MỞ ĐẦU
Hiện nay trong hoạt động quản lý nhà nước vấn đề soạn thảo và ban hành văn
bản pháp luật là một vấn đề hết sức quan trọng và cần được quan tâm một cách
đúng mức, bởi nó là công cụ hữu hiệu phục vụ cho việc quản lý và điều hành nhà
nước, bảo đảm cho hoạt động của mọi người dân, của các cơ quan nhà nước được
diễn ra một cách có hệ thống, có pháp quy.
Trong bài tập học kỳ lần này em xin chọn đề tài:
“Giải thích rõ việc lựa chọn biện pháp xử lý, chủ thể có thẩm quyền xử lý, hình
thức văn bản xử lý, căn cứ pháp lý và soạn thảo hoàn chỉnh văn bản pháp luật để
chủ thể có thẩm quyền giải quyết công việc sau:
Xử lý quyết dinh số 15/2012/QĐ – UBND do Ủy ban nhân dân huyện X tỉnh Y
ban hành ngày 20 tháng 7 năm 2013 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai vì trái thẩm quyền”
NỘI DUNG
1, Lựa chọn biện pháp xử lý:
Dựa vào tính chất, mức độ khiếm khuyết của văn bản pháp luật và bản chất của
mỗi biện pháp xử lý, chủ thể có thẩm quyền lựa chọn một trong những biện pháp
như: Hủy bỏ; Bãi bỏ; Thay thế; Đình chỉ thi hành; Tạm đình chỉ thi hành; sửa đổi,
bổ sung để xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết.
Bãi bỏ là biện pháp xử lý được hiểu là “bỏ đi, không thi hành nữa”, đối tượng áp
dụng biện pháp bãi bỏ là các văn bản quy phạm pháp luật có một trong các dấu
hiệu khiếm khuyết, như: Nội dung văn bản quy phạm pháp luật không phù hợp
với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đại đa số nội dung trong văn bản
không phù hợp với quyền lợi chính đáng của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp
của văn bản; nội dung của văn bản không phù hợp với văn bản pháp luật do cơ
quan nhà nước cấp trên ban hành; phần lớn nội dung của văn bản quy phạm pháp
luật không phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội là đối tượng mà văn bản điều
chỉnh; phần lớn nội dung của văn bản pháp luật không phù hợp với các điều ước
quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia; văn bản quy phạm pháp luật không
còn cần thiết tồn tại trong thực tiễn nữa.
Biện pháp bãi bỏ không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ
thể ban hành văn bản pháp luật sai trái đây cũng là dấu hiệu để biết nên lựa chọn
biện pháp bãi bỏ hay hủy bỏ để xử lý văn bản pháp luật.
Theo căn cứ trên thì trong trường hợp cụ thể là quyết dinh số 15/2012/QĐ –
UBND do Ủy ban nhân dân huyện X tỉnh Y ban hành ngày 20 tháng 7 năm 2013
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai vì trái thẩm quyền xử lý thì
ta sẽ phải lựa chọn biện pháp xử lý là “hủy bỏ” vì:
-
Đây là văn bản quy phạm pháp luật mà nội dung của văn bản không phù
hợptrái thẩm quyền ban hành
- quyết dinh số 15/2012/QĐ – UBND do Ủy ban nhân dân huyện X tỉnh Y
ban hành ngày 20 tháng 7 năm 2013 về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai chỉ mất hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản xử lý
Nghị quyết này có hiệu lực pháp luật.
- Việc xử lý Nghị quyết này không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường,
bồi hoàn của chủ thể ban hành văn bản pháp luật trái thẩm quyền này là
Hội đồng nhân dân huyện X tỉnh Y.
2, Chủ thể có thẩm quyền xử lý:
Căn cứ vào Điều 18 của Nghị định số 40/2010/NĐ – CP của Chính phủ về kiểm
tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật quy định:
Điều 18. Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện trong việc xử lý văn bản trái pháp luật
1. Đình chỉ việc thi hành và hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái
pháp luật của Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp.
2. Đình chỉ việc thi hành nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp
dưới trực tiếp và đề nghị Hội đồng nhân dân cấp tỉnh hủy bỏ hoặc bãi bỏ.
Như vậy thẩm quyền xử quyết dinh số 15/2012/QĐ – UBND do Ủy ban nhân dân
huyện X tỉnh Y ban hành ngày 20 tháng 7 năm 2013 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai vì trái thẩm quyền sau khi có đề nghị hủy bỏ của Ủy
ban nhân dân tỉnh Y.
