Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Do có mâu thuẫn trong kinh doanh, p đã nhờ q đến đốt xưởng của n vào ban đêm hậu quả là toàn bộ nhà xưởng và máy móc của n đã bị thiêu rụi, thiệt hại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.88 KB, 9 trang )

Bài tập học kỳ Hình sự 2
ĐỀ SỐ 5
Do có mâu thuẫn trong kinh doanh, P đã nhờ Q đến đốt xưởng của N vào
ban đêm. Hậu quả là toàn bộ nhà xưởng và máy móc của N đã bị thiêu rụi, thiệt hại
350 triệu đồng.
Hỏi:
1. Định tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi của P, Q. (2 điểm)
2. Giả sử khi đốt, Q không biết còn 1 công nhân của N bị say rượu ngủ quên trong
xưởng nên đã gây ra hậu quả chết người. Q có phải chịu trách nhiệm hình sự về cái
chết của người công nhân này không? Tại sao? (3 điểm)
3. Giả sử Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa được
xoá án tích lại thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì trường hợp phạm tội của Q
là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao? (2 điểm)

1

Nguyễn Thị Hà Linh - 361748


Bài tập học kỳ Hình sự 2
LỜI MỞ ĐẦU
Điều 58 Hiến pháp 1992 quy định “ Công dân có quyền sở hữu về thu nhập
hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản
khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác…”. Quan hệ sở hữu của
con người luôn là một vấn đề rất quan trọng được pháp luật Việt Nam nói chung hay
luật hình sự Việt Nam nói riêng quan tâm và bảo vệ. Bộ luật hình sự Việt Nam nước ta
đã quy định một chương riêng dành cho các quy định liên quan đến việc bảo vệ quan
hệ sở hữu của con người. Xuất phát từ nhận thức trên, với bài tập lớn học kỳ môn
Luật Hình sự Việt Nam modul 2, em xin đi sâu tìm hiểu một tình huống cụ thể về
hành vi xâm phạm quan hệ sở hữu của con người nhằm hiểu sâu hơn về các quy định
của luật hình sự Việt Nam đối với chế định này.


GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG

1. Định tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi của P, Q.
Trước hết, em xin khẳng định P và Q phạm tội hủy hoại tài sản theo Điều
143 Bộ luật hình sự (đã sửa đổi và bổ sung năm 2009).


Chứng minh hành vi của Q phạm tội hủy hoại tài sản của công dân: Hành vi của Q
đã thỏa mãn bốn yếu tố cấu thành của tội hủy hoại tài sản, đó là:
+ Khách thể: Hành vi của Q đã xâm phạm đến quan hệ tài sản – một quan
hệ được pháp luật hình sự bảo vệ.
+ Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội này là hành
vi hủy hoại tài sản. Hành vi hủy hoại đó là hành vi làm cho tài sản mất giá trị sử
dụng ở mức độ không còn hoặc khó có khả năng khôi phục lại được. Hành vi của
Q là đốt xưởng sản xuất của N vào ban đêm. Đây là một khoảng thời gian đặc biệt,
đó là đêm khuya. Q chọn thời gian đó để thực hiện hành vi của mình với mong
muốn không để ai biết việc mình làm, như vậy Q sẽ càng có cơ hội thực hiện thành
công ý đồ của mình.
Hậu quả của hành vi: Hành vi nguy hiểm cho xã hội của Q đã dẫn đến hậu
quả là toàn bộ xưởng sản xuất đã bị thiêu rụi, gây nên thiệt hại 350 triệu đồng về
tài sản.

2

Nguyễn Thị Hà Linh - 361748


Bài tập học kỳ Hình sự 2
Mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả: Hậu quả toàn bộ xưởng và máy móc

