1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Dạy học Thể dục là hoạt động giáo dục nhằm mục đích giáo dục và giáo
dưỡng cho thế hệ trẻ để các em có được những tri thức văn hoá thể chất, sức
khoẻ và tri thức văn hoá khoa học kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nước nhà.
Cũng như giáo dục nói chung, thể dục thể thao xuất hiện cùng xã hội loài
người và phát triển theo các quy luật của xã hội loài người.
Như vậy để có một nền thể thao phát triển tốt cả về chất và lượng người
ta cần phải thực hiện từ gốc, từ người tập và cụ thể là từ thế hệ trẻ Thanh, Thiếu
niên là chủ nhân tương lai của đất nước. Từ việc rèn luyện phát triển sức nhanh
cũng là rèn luyện cái gốc của nền văn hóa thể dục thể thao tiên tiến. Giải quyết
vấn đề này bằng “Bài tập phát triển sức nhanh trong giờ học thể dục khối 9”.
Là tên Sáng kiến kinh nghiệm cũng là vấn đề tôi toàn tâm, toàn ý nghiên cứu và
bằng các biện pháp chuyên môn cụ thể để sức nhanh hay thể dục thể thao phải
được rèn luyện cùng với kỹ năng có ý nghĩa khoa học của bộ môn giáo dục thể
chất.
Vì vậy bản thân là một giáo viên được đào tạo chính quy, đang giảng dạy
bộ môn giáo dục thể chất. Tôi quyết định nghiên cứu Sáng kiến kinh nghiệm:
“Bài tập phát triển sức nhanh trong giờ học thể dục khối 9”, với mong muốn
trước tiên là giúp cho các bài giảng của tôi đạt kết quả cao, bài học của học sinh
sẽ phong phú và sinh động hơn. Đặc biệt là trang bị cho các em hệ thống các bài
tập, động tác, trò chơi, phương pháp rèn luyện kỹ năng nhanh nhẹn, giúp cho
nền tảng của văn hóa thể dục thể thao phát triển chắc chắn và toàn diện hơn nói
chung và học sinh trường THCS nói riêng.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Cùng với hoạt động giáo dục khác, Giáo dục thể chất góp phần giáo dục
thế hệ trẻ phát triển toàn diện theo 5 tiêu chí Đức – Trí – Thể – Mỹ và Lao động,
thực hiện đúng mục tiêu đào tạo của các trường phổ thông.
Thông qua sáng kiến kinh nghiệm: “Bài tập phát triển sức nhanh trong
giờ học thể dục khối 9”, tạo cho học sinh phương pháp tự giác, tích cực, chủ
động trong tập luyện thể dục thể thao. Cụ thể là hướng dẫn học sinh phương
pháp tập luyện“sức nhanh” bằng cách tạo cho các em hứng thú tập luyện, hướng
dẫn các em những động tác, bài tập, phương pháp tập luyện bộ môn chay nhanh.
+ Dùng các bài tập thể chất và những cách thức tập luyện khoa học để điều
khiển cơ thể phát triển tốt về thể chất và tinh thần, cụ thể là:
- Góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho học sinh.
- Cung cấp những kiến thức cơ bản về giáo dục thể chất và vệ sinh thân thể.
- Hình thành thói quen vận động để rèn luyện thân thể, tạo không khí vui
tươi, lành mạnh, rèn luyện đạo đức, ý chí, tinh thần đoàn kết tập thể . Rèn
luyện cho học sinh ý thức tự giác – tích cực – chủ động
- Trong tập luyện thể dục thể thao qua giờ Thể dục chính khóa, cũng như
tập luyện hằng ngày nói chung và rèn luyện kỹ năng chạy nói riêng.
1
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài không nghiên cứu về lý luận dạy học nói chung; không đi sâu vào
phương pháp dạy học của bộ môn. Sáng kiến kinh nghiệm này chỉ giới hạn cụ
thể như tên của đề tài: “Bài tập phát triển sức nhanh trong giờ học thể dục
khối 9”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Điều tra, khảo sát thực trạng việc dạy và học bộ môn thể dục tại trường
THCS.
- Phỏng vấn các bạn đồng nghiệp (giáo viên thể dục) ở các trường bạn trên
địa bàn và học sinh trường THCS.
- Quan sát tình hình phát triển thể dục thể thao ở địa phương, nhà trường, và
quá trình tập luyện thể dục thể thao của học sinh ở trường cũng như ở nhà.
- Phân tích các đối tượng học sinh, thực trạng môn học và tổng hợp các kỹ
năng chuyên môn.
2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
Theo từ điển Tiếng Việt: “Phương pháp là tuần tự cần làm theo trong
những bước có quan hệ với nhau khi tiến hành công việc có mục đích nhất
định”. Với giáo dục thể chất, đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm tạo cho mỗi
giờ lên lớp tránh được việc làm mẫu quá nhiều, tránh được việc giải thích quá kỹ
về kỹ thuật, động tác và loại trừ được không khí căng thẳng trong buổi tập. Qua
đó tạo cho giờ học luôn có một không khí vui tươi, nhẹ nhàng nhưng hiệu quả,
giúp cho các em học mà chơi, chơi mà học nhưng vẫn đạt kết quả cao. Nhằm
phát huy được tính Năng động – Sáng tạo – Tích cực – Chủ động của học sinh,
muốn đạt được kết quả trên thì người giáo viên phải có sự tích cực, sáng tạo
trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm đạt mục tiêu giáo dục nói chung
và mục tiêu lên lớp nói riêng.
