Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

học kỳ hình sự vũ k (37 tuổi) và trần kim h (41 tuổi) đã bàn bạc trước rất kỹ càng về việc chiếm đoạt tài sản của gia đình ông n (giám đốc một doanh n

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.85 KB, 9 trang )

MỞ ĐẦU
Trong xã hội ngày nay, tội phạm trộm, cướp tài sản đang ngày càng phổ biến và có
chiều hướng gia tăng. Nguyên nhân của những vụ án đó không chỉ do ý chí chủ quan của
người phạm tội mà cũng một phần do điều kiện của đối tượng tác động mà tội phạm đó
xâm hại đến. Một trường hợp xảy ra đã khá phổ biến hiện nay là do chủ tài sản quá tự tin
vào cho một người giúp việc và đã giao phó tài sản của mình để họ trông coi và quản lí,
lợi dụng hoàn cảnh đó, người phạm tội mới có thể thực hiện được hành vi, thủ đoạn của
mình. Trên thực tế đã xảy ra một vụ án như sau:
Vũ K (37 tuổi) và Trần Kim H (41 tuổi) đã bàn bạc trước rất kỹ càng về việc chiếm
đoạt tài sản của gia đình ông N (giám đốc một doanh nghiệp). Chiều 07/02/2010, lợi
dụng gia đình ông N đi sắm tết, K và H mang theo một túi quà đến gõ cửa nhà ông N và
nói với bà P (57 tuổi, là người giúp việc) là đến để chúc tết gia đình. Không nghi ngờ gì,
bà P đã mở cửa cho K và H vào nhà. Sau khi vào nhà, chúng vờ xin nước uống rồi xông
vào đe doạ và định chói bà P. Bà P sợ hãi van xin K, H và nói: “Các anh lấy gì thì cứ lấy,
tôi chỉ là người giúp việc thôi”
K và H phá két sắt của gia đình, lấy đi 70 triệu đồng, 47 chỉ vàng cùng một số ngoại
tệ .Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 460 triệu đồng. Sau khi K, H lấy được tài sản và
bỏ đi thì bà P mới chạy ra đường hô hoán. K, H bị bắt giữ ngay sau đó.

NỘI DUNG
Có 3 ý kiến khác nhau về tội danh của K và H:
a. K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì chúng đã có hành vi gian dối đánh
lừa người giúp việc.
b. K và H phạm tội trộm cắp tài sản vì chúng có hành vi lợi dụng lúc gia đình ông N
đi vắng để lấy tài sản. Tuy bà P ở nhà nhưng bà chỉ là người giúp việc, không phải là chủ
1


sở hữu của những tài sản đó, và giả sử bà P lợi dụng hoàn cảnh đó để lấy tài sản của chủ
thì bà P cũng sẽ bi coi là phạm tội trộm cắp tài sản.
c. K và H phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì chúng công khai lấy tài sản


trước mắt người giúp việc.
I) K và H phạm tội gì? Hãy chứng minh:
Khẳng định: K và H đã phạm tội cướp tài sản theo điểm b khoản 3 Điều 133
BLHS. Khoản 1 Điều luật này quy định:
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác
làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt
tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
Điểm b khoản 3 Điều luật này quy định:
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm
đến hai mươi năm:
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu
đồng;
Từ các tình tiết của vụ án trên, ta có thể phân tích được như sau:
Thứ nhât, chủ thể của tội phạm:
- Vũ K (37 tuổi) và Trần Kim H (41 tuổi) đã đủ tuổi chịu TNHS về mọi loại tội phạm
theo khoản 1 Điều 12 BLHS.
- Ngoài ra, qua hành động K và H bàn bạc trước rất kỹ càng về việc chiếm đoạt tài
sản, ta có thể khẳng định: Trước và trong khi phạm tội, K và H hoàn toàn bình thường,
không bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển
hành vi của mình như trong quy định tại khoản 1 Điều 13 BLHS.
2


