy đinh thời điểm để người có
quyền và lợi ích liên quan đưa ra yêu cầu độc lập trước khi Toà án ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Điều này sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị đơn và người có quyền và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
Thứ tư, về đội ngũ cán bộ cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao năng lực xét xử, tăng cường quản lý giáo dục
chính trị, phẩm chất đạo đức cho cán bộ trong ngành tòa án, tránh những tiêu
cực, xâm phạm tới quyền và lợi ích của người dân, hạn chế tình trạng Tòa án
xét xử sai, không đảm bảo được quyền và lợi ích của đương sự.
Thứ năm, để đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc quyền tự định đoạt đương
sự, bên cạnh sự cố gắng hòan thiện quy định của pháp luật, thì công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu. Đương
sự là người có quyền tự định đoạt việc tham gia tố tụng, việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Việc thực hiện nguyên tắc này phụ thuộc rất lớn vào
sự hiểu biết pháp luật của đương sự. Người dân có hiểu được các trình tự, thủ
tục giải quyết tranh chấp mới góp phần làm cho việc giải quyết một cách kịp
thời, đúng pháp luật.
KẾT LUẬN
Quyền tự định đoạt của đương sự là nguyên tắc đặc trưng , cơ bản trong tố
tụng dân sự. Nó xuyên suốt tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ việc
dân sự, là căn cứ pháp lý quan trọng cho các đương sự bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Đồng thời cũng tạo điều kiện cho Tòa án giải quyết một
cách đúng đắn, khách Việc khắc phục, hoàn thiện những hạn chế của nguyên tắc
này trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết, góp phần đảm bảo quyền con
người, phát huy dân chủ trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Giáo trình Luật tố tụng dân sự , Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội – 2009
2/ Luật tố tụng dân sự 2004
3/ Về nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự/ Lê Minh
Hải, tạp chí nhà nước và pháp luật
4/ Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Việt
Nam: Khoá luận tốt nghiệp / Nguyễn Nữ Giang Anh; Người hướng dẫn: TS.
Nguyễn Công Bình, Hà Nội, 2010
5/ Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số
05/2006/NQ-HDTP ngày 04 tháng 8 năm 2006 hướng dẫn thi hành một số quy
định trong phần thứ ba "thủ tục giải quyết vụ án tại toà án cấp phúc thẩm" của
Bộ luật tố tụng dân sự.
6/ Nguồn tin trên Internet:
/> />page=productView&viewParent=301&id=929