Với giáo dục thể chất: “ kỹ năng là năng lực giải quyết nhiệm vụ vận
động trong điều kiện người học phải tập chung chú ý cao độ vào từng động tác
của bài tập thể chất, hoặc là năng lực vận dụng bước đầu các tri thức vào thực tế
luyện tập”.
“Bài tập phát triển sức nhanh trong giờ học thể dục khối 9”, nhằm tích
cực hóa hoạt động học tập của học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo
viên. Tức là giáo viên hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức hoạt động để giúp học sinh
chủ động tham gia các hoạt động, nhằm phát huy tính Tích cực – Chủ động – Tự
giác – Sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm môn Thể dục; Bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Qua đó ta
thấy cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học thể dục là: Giúp học sinh
hướng tới việc học tập Chủ động - Tích cực, quan trọng hơn học sinh phải nhận
thức được TDTT là phải luyện tập thường xuyên. Rèn luyện thân thể phải là một
nhu cầu hứng thú và quan trọng là phải xây dựng nền nếp thể dục hằng ngày
thành thói quen trong đời sống, sinh hoạt...
Nhà trường phổ thông có một trách nhiệm rất nặng nề, là phải tạo cho thế hệ
trẻ có cơ sở ban đầu rất quan trọng đó là: Hình thành và phát triển nhân cách
học sinh một cách toàn diện nhất. Để thực hiện các mặt giáo dục này, nhà trường
phổ thông phải dựa vào nhiều con đường: Dạy học, lao động sản xuất, hoạt động
văn hoá, sinh hoạt tập thể, hoạt động hướng nghiệp… Trong đó dạy học là con
đường cơ bản nhằm phát triển trí tuệ nói riêng và hình thành nhân cách học sinh
nói chung. Việc dạy học phải đảm bảo cho học sinh nắm vững kiến thức, làm
cho học sinh hiểu đúng bản chất của những kiến thức ấy được gắn với những
điều tiếp thu từ trước và vận dụng chúng vào thực tiễn.
Trong nhà trường việc nắm kiến thức của học sinh không phải là tự phát mà
là một quá trình có mục đích rõ rệt, có kế hoạch, có tổ chức chặt chẽ, một quá
trình nỗ lực tư duy trong đó học sinh phát huy được tính tích cực, tính tự giác
của mình dưới sự chỉ đạo của giáo viên, trong quá trình ấy mức độ tự lực của
học sinh càng cao thì kiến thức nắm được càng sâu sắc, tư duy độc lập sáng tạo
3
càng phát triển, năng lực nhận thức ngày càng được nâng cao kết quả học tập
càng tốt.
Môn thể dục chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống các môn học ở nhà
trường phổ thông. Giảng dạy thể dục cũng như các môn học khác đều phải khơi
dậy tiềm năng, yếu tố tìm tòi khám phá, sáng tạo, vận dụng ở học sinh nhằm
mục đích đào tạo “những con người lao động làm chủ đất nước, có giác ngộ
CNXH, có văn hóa và kỹ thuật, có sức khoẻ , những con người phát triển toàn
diện dể xây dựng một xã hội mới”.
Môn thể dục trong các bậc học ở nhà trường được xếp ngang hàng với tất cả
các môn học khác vì cái quý nhất của mỗi con người là sức khoẻ và trí tuệ, có
sức khoẻ tốt sẽ tạo điều kiện cho trí tuệ phát triển tốt hơn và ngược lại. TDTT
giúp cho học sinh có được sức khỏe tốt từ đó học tập các môn khác và tham gia
hoạt động ở nhà trường, đạt hiệu quả cao hơn để các em trở thành người có ích
cho xã hội.
Khi tham gia các hoạt động TDTT Đòi hỏi học sinh phải có tính kỷ luật cao,
tinh thần trách nhiệm trước tập thể, tác phong nhanh nhẹn, sự cố gắng tính thật
thà trung thực….Trong các hoạt động thể dục thể thao, sức nhanh có một vị trí
vô cùng quan trọng trong đời sống, nếu không có sức nhanh con người luôn
chậm trễ dẫn đến không theo kịp với thời đại mà nhất là trong thời buổi hiện nay
đất nước ta đang là nước phát triển nên rất cần một thế hệ trẻ có một sức khoẻ
dẻo dai, tác phong nhanh nhẹn trong công việc và trong cuộc sống hàng ngày.
Để làm được điều này ngay từ khi các em đang ngồi trên ghế nhà trường cần
phải được quan tâm nhiều hơn về sức nhanh, vì thế Bộ giáo dục và Đào tạo đã
đưa môn chạy nhanh vào các trường học từ mầm non cho đến tiểu học, THCS,
THPT và các trường chuyên nghiệp
Thực chất của sức nhanh là khả năng của cơ thể thực hiện động tác của một
phản ứng đối với một kích thích bất ngờ trong đó có sự chuẩn xác về cường độ
và thời gian.
