Tư pháp quốc tế là hệ thống những nguyên tắc và quy phạm pháp luật
được xây dựng bằng những cách thức khác nhau nhằm điều chỉnh quan hệ dân
sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài, góp phần thúc đẩy đời sống sinh
hoạt quốc tế và bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể tham gia quan hệ
Tư pháp quốc tế
1 .Nguồn của tư pháp quốc tế
1 Khái niệm
Về lý luận chung, nguồn là nơi xuất phát, là nơi chứa đựng Nguồn luật là nơi chứa
đựng các qui phạm pháp luật, có thể tồn tại dưới 3 hình thức
. Nguồn cơ bản của TPQT
Nguồn của TPQT là các hình thức chứa đựng và thể hiện quy phạm của
TPQT.
Hiện nay nguồn của TPQT gồm các loại sau đây:
Luật pháp của mỗi quốc gia:
oDo mối nước có điều kiện riêng về chính trị, kinh tế, xã hội..do vậy để chủ động
trong việc điều chỉnh các quan hệ TPQT mỗi quốc gia đã tự ban hành trong hệ
thống pháp luật của nước mình các quy phạm xung đột trong nước.
oVN: hiến pháp 1992 là nguồn quan trọng nhất của TPQT, ngoài ra còn trong bộ
luật khác như: BLDS 2005 Phần VII, luật HN GD 2000, luật đầu tư 2005…
Điều ước quốc tế với tư cách là nguồn của TPQT ngày càng đóng vai trò
quan trọng và mang ý nghĩa thiết thực: các ĐƯQT về thương mại, hàng hải quốc
tế, các hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, gia đình và hình sự..
o
VN: trước tiên phải kể đến các hiệp định tương trợ và hợp tác tư pháp mà cho
tới nay nước ta đã kí với hàng loạt các nước: nga vào năm 1998; séc và slovakia
1982, Cu ba 1984; Hungari 1985..Ngoài ra nước ta còn kí rất nhiều các ĐƯQT
song phương cũng như đa phương: Công ước Pari 1983 về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp ( 1981); 1995 gia nhập Công ước New York năm 1958 về công nhận
và thi hành các quyết định của trọng tài thương mại…
Tập quán quốc tế là những quy tắc xử sự được hình thành trong một thời
gian dài, được áp dụng khá liên tục và một các có hệ thống, đồng thời được sự thừa
nhận đông đảo của các quốc gia. VD: tập hợp các tập quan thương mại quốc tế
khác nhau trong đó quy định các điều kiện mua bán, bảo hiểm, cước vận tải, trách
nhiệm giữa các bên tham gia hợp đồng : INCOTERMS 2000
Án lệ: Các bản án hoặc quyết định của tòa án mà trong đó thể hiện các
quan điểm của thẩm phán đối với các vấn đề pháp lý có tính chất quyết định trong
việc giải quyết các các vụ việc nhất định và mang ý nghĩa giải quyết đối với các
quan hệ tương ứng trong tương lai.
o
Ở Anh - Mỹ thì thực tiễn tòa án là nguồn của cơ bản của pháp luật.
o
Ở VN thì án lệ không được nhìn nhận với tư cách là nguồn của PL
nói chung và là nguồn của TPQT nói riêng.
Về trình tự thủ tục áp dụng các loại nguồn của TPQT được đề cập tại Điều 759
BLDS:
Ðiều 759. Áp dụng pháp luật dân sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều
ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán quốc tế
1. Các quy định của pháp luật dân sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được áp
dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp Bộ luật này có
quy định khác.
2. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên có quy định khác với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của
điều ước quốc tế đó.