Như vậy, ta có thể kết luận:Trong vụ án này, K và H có năng lực TNHS đầy đủ.
Thứ hai, khách thể của tội phạm:
Khách thể do hành vi phạm tội của K, H xâm hại tới là quan hệ nhân thân và quan
hệ sở hữu. Đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án này là bà giúp việc P và tài sản
của gia đình ông N:
- Theo tình tiết của vụ án, K, H đã có hành vi xông vào đe dọa và định trói bà P. Như
vậy, hành vi này của K, H đã xâm hại đến quyền được pháp luật bảo vệ về thân thể của bà

P, do đó hành vi phạm tội của K và H xâm phạm quan hệ nhân thân.
- Theo tình tiết của vụ án thì K, H đã chiếm đoạt được tổng giá trị tài sản là 460 triệu
đồng. Số tài sản đó thuộc quyền sở hữu của ông N nên hành vi chiếm đoạt của K, H đã
xâm phạm quan hệ sở hữu. Giá trị là nguyên nhân dẫn đến việc K, H bị định tội theo
khung hình phạt tăng nặng tại khoản 3 Điều 133 BLHS.
Thứ ba, mặt chủ quan của tội phạm:
- Lỗi: Cố ý trực tiếp do K và H đã nhận thức rõ được hậu quả do hành vi mình thực
hiện và mong muốn hậu quả đó xảy ra.
- Mục đích: Chiếm đoạt tài sản của gia đình ông N là mục đích duy nhất từ hành vi
phạm tội của K, H.
Cuối cùng là về mặt khách quan của tội phạm:
- Hành vi:
+ K và H đã có hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc đối với bà giúp việc P.
Từ tình tiết của vụ án: K và H đã xông vào đe dọa và định trói bà P, khiến bà P sợ hãi
đến mức phải sợ hãi van xin và nói:“Các anh lấy gì thì cứ lấy, tôi chỉ là người giúp việc
thôi”, ta có thể xác định: K, H đã có hành vi dùng lời nói nhằm đe doạ người bị hại nếu
không để cho K và H chiếm đoạt tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện ngay. Ngoài ra, sau
3


khi K và H chiếm đoạt được tài sản và bỏ đi, bà P chạy ra đường và hô hoán, như vậy ta
có thể biết được K, H không dùng vũ lực đối với bà P mà chỉ đe dọa nhằm chiếm đoạt
tài sản.
+ Trong vụ án này tuy bà P không phải chủ sở hữu của số tài sản 460 triệu đồng đó,
nhưng bà là người giúp việc, khi gia đình nhà chủ đi vắng đương nhiên bà sẽ được ủy
quyền quản lý tất cả số tài sản trong nhà. Do vậy hành động đe dọa dùng vũ lực ngay tức
khắc đối với bà P tuy không nhằm vào chủ tài sản, nhưng lại nhằm vào người có trách
nhiệm trong việc quản lý những tài sản đó khi chủ sở hữu đi vắng để nhằm chiếm đoạt
tài sản thì vẫn được coi là cướp tài sản.
- Hậu quả:

Đối với tội cướp tài sản, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành. Hậu
quả của tội phạm chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt hoặc chỉ là tình tiết để xem xét khi
quyết định hình phạt , do vậy tội phạm này có CTTP hình thức. Trong vụ án này hành vi
thực hiện tội phạm của K, H là đã chiếm đoạt 460 triệu đồng của gia đình ông N
Ngoài sự phân tích về CTTP trên, để chắc chắn ta còn phải khẳng định: K và H là
đồng phạm với cùng vai trò là người thực hành. Khoản 1 Điều 20 BLHS có quy định:
“Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.
Theo quy định này, để thoả mãn vấn đề đồng phạm cần có những điều kiện nhất định, đó
là những dấu hiệu sau đây:
- Thứ nhất, phải có từ 2 người trở lên, những người này phải có đầy đủ các dấu
hiệu về chủ thể của tội phạm như đạt độ tuổi chịu TNHS theo luật định, có năng lực
TNHS…
Như phân tích ở trên, K và H là 2 người đã có đầy đủ dấu hiệu về chủ thể của tội
phạm.
- Thứ hai, những người này phải cố ý cùng thực hiện một tội phạm:
4