Sức nhanh thể hiện ở hai dạng đơn giản và phức tạp.
Dạng đơn giản của sức nhanh bao gồm thời gian phản ứng, thời gian của
một động tác đơn lẻ và tần số hoạt động.
Dạng phức tạp của sức nhanh là thời gian thực hiện các hoạt động thể thao
phức tạp khác nhau như: Chạy 100m, tốc đo dẫn bóng trong bóng đá...Như thời
gian phản ứng, thời gian phản ứng một phản ứng đơn lẻ tần số động tác càng cao
thì tần số hoạt động phức tạp càng cao . Như vậy sức nhanh là tố chất tổng hợp
của các yếu tố là thời gian phản ứng, thời gian thực hiện động tác đơn lẻ và tần
số hoạt động.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: sức nhanh của học sinh THCS rất kém, do các
em không chịu khó tập luyện. Sức nhanh kém sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến kết
quả học tập, do đó học sinh THCS cần phải biết cách tập luyện phát triển sức
nhanh.
4
2.2. Thực trạng
Xét về mặt phát triển sinh lí của học sinh đặc biệt là về mặt rèn luyện kỹ
năng vận động đã được lĩnh hội thì vai trò tập luyện sức nhanh trong quá trình
học tập có một giá trị rất lớn.
Việc phát triển sức nhanh cho học sinh gồm yếu tố sinh lí, sinh hoá, nhiệt độ .
Yếu tố quyết định của tất cả các dạng sức nhanh là độ linh hoạt của quá trình
thần kinh và tốc độ co cơ. Độ linh hoạt của các quá trình thần kinh thể hiện ở
khả năng biến đổi nhanh chóng giữa hưng phấn và ức chế trong các trung tâm
thần kinh. Mặt khác độ linh hoạt thần kinh bao gồm cả tốc độ dẫn truyền xung
động trong các dây thần kinh. Chính sự chuyển nhanh giữa hưng phấn và ức chế
làm cho nơ ron vận động phát xung động với tần số cao và đã làm cho đơn vị
vận động thả lỏng nhanh do đó làm tăng cường tốc độ và tần số động tác.
Yếu tố sinh hoá quyết định đến tốc độ co cơ hay nói một cách khác hàm
lượng các hợp chất cao năng ATP, CP có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ co cơ.
Năng lượng cung cấp cho hoạt động tốc độ là năng lương yếm khí là chủ yếu.
Cho nên trong cơ nếu hàm lượng ATP, CP cao thi cơ co rất nhanh. Ngoài ra hoạt
tính của men cũng ảnh hưởng đến tốc độ co cơ. Chính các bài tập tốc độ đã làm
tăng hoạt tính sinh hoạt của men.
Ta thấy với phân phối chương trình thể dục THCS ở các khối lớp có thể thấy
việc giành ra luyện tập chạy nhanh vào các, tiết học từ khối 6 đến khối 9 có 16
tiết như vậy là chưa đủ còn rất ít ỏi. Mà chúng chỉ lồng vào các nội dung khác
như: ĐHĐN, chạy bền, nhảy xa, nhảy cao…. Như vậy việc tổ chức cho học sinh
tự giác tập luyện ở nhà vào các buổi sáng ngủ dậy, buổi chiều khi không còn sự
nhắc nhở của giáo viên. Trong giờ học thời gian rèn luyện sức nhanh là chưa
nhiều vì nhiệm vụ cơ bản của giờ dạy là thực hiện đủ nội dung, kiến thức lượng
vận động mới. Ngoài thời gian cho học sinh làm bài tập bổ trợ cho chạy nhanh
còn khó, có liên quan chạy phối hợp các giai đoạn phân phối sức trên đường
chạy, kết hợp với hình thể, thả lỏng sao cho phù hợp...Vì vậy giáo viên cần phải
tổ chức cho học sinh tập các bài tập bổ trợ cho sức nhanh.
+ Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên:
Từ thực trạng trên để công việc đạt hiệu quả tốt tôi đã mạnh dạn cải tiến nội
dung, phương pháp tập luyện sức nhanh cho học sinh khối 9.
Nhìn chung trong khuôn khổ nhà trường THCS rèn luyện sức nhanh là những
vấn đề không quá phức tạp, phần lớn bài tập bổ trợ và rèn luyện sức nhanh đều
giải quyết được bằng cách tập nhiều lần, tập với thời gian ngắn dần với lượng
vận động không đổi dựa trên nguyên lí hoạt động, những bài tập trong chương
trình học.
Tuy nhiên trong giờ học việc trao đổi với những em học sinh có khả năng
nhất có trình độ và thành tích tốt cũng tỏ ra ít có kỹ thuật và chiến thuật ứng
dụng vào thực tiễn khi đang chạy. Trong ý thức các em việc rèn luyện sức nhanh
và kỹ thuật, chiến thuật trong khi chạy là hoàn toàn tách biệt một cách kỳ lạ.