3, Hình thức văn bản xử lý:
ủy ban nhân dân cấp trên ban hành nghị quyết để hủy bỏ nghị quyết của ủy ban
nhân dân cấp dưới trực tiếp.
Cụ thể là ủy ban nhân dân tỉnh Y ban hành nghị quyết để bãi bỏ quyết dinh số
15/2012/QĐ – UBND do Ủy ban nhân dân huyện X tỉnh Y ban hành ngày 20
tháng 7 năm 2013 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai vì trái
thẩm quyền
4, Căn cứ pháp lý:
Các căn cứ pháp lý cần thiết là:
Căn cứ đầu tiên phải đưa ra đó là Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban
nhân dân năm 2003 vì theo tại khoản 7 điều 17 của Luật này có quy định rõ một
trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân trong lĩnh vực xây
dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính là:
“7. Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định, chỉ thị trái pháp luật của Uỷ ban
nhân dân cùng cấp, nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp
huyện…”
Căn cứ tiếp theo là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 vì theo khoản 1 điều 12 của Luật này thì
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sẽ phải ban hành Nghị quyết để quyết định biện pháp
bãi bỏ Nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân huyện theo điều 17 của
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003:
“1. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh được ban hành để quyết định chủ
trương, chính sách, biện pháp trong các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, y tế, xã hội,
văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, tài nguyên và môi
trường, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thực hiện chính sách dân
tộc và chính sách tôn giáo, thi hành pháp luật, xây dựng chính quyền địa phương
và quản lý địa giới hành chính trên địa bàn tỉnh quy định tại các điều 11, 12, 13,
14, 15, 16 và 17 của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và các
văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan của cơ quan nhà nước cấp trên.”
Căn cứ pháp lý tiếp theo là Nghị định số 40/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12 tháng
4 năm 2010 quy định về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật .
5, Soạn thảo hoàn chỉnh văn bản pháp luật:
ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH Y
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHIA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Số:.../NQ-HĐND
A, ngày…tháng…năm
NGHỊ QUYẾT
Về việc bãi bỏ Nghị quyết ban hanh trái thẩm quyền
ỦY BAN NHÂN DÂN
Khóa…nhiệm kì…kì họp thứ…từ ngày…
Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003;
Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân năm 2004;
Căn cứ Nghị định số 40/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12 tháng 4 năm 2010 quy
định về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật;
Căn cứ Luật Giáo dục 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2010;
Xét tờ trình số…/TTr-CTUBND của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Y
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Bãi bỏ Nghị quyết số…/…/NQ-HĐND của ủy ban nhân dân huyện X
ban hành ngày…tháng…năm… quyết định về…, vì trái thẩm quyền ban hành
Điều 2. Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, Trưởng ban tư pháp, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện X chịu trách
nhiệm thi hành nghị quyết ngày
Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Y khóa…nhiệm kì…kì
họp thứ… thông qua ngày
Nơi nhận:
CHỦ TỊCH
-Như Điều 2;
TM.HĐND)
(ban hành ngoài kì họp
-Lưu: VT, Ban VHXH.
KẾT LUẬN
Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật là khâu quan trọng trong hoạt động của
các cơ quan Nhà nước, là hình thức, phương tiện không thể thiếu được của chủ
thể quản lý nhà nước. Sự có mặt của các văn bản pháp luật trong hoạt động của
các cơ quan Nhà nước có thể được hiểu như sự “tập chung quyền lực của Nhà
nước, nhằm điều hành có hiệu quả nhất hoạt động quản lý”1
Xuất phát từ thẩm quyền của mỗi một cơ quan trong hệ thống cơ quan quản lý
nhà nước, hệ thống văn bản pháp luật cũng được sắp xếp theo trình tự nhất định
tương ứng với thẩm quyền của từng cơ quan.
Tuy nhiên cần phải nhìn thẳng vào thực tế về tính yếu kém trong công tác ban
hành văn bản pháp luật của các cá nhân, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở
nước ta để từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục tránh tình trạng văn ban hành
rồi lại phải sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hay bãi bỏ. Để làm được điều đó trước tiên
và quan trọng nhất chúng ta cần đổi mới quy trình xây dựng văn bản pháp luật
dài hạn và hằng năm ; tăng cường,bồi dưỡng năng lực cho các cơ quan, công
chức trực tiếp tham gia soạn thảo văn bản pháp luật.