bị thiêu rụi, thiệt hại 350 triệu đồng và hành vi đốt xưởng sản xuất của Q có mối
quan hệ nhân quả với nhau.
+ Chủ thể: Trong trường hợp này, vì đề bài không nói rõ nên ta có thể mặc
nhiên hiểu rằng Q là người hoàn toàn có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
+ Mặt chủ quan: Lỗi của người phạm tội hủy hoại tài sản luôn luôn là lỗi
cố ý. Đó có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cũng có thể là lỗi cố ý gián tiếp. Trong
trường hợp này, lỗi của Q là lỗi cố ý trực tiếp. Bởi khi thực hiện hành vi của mình,
Q đã có sẵn kế hoạch từ trước, đó là hành vi lén lút đến đốt xưởng của N vào ban
đêm. Về lý trí, Q hoàn toàn nhận thức rất rõ được hậu quả nguy hiểm sẽ xảy ra
nhưng vẫn cố tình thực hiện. Về ý chí, Q mong muốn hậu quả xưởng bị thiêu rụi
xảy ra để hoàn thành kế hoạch đã chuẩn bị từ trước cùng P.
• Chứng minh P là đồng phạm với Q:
Điều 20 Bộ luật hình sự quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người
trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.
+ Những dấu hiệu về mặt khách quan: Đồng phạm đòi hỏi phải có hai dấu
hiệu về mặt khách quan như sau:
Thứ nhất, phải có từ hai người trở lên và những người này phải có đủ điều
kiện chủ thể của tội phạm.
Thứ hai, những người này phải cùng cố ý thực hiện tội phạm.
Trong tình huống trên, có thể hiểu rằng P và Q đều là những người có đầy đủ
điều kiện của chủ thể của tội phạm, đó là đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt
độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Bên cạnh đó, P đã lên kế hoạch đốt xưởng của N
từ trước và nhờ Q thực hiện kế hoạch của mình. Tuy P không trực tiếp thực hiện kế
hoạch của mình nhưng không thể nói rằng P không phạm tội hay không phải đồng
phạm của Q. Tại Khoản 2 Điều 20 Bộ luật hình sự quy định: “Người tổ chức là
người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm”. Trong tình huống này,
P đóng vai trò chủ mưu vì kế hoạch đốt xưởng là do P nghĩ ra, thể hiện qua việc P
nhờ Q đến đốt xưởng sản xuất của N vào ban đêm. Cũng tại Khoản 2 Điều 20 Bộ
luật hình sự quy định: “Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm”.
Trong tình huống trên, Q là người tự mình trực tiếp thực hiện tội phạm. Do vậy có

thể khẳng định Q là người thực hành.
+ Những dấu hiệu về mặt chủ quan: Về mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi
những người cùng thực hiện tội phạm đều có lỗi cố ý. Về lý trí, cà P và Q đều biết
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và có đủ khả năng thấy trước được hậu
quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi mình gây ra cũng như hậu quả chung của tội
phạm mà họ thực hiện nhưng vẫn cố tình thực hiện đến cùng. Về ý chí, cả P và Q
3

Nguyễn Thị Hà Linh - 361748


Bài tập học kỳ Hình sự 2



a)
b)

cùng mong muốn có hoạt động chung và cùng mong muốn hậu quả cháy xưởng
sản xuất xảy ra. Về mục đích, cả P và Q đều có mong muốn hủy hoại xưởng sản
xuất.
Từ những yếu tố trên trên, ta có đầy đủ các căn cứ để kết luận P và Q là đồng
phạm, cùng phạm tội hủy hoại tài sản theo quy định tại điều 143 Bộ luật hình sự
(Đã được sửa đổi và bổ sung năm 2009).
Xuất phát từ tội hủy hoại tài sản mà P và Q đã phạm, ta có căn cứ để xác
định khung hình phạt áp dụng đối với P và Q. Hành vi của P và Q đã có đầy đủ các
yếu tố cấu thành tội hủy hoại tài sản và gây thiệt hại là 350 triệu đồng. Căn cứ vào
Khoản 3 Điều 143 quy định về tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản:
“Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm
đến mười lăm năm:

Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu
đồng;
Gây hậu quả rất nghiêm trọng”.
Như vậy, theo như quy định của điều luật thì P và Q phải chịu mức phạt tù
từ bảy năm đến mười lăm năm vì đã gây ra thiệt hại về tài sản là 350 triệu đồng
cho xưởng sản xuất của N.