Thông thường việc rèn luyện sức nhanh lại bắt đầu không phải ở chỗ tìm hiểu
thực chất môn thể dục thể thao của chúng mà ở chỗ lựa chọn máy móc những
5
môn nhiều người ưa thích như bóng đá, cầu lông, bóng bàn.... Cùng với điều đó
các em quên mất là các em muốn đá bóng, cầu lông, bóng bàn giỏi thì phải cần
sức nhanh, sự khéo léo, phản xạ nhanh để dẫn bóng, đánh cầu, bóng bàn....Để
cần có một tốc độ nhanh hơn mọi người thì phải duy trì hoạt động với quả bóng
lăn trên sân với cường độ cao .
Bên cạnh đó đối với hầu hết học sinh việc giải quyết chạy nhanh chỉ mang
tính chất đối phó, các em gặp rất nhiêu khó khăn và chưa hiểu hết ý nghĩa của
việc rèn luyện sức nhanh. Đó là việc rèn luyện sức nhanh không chỉ phục vụ cho
mục đích tìm ra cách khắc phục khi mệt nhọc, chậm chạp mà mục đích thông
qua sự rèn luyện các em hiểu sâu hơn về các hiện tượng: đau sóc, đau đầu,
chóng mặt hoa mắt, hiện tượng tập trung cao độ hết sức nhanh, tập trung cao độ
về ý trí và tâm lí bởi thời gian chạy nhanh nó chỉ diễn ra khoảng 7 đến 8 giây
với quãng đường 60m hoặc 11 đến 12 giây đối với quãng đường 100m như vậy
cường độ vận động trong thời gian trên là rất lớn. Từ đó việc vận dụng các bài
tập xử lý những khó khăn trong khi chạy ứng dụng vào cuộc sống, trong lao
động sau đó chuyển về điều kiện bình thường.
Trong quá trình học tập và rèn luyện sức nhanh có khoảng 10 đến 15 em là
biết cách ứng dụng kỹ chiến thuật vào tập luyện, số còn lại chỉ tập luyện và rèn
luyện khi giáo viên bắt buộc (ép buộc) dưới sự chỉ đạo của giáo viên thì mới
chạy.
2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.
Để có thể thực hiện tốt được nhiệm vụ của việc tổ chức rèn luyện sức nhanh
cần phải kết hợp các biện pháp khác nhau để đảm bảo sự liên hoàn của mỗi học
sinh. Kết quả rèn luyện phụ thuộc vào việc giáo viên đưa ra nội dung, những trò
chơi vận động để lôi cuốn học sinh học sinh dưới dạng bổ trợ cho chạy
nhanh.Những phương pháp cụ thể phù hợp với các bài tập rèn luyện sức nhanh
giáo viên phải hình thành cho học sinh có được phương pháp chung khi rèn
luyện sức nhanh. Việc đó cần có một hệ thống tập luyện .
Nếu trong các bài học, các bài tập bổ trợ là các trò chơi luôn thay đổi “Lò cò
tiếp sức, chạy tiếp sức chuyển vật”. “Chạy trên địa hình quy định 30 đến 60m”;
“chạy vượt chướng ngại vật”; “chạy dích dắc tiếp sức”…. luôn thay đổi từ dạng
rèn luyện này sang dạng rèn luyện khác một cách ngẫu nhiên và cũng có giá trị
như nhau, nếu không làm sáng tỏ được là ở mỗi lớp từ lớp 6 đến lớp 9 có những
gì khó khăn, có những gì mới hơn cách rèn luyện ở các lớp trước, học sinh sẽ
không cảm thấy những sự ham muốn thì rèn luyện sức nhanh sẽ không còn.
Để xây dựng hệ thống trong việc rèn luyện phát triển sức nhanh là một việc
khó, cần có sự tìm tòi về phương pháp, cách thức xác định giữa mối quan hệ
quan trọng nhất điển hình nhất và những biểu hiện của chúng trong khi chạy
nhanh thường xuất hiện những triệu chứng như: Đau sóc, chóng mặt, hoa mắt,
choáng trọng lực, ngất… Để xác định được triệu chứng trên ta phải đưa ra cách
khắc phục và giải quyết chúng mà kèm theo nó là nhiệm vụ rèn luyện kỹ năng
vận động chạy nhanh như là một vấn đề mới, việc giải quyết nó sẽ là tri thức
mới và kinh nghiệm mới.
6
Những mối liên hệ giữa những bài tập chạy nhanh với các môn thể thao khác
sẽ được thấu hiểu kỹ nếu kết hợp được sự duy trì sức nhanh và sự sáng tạo trong
khi học vận dụng và các môn thể thao khác như bóng đá cầu lông, bóng bàn,
nhảy dây
Muốn học sinh có thái độ tích cực và tự giác, hứng thú khi tham gia tập
luyện TDTT nhất là sức nhanh cần có hệ thống chặt chẽ trong việc lựa chọn
mang tính liên tục của tập luyện chạy nhanh vào các môn khác như: bóng đá,
bơi lội, bóng rổ ....... Việc tuần tự tiến lên từ đơn giản đến phức tạp không
những là cần thiết khi di chuyển chạy từ đoạn đường này sang đoạn đường khác
mà cần thiết phải duy trì sức nhanh mức độ khó phải phù hợp với từng loại học
sinh tìm ra điều mới hơn khi tập luyện chạy nhanh mà nội dung gắn liền với
thực tiễn.