3. Trong trường hợp Bộ luật này, các văn bản pháp luật khác của Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật
của nước đó được áp dụng, nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
trường hợp pháp luật nước đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thì áp dụng pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Pháp luật nước ngoài cũng được áp dụng trong trường hợp các bên có thỏa thuận
trong hợp đồng, nếu sự thỏa thuận đó không trái với quy định của Bộ luật này và
các văn bản pháp luật khác của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Trong trường hợp quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài không được Bộ luật này,
các văn bản pháp luật khác của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc hợp đồng dân
sự giữa các bên điều chỉnh thì áp dụng tập quán quốc tế, nếu việc áp dụng hoặc hậu
quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2 Các loại nguồn của tư pháp quốc tế
A Điều ước quốc tế
Là sự thỏa thuận giữa các quốc gia và các chủ thể của luật quốc tế trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng nhằm xác lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế của các
chủ thể
Ví dụ Hiệp định tương trợ tư pháp,
Công ước Viên chứa đựng các qui phạm điều chỉnh các quan hệ thương mại
Chú ý Các điều ước quốc tế khi đáp ứng điều kiện có hiệu lực ( qui định trong
pháp luật quốc tế và quốc gia, hay trong chính điều ước ) thì sẽ trở thành nguồn
của công pháp quốc tế
Để trở thành nguồn của tư pháp quốc tế, các điều ước quốc tế phải đồng thời đáp
ứng được 2 điều kiện
Điều kiện về nội dung
Các điều ước quốc tế phải nhằm mục đích điều chỉnh hay có nội dung qui định về
các nhóm quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế
Ví dụ
Hiệp định tương trợ tư pháp, hiệp định thương mại, đầu tư, điều ước quốc tế đa
phương, hiệp định áp dụng cho hợp đồng là nguồn của tư pháp quốc tế
Hiệp định biên giới trên bộ giữa Việt nam và Trung quốc không là nguồn của tư
pháp quốc tế do chỉ điều chỉnh quan hệ về biên giới giữa 2 quốc gia ( quan hệ công
pháp quốc tế )
Điều kiện có hiệu lực của các điều ước quốc tế
Về chủ thể ký kết : phải là chủ thể của luật quốc tế và phải đúng thẩm quyền được
pháp luật ( của quốc gia hay các tổ chức quốc tế ) qui định
Về hình thức : phải được lập thành văn bản
Chú ý Điều ước quân tử chỉ là là lời hứa giữa các vua, không được lập thành văn
bản nhưng được tự nguyện tôn trọng từng được áp dụng trong lịch sử nhưng hiện
nay không còn giá trị
Về nội dung : phải đảm bảo phù hợp với pháp luật quốc tế và các nguyên tắc chung
của pháp luật ( tinh thần pháp luật : công bằng hợp lý )
Phải được ký kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng
Điều ước quốc tế với tư cách là nguồn của tư pháp quốc tế sẽ được áp dụng để điều
chỉnh các quan hệ quốc tế trong các trường hợp
· Áp dụng cho các quốc gia thành viên của điều ước
· Các bên chủ thể không là các quốc gia thành viên của điều ước trong quan hệ
cũng có thể thỏa thuận chọn điều ước quốc tế để áp dụng ( khi không trái với pháp
luật của các quốc gia liên quan ) thường áp dụng để giải quyết các quan hệ hợp
đồng
Chú ý Trong công pháp quốc tế, các quốc gia không phải là thành viên của điều
ước vẫn có quyền sử dụng điều ước quốc tế : như là những qui phạm tập quán áp
dụng theo thỏa thuận lựa chọn
Điều ước quốc tế là loại nguồn có giá trị pháp lý cao nhất và luôn được ưu tiên áp
dụng để xử lý Nếu có sự khác biệt với pháp luật quốc gia thì quốc gia sẽ phải áp
dụng các qui định của điều ước quốc tế
Chú ý
Ngoại lệ là Hoa kỳ không áp dụng ưu tiên điều ước quốc tế trong tư pháp quốc tế
Trong công pháp quốc tế, điều ước quốc tế chỉ là loại nguồn cơ bản, không có giá
trị cao hơn pháp luật quốc gia
B Pháp luật quốc gia
Pháp luật quốc gia được coi là nguồn của tư pháp quốc tế là toàn bộ hệ thống của
pháp luật quốc gia, bao gồm tất cả các hình thức nguồn có thể chứa đựng bên trong
hệ thống : văn bản, tập quán, án lệ
Pháp luật quốc gia là loại nguồn phổ biến và được áp dụng rất rộng rãi trong tư
pháp quốc tế ( do số lượng điều ước quốc tế được ký kết còn giới hạn, khác với
pháp luật quốc gia có phạm vi bao quát rất rộng các lĩnh vực khác nhau)
Pháp luật quốc gia sẽ được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế
trong các trường hợp
Có sự dẫn chiếu của qui phạm pháp luật xung đột
Dựa vào sự thỏa thuận giữa các bên
Ví dụ Tuy có những trường hợp điều chỉnh đương nhiên như sự áp dụng của pháp
luật quốc gia lên cá nhân có quốc tịch, nhưng khi xử lý thực tế vẫn cần có sự cụ thể
hóa bằng các qui định trong các qui phạm xung đột để các cơ quan có thẩm quyền
áp dụng Các quốc gia không được đương nhiên áp dụng pháp luật của mình để giải
quyết
Pháp luật quốc gia là nguồn của tư pháp quốc tế là loại nguồn có giá trị pháp lý cao
và được ưu tiên áp dụng sau điều ước quốc tế ( chỉ khi quốc gia là thành viên của
điều ước quốc tế )
C Tập quán quốc tế
Về nguyên tắc, tập quán là những cách thức xử sự có
Tính lịch sử truyền thống hình thành trong 1 thời gian dài
Tính ổn định không thay đổi, thường xuyên, lập đi lập lại
Được thừa nhận rộng rãi trong 1 khu vực địa lý hay trong 1 cộng đồng nào đó
Tính hợp pháp phù hợp với các qui định của pháp luật, hay các nguyên tắc chung
của pháp luật ( do tập quán thường được áp dụng ở những lĩnh vực mà pháp luật
chưa có qui định cụ thể )
Tập quán quốc tế là nguồn của tư pháp quốc tế là những qui tắc xử sự được hình
thành lâu đời trong thực tiễn pháp lý quốc tế, được thừa nhận rộng rãi trong 1 cộng
đồng hay khu vực địa lý nhất định, được áp dụng ổn định thường xuyên, lập đi lập
lại, có nội dung phù hợp với pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế
Chú ý Tập quán trong công pháp quốc tế là cách thức hành xử của các chủ thể luật
quốc tế ( quốc gia ) khác với tập quán của tư pháp quốc tế là cách thức hành xử của
các chủ thể cá thể trong các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc
tế
Ví dụ Hành xử trên biển Đông của các quốc gia là tập quán của công pháp quốc tế
Hành xử của các chủ tàu trong khu vực cảng hay vùng biển là tập quán của tư pháp
quốc tế
Tập quán quốc tế là loại nguồn được áp dụng chủ yếu trong các quan hệ thuộc lĩnh
vực thương mại, hàng hải.