2. Giả sử khi đốt, Q không biết còn 1 công nhân của N bị say rượu ngủ
quên trong xưởng nên đã gây ra hậu quả chết người. Q có phải chịu
trách nhiệm hình sự về cái chết của người công nhân này không? Tại
sao?
Trong tình huống này, có ý kiến cho rằng hành vi đốt xưởng sản xuất của Q
dẫn đến hậu quả chết người thuộc loại tội vô ý làm chết người được quy định tại
Điều 98 Bộ luật hình sự. Theo định nghĩa, tội vô ý làm chết người là hành vi của
một người không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra chết người
mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hoặc tuy thấy trước hành vi của mình
có thể gây ra chết người nhưng tin rằng hậu quả đó không xảy ra. Hành vi phạm tội
của Q có nhiều yếu tố để ta dễ dàng đưa ra kết luận đó là tội vô ý làm chết người.
Tuy nhiên, theo ý kiến của riếng em thì: Giả sử khi đốt, Q không biết còn
một công nhân của N bị say rượu ngủ quên trong xưởng nên đã gây ra hậu quả chết
người thì Q không phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết của người công
4

Nguyễn Thị Hà Linh - 361748


Bài tập học kỳ Hình sự 2
nhân này mà chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hủy hoại tài sản với tình
tiết gây hậu quả nghiêm trọng. Ta có thể phân tích dựa trên một số ý như sau:
Q và người công nhân đó hoàn toàn không có quan hệ gì, cũng hoàn toàn

không có thù oán nên không thể thấy được động cơ giết người trong đó. Hơn nữa,
mục đích chính của Q đó là đốt xưởng trả thù. Người công nhân kia vô ý nằm vào
nên bị chết do hành vi đốt xưởng của Q gây ra. Chính bản thân người công nhân
trong tình trạng say rượu cũng không kiểm soát được hành vi của mình là ngủ tại
xưởng sản xuất. Vô ý làm chết người đó là sự vô tình gây ra hậu quả chết người, dù
hoàn toàn không muốn hậu quả đó xảy ra nhưng do có sự tác động của hành vi của
mình tới nạn nhân khiến hậu quả chết người vẫn xảy ra. Hành vi của Q trong
trường hợp này đó là cố ý đốt xưởng, vẩn biết hành vi đó nguy hiểm dù trong suy
nghĩ là không có người nhưng mặc nhiên phải biết có thể gây những hậu quả to lớn
khác. Như vậy, trong ý chí của Q, khi thực hiện hành vi phạm tội đó thì dù hậu quả
có tồi tệ đến thế nào thì Q vẫn chấp nhận. Chính vì chấp nhận nên Q mới hành
động. Như vậy có thể khẳng định rằng hành vi phạm tội của Q không phải tội vô ý
làm chết người, mà đó là hậu quả phát sinh do hành vi phạm tội của Q gây nên.
Để xem xét trong một trường hợp nào đó, hành vi phạm tội đó gây hậu quả
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng thì về nguyên tắc chung
phải đánh giá một cách toàn diện và đẩy đủ các hậu quả. Căn cứ vào Thông tư liên
tịch của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ
tư pháp số 02/2001/TTLT-TANDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 về việc
hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu”
của Bộ luật hình sự năm 1999, tiểu mục a) và b) quy định như sau:
“a) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả nghiêm trọng:
a.1) Làm chết một người;
a.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ
lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
a.3) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ
thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
a.4) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ
thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, nếu không thuộc các
trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a.2 và a.3 trên đây;


5

Nguyễn Thị Hà Linh - 361748


Bài tập học kỳ Hình sự 2
a.5) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ
thương tật từ 31 % đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu
đồng đến dưới 50 triệu đồng;
a.6) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
b) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả rất nghiêm trọng:
b.1) Làm chết hai người;
b.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ
thương tật của mỗi người từ 61 % trở lên;
b.3) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ
lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
b.4) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ
thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, nếu không thuộc một
trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b.2 và b.3 trên đây;
b.5) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm
triệu đồng;
b.6) Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai đến
ba điểm từ điểm a.1 đến điểm a.6 tiểu mục 3.4 này”.
Như vậy, hành vi đốt xưởng sản xuất của Q đã dẫn đến cái chết của người
công nhân say rượu ngủ quên trong xưởng thuộc tiểu mục b.6). Căn cứ vào thông
tư trên thì hậu quả chết người do hành vi phạm tội của Q là hậu quả rất nghiêm
trọng.
Khoản 3 Điều 143 Bộ luật hình sự (Đã được sửa đổi bổ sung năm 2009) quy
định khung hình phạt về tội hủy hoại tài sản như sau:
“Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy

năm đến mười lăm năm:
a)
b)