+ Về phương pháp chung để rèn luyện sức nhanh.
Đối với tập luyện chạy nhanh cụ thể phương pháp tập phụ thuộc vào nhiều
yếu tố. Song hầu hết các bài tập phát triển sức nhanh gồm các cự ly 60m, 100m,
200m, 400m. Kỹ thuật chạy cự ly ngắn thường được giảng dạy sau khi đã dạy
kỹ thuật chạy cự ly trung bình và dài. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh
thông qua các bước sau.
a) Nhiệm vụ 1: Xây dựng khái niệm môn học thông qua các biện pháp sau:
- GV phân tích làm mẫu kỹ thuật chạy.
- Xem phim ảnh kỹ thuật(đúng sai, toàn bộ và chi tiết kỹ thuật động tác)
- Cho học sinh chạy trên đoạn đường 30 – 50 m, lặp đi lặp lại giáo viên nhận
xét ưu, nhược điểm của từng học sinh.
b) Nhiệm vụ 2: Dạy kỹ thuật trên đường thẳng với thông qua các biện pháp
sau:
- Phân tích làm mẫu kỹ thuật trên đường thẩng, giáo viên làm mẫu thị phạm
động tác.
- Tập chạy bước nhỏ, chạy nâng cao đùi, chạy đạp sau.
+ Chạy bước nhỏ: giúp người tập nắm được cách đặt chân trên đất và khi
đạp lên duỗi thẳng hết khớp gối. Đây là bài tập bổ trợ tốt nhằm tăng tần số
bước chạy, phát triển độ linh hoạt và mềm dẻo của cổ chân, làm cho động
tác chạy được phối hợp thoải mái. Trong khi chạy bước nhỏ, khi đưa chân
lăng về trước, đầu gối không nâng cao lắm, cẳng chân thả lỏng, sau đó đùi
chủ động dùng sức ép xuống, chân tiếp đất nhẹ nhàng bằng nửa bàn chân
trước. Bước ngắn, điểm chạm chân chống trước gần với điểm rọi của trọng
tâm cơ thể, khi tiếp đất có động tác như hít đất. Chân chống đỡ cần đạp
thẳng hông, đầu gối, cổ chân. sau khi rời đất cẳng chân không hất về sau mà
trực tiếp đưa mạnh về trước. Trọng tâm nâng cao, thân trên hơi đổ về trước.
1
2
3
4
5
+ Chạy nâng cao đùi: là bài tập bổ trợ nhằm tăng biên độ động tác, phát triển
cơ đùi tham gia động tác lăng trước, phát triển sức mạnh và tốc độ của đùi.
7
Khi thực hiện cần dùng sức nâng đùi chân lăng cao vuông góc với thân
người, cẳng chân thả lỏng. Sau đó dùng sức đùi chân lăng ép xuống, chân
tiếp đất bằng nửa bàn chân trước. Bước ngắn, điểm chạm chân chống trước
gần với điểm rọi của trọng tâm cơ thể, chân chống đỡ cần đạp thẳng hông,
đầu gối, cổ chân, thân người thẳng hoặc hơi đổ về trước, tay đánh nhịp
nhàng theo tần số bước chân, trọng tâm nâng cao.
+ Chạy đạp sau: là loại bài tập bổ trợ nhằm tăng sức mạnh động tác đạp
sau, xây dựng cảm giác đạp thẳng chân sau và nâng cao đùi chân lăng về
trước đúng phương hướng. Khi thực hiện cần dùng sức lăng mạnh về trước –
lên cao, kéo theo hông cùng bên, cẳng chân thả lỏng. Tiếp đó dùng sức đùi
chân lăng ép mạnh xuống đất bằng nửa bàn chân trước, chân chống cần đạp
nhanh mạnh duỗi các khớp hông, gối, cổ chân. Sau khi đạp thẳng giữ
nguyên tư thế đó khi bay trên không. Khi chân trước gần chạm đất thì lăng
mạnh đùi chân đạp sau về trước lên trên. Thân người giữ thẳng hoặc hơi đổ
về trước, tay đánh nhịp nhàng theo bước chạy.
- Tập đánh tay tại chỗ (tăng dần cự ly, tần số và độ dài bước chạy).
- Chạy lặp lại các đoạn 30m – 40m với tốc độ tăng đều.
- Chạy tăng tốc các đoạn ngắn ( 40m đến 60m )
- Chạy và thực hiện tăng tốc theo lệnh của giáo viên ví dụ như:
- Chạy trên đường thẳng kẻ vôi, chạy trên đường thẳng có độ dài quy định
về bước.
- Số lượng bài tập lặp lại phải tuỳ thuộc vào trình độ thể lực của từng
người tập ( 5 – 7 lần)
c) Nhiệm vụ 3: Dạy kỹ thuật chạy đường vòng thông qua các biện pháp
sau:
- Phân tích và làm mẫu kỹ thuật chạy đường vòng.