Trong vụ án này, K và H đã cùng bàn bạc, hỗ trợ, thỏa thuận với nhau từ trước về
kế hoạch cũng như cách thức thực hiện tội phạm... Cụ thể, chúng cùng bàn bạc thực
hiện thủ đoạn để trộm cắp tài sản nhà ông N như mang theo một túi quà đến gõ cửa nhà
để bà P ra mở cửa, bảo là đến để chúc tết. Khi vào được nhà rồi thì chúng đe dọa dùng
vũ lực khống chế bà P để cướp tài sản.
- Thứ ba, để xác định đồng phạm ta còn phải căn cứ vào yếu tố lỗi. Trong trường
hợp đồng phạm, mỗi người đồng phạm không chỉ cố ý đối với hành vi phạm tội của
mình mà còn biết và mong muốn sự tham gia của những người đồng phạm khác.
Lỗi của K, H trong trường hợp này là lỗi cố ý trực tiếp:
Trong vụ án này, cả K, H đều nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi của
mình, tính nguy hiểm của những hành vi của những người đồng phạm khác, đều mong
muốn cùng thực hiện tội phạm, thể hiện ở việc họ hẹn cùng lập kế hoạch và thực hiện

tội phạm.
Như vậy từ sự phân tích trên có thể khẳng định lại: H và K phạm tội cướp tài sản
theo điểm b khoản 3 Điều 133 BLHS với vai trò là đồng phạm.
II) Hãy phản bác các ý kiến mà anh (chị) cho là sai:
Thứ nhất, quan điểm K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì chúng đã có
hành vi gian dối đánh lừa người giúp việc sai. Vì: Về mặt chủ quan, chủ thể, khách thể
cũng như sự phân tích ở câu I, chỉ khác nhau về mặt khách quan của tội phạm.
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định ở Điều 139 BLHS, hành vi của tội
phạm này là bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc một trong
các trường hợp được quy định.
- Với tội phạm này, hành vi lừa dối được thực hiện để nhằm mục đích chiếm đoạt tài
sản. Hành vi đó được hiểu là hành vi cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm để
người khác tin đó là sự thật:
5


+ Mặt khách quan: Hành vi lừa dối là hành vi đưa ra những thông tin giả, được biểu
hiện dưới rất nhiều các hình thức khác nhau như qua lời nói, qua việc xuất trình những
giấy tờ sai sự thật hoặc qua những việc làm cụ thể.
+ Mặt chủ quan: Người phạm tội biết đó là thông tin giả nhưng mong muốn người
khác tin đó là sự thật.
- Trong vụ án này, H và K tuy là đã đưa ra thông tin giả rằng mình là khách quen
đến nhà chúc tết để thực hiện chiếm đoạt tài sản và đã chiếm đoạt được 460 triệu đồng,
nhưng khi vào đến nhà H, K đã có hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc đối với bà
giúp việc P như đã phân tích ở trên. Như vậy, trường hợp này chính là chuyển hóa thành
cướp nên phải truy tố chúng về tội cướp tài sản.
- Nếu trong vụ án này, sau khi lừa để bà P mở cổng, đi lấy nước, H và K chiếm đoạt
tài sản và tẩu thoát để bà P không biết, không có điều kiện để ngăn cản thì hành vu
của H, K sẽ cấu thành tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai, quan điểm K và H phạm tội trộm cắp tài sản vì chúng có hành vi lợi dụng

lúc gia đình ông N đi vắng để lấy tài sản. Tuy bà P ở nhà nhưng bà chỉ là người giúp việc,
không phải là chủ sở hữu của những tài sản đó, và giả sử bà P lợi dụng hoàn cảnh đó để
lấy tài sản của chủ thì bà P cũng sẽ bi coi là phạm tội trộm cắp tài sản cũng sai vì khác
nhau về mặt khách quan của tội phạm.
- Theo quy định tại Điều 138 BLHS, tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm
đoạt tài sản đang có chủ và thuộc một trong các trường hợp được quy định.
- Điểm quan trọng nhất của tội trộm cướp tài sản là dấu hiệu lén lút và chiếm đoạt
được tài sản đang có chủ:
+ Hành vi được coi là lén lút nếu được thực hiện bằng hình thức mà hình thức đó có
khả năng không cho phép chủ tài sản biết có hành vi chiếm đoạt đang xảy ra, ý thức chủ