Gây thiệt hại chi tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu
đồng;
Gây hậu quả rất nghiêm trọng.”
Căn cứ vào quy định trên của Bộ luật hình sự, cả hành vi Q đốt xưởng sản
xuất của N gây thiệt hại rất nghiêm trọng về tài sản là 350 triệu đồng và gây ra hậu
quả rất nghiêm trọng là người công nhân chết đều thuộc Khoản 3 Điều 143 Bộ luật
hình sự (Đã được sửa đổi bổ sung năm 2009) và sẽ bị truy tố theo Khoản 3 Điều
này.
6

Nguyễn Thị Hà Linh - 361748


Bài tập học kỳ Hình sự 2
=> Kết luận: Giả sử khi đốt, Q không biết còn một công nhân của N bị say
rượu ngủ quên trong xưởng nên đã gây ra hậu quả chết người thì Q không phải
chịu trách nhiệm hình sự về cái chết của người công nhân này mà chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội hủy hoại tài sản với tình tiết gây hậu quả nghiêm
trọng.

3. Giả sử Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản,
chưa được xoá án tích lại thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì trường
hợp phạm tội của Q là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao?
Giả sử Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa được
xóa án tích, lại thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì trường hợp phạm tội của Q
là tái phạm nguy hiểm. Khẳng định trên xuất phát từ những lý do sau:









Với mức 3 năm mà tòa án tuyên cho Q về tội cướp tài sản, ta thấy rằng, Q phạm tội
vào khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào khung hình phạt ba năm đến
mười năm tại Khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự, ta nhận thấy hành vi phạm tội
cướp tài sản của Q thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý. Nhưng nếu chỉ
dựa vào mức án phạt mà tòa án tuyên với Q để kết luận hành vi phạm tội của Q
thuộc Khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự thì có phần chưa khách quan bởi án phạt 3
năm đó có thể đã bao gồm cả các tình tiết giảm nhẹ. Như vậy, hành vi phạm tội của
Q có thể thuộc Khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào mức cao nhất của
khung hình phạt tại Khoản 2 là 15 năm thì hành vi phạm tội của Q vẫn thuộc loại
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý.
Căn cứ vào mức án phạt cao nhất là mười lăm năm của khung hình phạt của Q về
tội hủy hoại tài sản như đã chứng minh ở trên thì hành vi phạm tội của Q thuộc loại
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý.
Dựa vào tình huống mà đề bài nêu thì Q chưa được xóa án tích nhưng lại thực hiện
hành vi phạm tội hủy hoại tài sản được quy định tại Khoản 3 Điều 143 cũng thuộc
loại tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình
sự quy định về trường hợp được coi là tái phạm nguy hiểm: “Đã bị kết án về tội
rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại
phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý”.
Kết luận: Như vậy, ta có đầy đủ các căn cứ để chứng minh trường hợp phạm tội
của Q là tái phạm nguy hiểm được quy định tại Khoản 2 Điều 49.
7


Nguyễn Thị Hà Linh - 361748


Bài tập học kỳ Hình sự 2
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Tội phạm không phải là vấn đề mới trong xã hội hiện nay. Tuy nhiên, để loại
bỏ hoàn toàn nó thì không phải là vấn đề đơn giản. Thực tế, pháp luật nói chung và
pháp luật hình sự nói riêng chỉ dừng lại ở việc quy định các biện pháp xử lý các vụ án
hình sự để ngăn chặn và răn đe, hạn chế tình trạng phạm tội trong xã hội. Căn cứ vào
đặc tính này, thiết nghĩ, pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng cần có
những biện pháp nghiêm khắc hơn, phù hợp hơn để trong thời gian không xa sẽ loại
bỏ hoàn toàn tội phạm trong xã hội.

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập I, trường Đại Học Luật Hà Nội, nhà
xuất bản Công An Nhân Dân

2.

GS.TS.Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và Cấu thành tội phạm, NXB CAND, Hà
Nội 2012
8

Nguyễn Thị Hà Linh - 361748


Bài tập học kỳ Hình sự 2

3.

GS.TS.Nguyễn Ngọc Hòa, Mô hình Luật hình sự Việt Nam, NXB CAND, Hà
Nội 2012

4.

Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (đã được

5.

sửa đổi và bổ sung năm 2009)
Bình luận khoa học bộ luật hình sự, Đinh Văn Quế - Chánh tòa án hình sự

6.

- Tòa án nhân dân tối cao, nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh.
Các website:








9




Nguyễn Thị Hà Linh - 361748



×