- Tập chạy trên đường vòng có bán kính lớn ( ô chạy thứ 5,6 ), sau đó thu
hẹp dần
( ô chạy 3,2) với tốc độ 70% - 80% tốc độ tối đa .
- Chạy tăng tốc độ từ đường thẳng vào đường vòng 60m - 80m, và từ
đường vòng ra đường thẳng ( 60 - 80m).
- Chạy 200m với tốc độ 70 – 80% tốc độ tối đa.
d) Nhiệm vụ 4: Dạy kỹ thuật xuất phát thấp và chạy tăng tốc độ sau xuất
phát thông qua các biện pháp sau:
- Phân tích làm mẫu kỹ thuật xuất phát thấp cách đóng bàn đạp
- Thực hiện động tác theo khẩu lệnh “ vào chỗ ”, “ sẵn sàng”.
- Tự xuất phát không có khẩu lệnh.
- Xuất phát thấp với tiến hiệu chạy khác nhau( tiếng hô, súng phát lệnh,
còi...)
- Xuất phát thấp chạy lao 30- 40m.
- Tập xuất phát với dây cao su quàng vai.
8
- Tập xuất phát khi có dây cao xu chăng ngang, cách vạch xuất phát 1520m ( để người tập không thăng lên quá sớm).
Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy một số sai lầm kỹ thuật học
sinh hay mắc phải như sau:
- Tư thế “vào chỗ” và “ sẵn sàng” không đúng, bị gò bó, phản ứng
chậm khi nghe lệnh xuất phát.
Nguyên nhân:
- Khái niệm về kỹ thuật chưa đúng.
- Khi ở tư thế “ sẵn sàng” trọng lượng cơ thể dồn quá nhiều xuống hai tay.
- Lực đạp cơ chân yếu.
Cách sửa:
- Xây dựng lại khái niệm.
- Điều chỉnh lại vị trí hai bàn đạp cho phù hợp.
- Tập để có tư thế “sẵn sàng” hợp lí và ổn định.
- Tập xuất phát theo các tín hiệu khác nhau.
- Tăng sức mạnh bột phát cơ chân.
- Sau khi rời bàn đạp thẳng chân lên quá sớm.
Nguyên nhân:
- Khái niệm kỹ thuật xuất phát không đúng.
- Góc mặt tựa và vị trí bàn đạp chưa hợp lí( minh họ 2 hình ở dưới)
Góc độ bàn đạp nhỏ quá, lớn quá, không đúng với góc độ oẻ hình vẻ
Cách sửa:
- Xây dựng lại khái niệm kỹ thuật.
- Tăng khoảng cách từ bàn đạp trước tới vạch xuất phát.
- Tập xuất phát dưới xà chếch.
- Xuất phát khi có đồng đội giữ vai.
- Xuất phát khi có dây cao su.
- Chậm phát huy tốc độ, tăng độ dài bước không hợp lí
Nguyên nhân
- Khái niệm về kỹ thuật chưa đúng.
- Sức mạnh cơ chân yếu.
- Bị gò bó, căng thẳng.
Cách sửa:
- Tập chạy tăng tốc độ 30m.
- Tập xuất phát lên dốc, xuống dốc.
- Xuất phát và chạy theo vạch dấu kẻ sẵn trên đường
9
e) Nhiệm vụ 5: Dạy chuyển tiếp từ chạy lao sang chạy giữa quãng thông
qua các biện pháp sau:
- Chạy tăng tốc độ sau đó chạy theo quán tính
- Xuất phát thấp, chạy lao rồi chạy theo quán tính.
- Chạy biến tốc các đoạn ngắn ( 50 – 60m).
- Chạy 60m xuất phát thấp
Cách xuất phát thấp
Chạy lao sau xuất phát
Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy một số sai lầm kỹ thuật học
sinh hay mắc phải như sau:
- Đạp sau không hết, chống trước bằng cả bàn, bàn chân đặt lệch
hướng.
Nguyên nhân:
- Khái niệm về kỹ thuật chưa đúng.
- Phối hợp dùng sức chưa tốt.
Cách sửa:
- Xây dựng khái niệm kỹ thuật chính xác.
- Tập nhiều các bài tập bổ trợ: chạy đạp sau, chạy bước nhỏ, chạy nâng
cao đùi và tốc độ tăng dần.
- Chạy tăng tốc độ 30m sau đó chạy theo quán tính.
- Chạy theo vạch kẽ sẵn.
- Đánh tay gò bó, giật cục, thân trên ngửa ra sau nhiều.
Nguyên nhân:
- Nắm khái niệm kỹ thuật chưa tốt.
- Phối hợp giữa căng cơ và thả lỏng kém.
- Trình độ phát triển các tố chất thể lực còn hạn chế.
Cách sửa:
- Xây dựng khái niệm kỹ thuật đúng.
- Tập đánh tay với tốc độ tăng dần.
- Tập chạy tăng tốc độ 30m rồi sau đó cố duy trì tốc độ đạt được 20 –
30 m.