Ví dụ Quan hệ pháp luật về sở hữu không áp dụng tập quán mà chỉ áp dụng pháp
luật quốc gia mà thôi tránh được sự tùy tiện trong giải quyết
Trong khi đó, tập quán phát huy vai trò rất tốt trong lĩnh vực thương mại, hàng hải
Do bản chất của các quan hệ pháp luật dân sự khác ( dân sự, hôn nhân, lao động )
có tính chất ổn định và thường nằm trong phạm vi điều chỉnh của các qui định của
pháp luật quốc gia do không quá phức tạp. Nhưng các điều kiện trong quan hệ hợp
đồng thương mại thường phụ thuộc chủ yếu vào sự thỏa thuận giữa các bên, rất
phức tạp, không đưa vào khuôn khổ được Áp dụng tập quán quốc tế sẽ hiệu quả
hơn rất nhiều
Ví dụ Incoterm giúp hạn chế tranh chấp giữa các bên
Các qui phạm tập quán quốc tế được ghi nhận thường được xem là qui định bổ
sung
· khi pháp luật thực định ( pháp luật thành văn cụ thể ) không có các qui định cụ
thể phải phù hợp với pháp luật, không trái với các nguyên tắc của pháp luật quốc
gia
· Hay khi các chủ thể trong quan hệ thỏa thuận lựa chọn tập quán để áp dụng thỏa
thuận lựa chọn phải phù hợp với pháp luật, không trái với các nguyên tắc của pháp
luật quốc gia
Tập quán quốc tế có giá trị pháp lý thấp hơn điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia
Thứ tự áp dụng sẽ là qui phạm điều ước – Pháp luật quốc gia – Tập quán quốc tế
Chú ý Một số quốc gia phương Tây có thể chấp nhận các học thuyết chính trị pháp
lý có thể là nguồn trong giai đoạn đầu tiên nhưng sau đó thì chúng sẽ trở thành án
lệ : là loại nguồn quan trọng giúp cho pháp luật ngày càng phát triển hoàn thiện
Tuy vậy hiện nay Việt nam vẫn chưa thừa nhận hình thức này
Mối quan hệ giữa tư pháp quốc tế và các ngành luật khác
1 Tư pháp quốc tế và công pháp quốc tế
Tư pháp quốc tế chính là luật tư quốc tế : Bản chất là luật tư được áp dụng trên
phạm vi quốc tế
Không có mối quan hệ hữu cơ đương nhiên với công pháp quốc tế ( luật công quốc
tế ) mà là 2 mảng riêng biệt
Chú ý Không thể hiểu là luật quốc tế tư : luật quốc tế áp dụng trong lĩnh vực tư do
chủ thể luật quốc tế là các quốc gia, không tồn tại mối quan hệ tư giữa các quốc gia
Các điểm tương đồng
Đều có tính chất vượt ra khỏi quốc gia ( nhưng ở mức độ khác nhau )
Tư pháp Vừa ra khỏi biên giới
Công pháp Bước vào biên giới quốc gia khác
Cùng sử dụng 1 số loại nguồn : điều ước quốc tế, tập quán
Chú ý Điều ước của tư pháp đương nhiên là điều ước của công pháp, nhưng điều
ước của công pháp nhưng không Điều ước của tư pháp
Còn lại thì các phương pháp điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh, chủ thể tham gia …
đều khác nhau hoàn toàn không có điểm chung cơ bản, không có mối liên hệ hữu
cơ
Từ những điểm trình bày trên đây về đối tượng điều chỉnh và phương
pháp điều chỉnh của Tư pháp quốc tế, cho thấy vai trò của Tư pháp quốc tế rất
quan trọng trong quá trình giao lưu quốc tế hiện nay. Một mặt nó củng cố và
thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế và các thực thể khác
trong đời sống sinh hoạt quốc tế trên cơ sở phù hợp với những nguyên tắc cơ
bản của Luật quốc tế; mặt khác Tư pháp quốc tế cũng xác định và bảo vệ lợi ích
của các cá nhân, tổ chức và các chủ thể khác tham gia vào các mối quan hệ dân
sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài. Sự kết hợp hai yếu tố trên đây chúng
tỏ sự cần thiết của việc không ngừng xây dựng và hoàn thiện Tư pháp quốc tế
trong các giai đoạn tiếp theo và cũng khẳng định Tư pháp quốc tế có vị trí tương
đối độc lập.