6


quan của người phạm tội là lén lút nếu khi thực hiện hành vi chiếm đoạt người phạm tội
có ý thức che giấu hành vi đang thực hiện của mình, chỉ đòi hỏi đối với chủ tài sản
- Trong vụ án này, H và K không hề có hành vi lén lút. Như sự phân tích ở câu I,
chúng có hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, tức là công khai đối đầu chứ
không che giấu hành vi chiếm đoạt đối với bà P – người giúp việc nhưng có trách nhiệm
quản lí tài sản khi chủ nhà đi vắng. Như vậy, không thể định tội trộm cắp tài sản với H
và K được.
- Còn giả sử bà P lợi dụng hoàn cảnh đó để lấy tài sản của chủ thì bà P cũng sẽ bi coi
là phạm tội trộm cắp tài sản cũng là một quan điểm sai. Trong trường hợp này, tội của bà
P phải là tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:
- Theo Điều 140 BLHS, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được mô tả là
hành vi chiếm đoạt toàn bộ hay một phần tài sản đã được giao trên cơ sở hợp đồng, đã
được kí kết giữa chủ tài sản và người có hành vi chiếm đoạt thuộc một trong các trường
hợp được quy định.
- Hành vi chiếm đoạt ở đây là không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết như đã nêu
trong hợp đồng được kí kết giữa chủ tài sản và người có hành vi chiếm đoạt. Hành vi

chiếm đoạt trong tội phạm này được phân biệt với tội phạm được quy định ở Điều 139
bởi dấu hiệu: Người phạm tội được sử dụng hoặc có trách nhiệm bảo quản tài sản hợp
pháp trên cơ sở hợp đồng. Từ đó mới nảy sinh ý định chiếm đoạt, có thể sử dụng thủ
đoạn gian dối rồi thực hiện hành vi chiếm đoạt.
- Trong vụ án này thì bà P đã kí kết hợp đồng thuê lao động với gia đình ông N.
Vậy nên nếu bà lợi dụng lúc chủ nhà đi vắng mà có hành vi chiếm đoạt tài sản thì hành vi
đó cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Thứ ba, quan điểm K và H phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì chúng công
khai lấy tài sản trước mắt người giúp việc cũng sai vì khác nhau về mặt khách quan của
tội phạm:
7


- Theo quy định tại Điều 137 BLHS, hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản là lợi
dụng lúc chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản công nhiên chiếm đoạt tài sản của họ
thuộc các trường hợp được quy định.
- Tội phạm này được phân biệt với các tội phạm khác qua 2 dấu hiệu của hành vi là:
Công khai và không dùng thủ đoạn nào khác để chiếm đoạt tài sản:
+ Hành vi phạm tội có tính công khai nếu hình thức thực hiện cho phép chủ tài sản
có khả năng biết ngay khi hành vi này vừa xảy ra.
+ Để phân biệt với tội cướp giật tài sản và các tội phạm khác, tội phạm trong Điều
137 BLHS này được mô tả thêm là: Hành vi xảy ra trong hoàn cảnh người chủ tài sản
không có điều kiện ngăn cản, người phạm tội không cần thực hiện bất cứ thủ đoạn nào
đã có thể chiếm đoạt được tài sản.
- Trong vụ án này, hành vi phạm tội H và K tuy có tính chất công khai nhưng chúng
đã phải dùng đến thủ đoạn đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nên không thỏa mãn
CTTP của tội này.
Tóm lại, có thể kết luận lại: Tội phạm mà H và K đã thực hiện là tội cướp tài sản
theo điểm b khoản 3 Điều 133 BLHS.


KẾT LUẬN
Qua vụ án trên, ta có thể rút ra nhiều kinh nghiệm trong việc định tội danh cũng như
xét xử trên thực tế.Từ vụ án thực tế này, chúng ta cần phải rút kinh nghiệm, đề phòng
cảnh giác đối với các thủ đoạn của người phạm tội gây ra nhằm chiếm đoạt tài sản của
bản thân cũng như mọi người trong xã hội

MỞ ĐẦU
Trang

8


9



×