- Phát triển các tố chất thể lực cần thiết cho chạy ngắn.
f) Nhiệm vụ 6: Dạy kỹ thuật xuất phát thấp đầu đường vòng thông qua các
biện pháp sau :
- Hướng dẫn cách đóng bàn đạp đầu đường vòng.
- Xuất phát và chạy lao 20 – 25m đầu đường vòng ( vị trí xuất phát cự ly
200 – 400m)
- Chạy 200m xuất phát thấp
g) Nhiệm vụ 7: Dạy kỹ thuật chạy về đích thông qua những biện pháp sau :
- Giới thiệu và làm mẫu kỹ thuật
- Chạy chậm 6 – 10m làm động tác đánh đích.
- Chạy tăng tốc độ 15 – 20m làm động tác đánh đích
10
- Chạy 50m làm động tác đánh đích
Trong quá trình luyện tập học sinh thường mắc sai lầm khi giảm tốc độ
trước khi chạm đích, thực hiện động tác đánh đích không đúng (sai quy cách,
mắt thăng bằng)
Nguyên nhân:
- Khái niệm kỹ thuật chưa đúng.
Cách sửa:
- Xây dựng khái niệm kỹ thuật đúng.
- Tập động tác đánh đích tại chỗ.
Chạy 15 – 20 m thực hiện đánh đích.
h) Nhiệm vụ 8: Hoàn thiện kỹ thuật chạy cự ly ngắn thông qua các biện pháp
sau :
- Chạy 30m xuất phát thấp ( lặp lại )
- Chạy 60m, 100m xuất phát thấp với toàn bộ kỹ thuật( từ 80 –
100% tốc độ tối đa)
- Chạy 100m, 200m, 400m, với toàn bộ kỹ thuật.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Để kiểm chứng cho điều trên tôi đã thử nghiệm hai lớp 9A và 9B có chất
lượng học sinh như nhau. Kết quả thu được như sau:
-Với lớp 9A tôi không áp dụng mà chỉ - Với học sinh lớp 9B tôi áp dụng
dạy với phương pháp thông thường đi kinh nghiệm trên (sử dụng nhiều
theo đúng nội dung chương trình (phân phương pháp hình thức khác nhau)
phối chương trình)
- Chỉ có một số ít học sinh tích cực - Phần lớn học sinh có được thể lực,
tham gia rèn luyện chạy nhanh song
sức nhanh. Và có 26/32 em = 81,25%
còn rất tỏ ra rất mệt mỏi chỉ có
tích cực tham gia tập luyện và đạt
14/ 30 em = 49,25%
thành tích tốt.
- Khả năng tự giác tập luyện chạy - Khả năng tự giác tập luyện một cách
nhanh ít và chưa biết cách hồi phục sức khoa học biết cách chạy kết hợp phân
khoẻ sau khi tập chạy nhanh.
chia sức lực trên đường chạy và đạt
thành tích tốt.
- Cách thực hiện trong khi chạy chưa - Cách thực hiện trong khi chạy biết
khoa học, chưa biết áp dụng bốn giai áp, dụng các giai đoạn kỹ thuật và đạt
đoạn kỹ thuật.
thành tích tốt, cụ thể là điểm học môn
chạy nhanh cao hơn.
- Khả năng phân phối sức trên đường - Năng lực phân phối sức hợp lý, sức
chạy chưa hợp lý .
nhanh tăng lên rõ rệt.
- Khả năng chủ động , tâm lý thi đấu - Khả năng chủ động , tâm lý thi đấu
còn yếu như : Còn sợ các cuộc thi “ tốt cụ thể là các em đã đạt được nhiều
Hội khoẻ Phù Đổng” cấp trường ở nội giải nhất, nhì ở hội khoẻ Phù Đông
11
dung chạy nhanh
cấp trường , cấp huyện. Cấp Tỉnh
Nhiều giải ở các nội dung điền kinh
khác, khi cần các em có thể thi tốt ở
bất kỳ thời gian nào.
- Như :
Năm học: 2015 – 2016 đã đạt 5giải
nhất, 7 giải ba và nhiều giải khuyến
khích cấp huyện, cấp tỉnh.
Năm học: 2016 – 2017 đã đạt 7giải
nhất, 5 giải nhì và nhiều giải khuyến
khích cấp huyện, cấp tỉnh.
Năm học: 2017 – 2018 đã đạt 7giải
nhất, 5 giải nhì và nhiều giải khuyến
khích cấp huyện, cấp tỉnh.
- Phần lớn các em đã có ý thức tập
- Phần lớn các em chưa tham gia tập
luyện chạy nhanh vào buổi sáng.
luyện chạy nhanh vào buổi sáng.
- Học sinh nắm vững kỹ thuật và ghi
- Học sinh nắm kỹ thuật chạy nhanh nhớ kiến thức một cách sâu sắc.
còn kém.
- Thấy được mối liên hệ giữa sức
- Chưa thấy mối quan hệ của chạy nhanh và các môn thể thao khác cần
nhanh và môn thể thao khác.
sức nhanh như thế nào, nó quan trọng
như thế nào?
12
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua giảng dạy môn thể dục đặc biệt là nội dung phát triên sức nhanh ở
trường THCS tôi đã rút ra được bài học kinh nghiệm để lôi kéo học sinh tham
gia tập luyện thể dục thể thao qua việc tổ chức tập luyện phát triển sức nhanh
trên lớp.
Trong quá trình dạy học việc tổ chức học sinh tập luyện thể dục thể thao
và phát triển sức nhanh là một công việc hết sức cần thiết. Song việc tổ chức
không đúng cách và không phù hợp nó sẽ trở thành một việc hết sức máy móc
làm cho mất đi tác dụng của TDTT. Do vậy người giáo viên cần chú ý những nội
dung sau:
Nội dung: Nội dung giờ thể dục đưa ra phải khoa học và phù hợp với đối
tượng học sinh cụ thể nội dung chạy nhanh phải chứa đựng những điều mới so
với nội dung tập luyện cũ, mức độ khó tăng dần.
Hình thức:Tập luyện phát triển sức nhanh giáo viên cần sử dụng nhiều
hình thức sen kẽ nhau để học sinh không thấy nhàm chán.
Ví dụ: Hình thức bổ trợ trò chơi, trò chơi vận động bóng chuyền 6, chạy tiếp
sức, chạy lò cò tiếp sức, dẫn bóng díc dắc……có thể cho học sinh đá bóng, bóng
chuyền để thu hút học sinh tập luyện để chỉ ra sức nhanh quan trọng như thế
nào.
Phương pháp: Giáo viên cần phải hình thành cho học sinh các phương
pháp khắc phục để không xảy ra hiện tượng đau sóc , đau đầu, chóng mặt,
choáng trọng lực….
Sắp xếp: Cách sắp xếp không nhất thiết nội dung phải theo phân phối
chương trình hoặc sách giáo khoa mà tuỳ thuộc từng nội dung học, cụ thể mà
giáo viên có thể sắp xếp hệ thống bài tập phát triển sức nhanh cho phù hợp, làm
sao phải lôi cuốn được học sinh tích cực chủ động tham gia tập luyện thể dục thể
thao.
Ý nghĩa: Làm cho học sinh hiểu được và thấy rõ được tác dụng của tập
luyện TDTT đặc biệt là phát triển sức nhanh nó không đơn thuần là rèn luyện
sức khoẻ mà còn tăng cường sự nhanh nhẹn, dẻo dai trong lao động sản xuất
trong đời sống hàng ngày ….. Mà nó giúp ta nắm được kiến thức sâu sắc của
chạy nhanh để vận dụng vào các môn thể thao khác có sức nhanh thi đấu dẻo dai
đặc biệt là các môn đối kháng.
3.2. Kiến nghị
Trong quá trình nghiên cứu với thực trạng giảng dạy ở trường THCS tôi có
một số kiến nghị sau:
Đội ngũ giáo viên thể dục phải xây dựng được một bài tập và trò chơi nhằm
giáo dục phát triển sức nhanh để phục vụ cho mục đích giạy học.
Tăng cường tu sửa vật chất, trang thiêt bị phục vụ cho giảng dạy bộ môn thể
dục nói chung và nội dung chạy nhanh nói riêng.
Tóm lại: Việc tổ chức cho học sinh tập luyên TDTT trên lớp là vô cùng quan
trọng trong quá trình giảng dạy của mỗi giáo viên dạy thể dục. Thông qua việc
13
tìm hiểu và tập luyện học sinh hiểu sâu sắc về các kiến thức môn thể dục góp
phần phát triển năng lực tư duy năng lực tự rèn luyện sức khoẻ, tự rèn những kỹ
năng cơ bản có tính chất kỷ thuật tổng hợp, góp phần xây dưng thế giới khoa
học, rèn luyện phẩm chất của người lao động mới. Từ đó các em sẽ vận dụng
những kiến thức có được vào thực tế đời sống, vào trong lao động sản xuất.
Đối với tôi thời gian giảng dạy thể dục ở trường THCS chưa thực sự nhiều vì
vậy “việc tổ chức cho học sinh tập luyện nội dung chạy nhanh trong môn thể
dục ” còn nhiều yếu điểm. Tôi rất mong được sự góp ý của đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRUỎNG ĐƠN VỊ
Thọ Xuân, ngày 08 tháng 01 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết không sao chép nội dung của
người khác
14
MỤC LỤC
Danh mục
Trang
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
01
1.2. Mục đích nghiên cứu
01
1.3. Đối tượng nghiên cứu
02
1.4. Phương pháp nghiên cứu
02
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
03
2.2. Thực trạng
05
2.3. Các giải phát sử dụng để giải quyết vấn đề.
06
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
13
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
15
3.2. Kiến nghị
15
15
Tài liệu tham khảo
1. Theo từ điên tiếng việt
2. Sách giáo khoa Thể dục 6, 7, 8, 9.
3. Điền kinh và Thể dục (Nxb : TDTT)
4. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn thể dục ở trường
THCS.
5. Những bài tập chuyên môn giảng dạy và huấn luyện Điền kinh.
Bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ III.
16