Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bài tập học kỳ tư pháp quốc tế bình luận những quy định của pháp luật việt nam hiện hành trong việc giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.71 KB, 13 trang )

Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành trong việc giải quyết xung đột pháp luật về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Nêu hướng hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bồi thường thiệt hại (BTTH) ngoài hợp đồng là một trong những chế định
luật ra đời từ rất sớm và đã trở thành một chế có vai trò quan trọng trong hệ thống
pháp luật của tất cả các quốc gia trên thế giới đặc biệt là đối với đối với quá trình
hội nhập kinh tế toàn cầu như ở nước ta hiện nay.
Thực tế cho thấy mỗi quốc gia đều có quy định của pháp luật về BTTH
ngoài hợp đồng không giống nhau, vì vậy, tình trạng xung đột pháp luật về vấn đề
này như là một tất yếu khách quan. Việc xác định đúng đắn các quy phạm pháp
luật để giải quyết là rât cần thiết, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của cả hai bên
gây thiệt hại và bị thiệt hại. Do đó em đã lựa chọn đề tài “Giải quyết xung đột về
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật Việt Nam” để nghiên cứu, tìm
hiểu sâu hơn.
Bài làm không tránh khỏi những thiếu sót về mặt nội dung cũng như hình
thức trình bày kính mong quý thầy cô thông cảm!
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG:
1. Khái niệm:
1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài:
Bồi thường thiệt hại( BTTH) ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự về quan hệ
bồi thường thiệt hại mà trước khi xảy ra thiệt hại, các bên chủ thể là bên gây thiệt
hại và bên bị thiệt hại không có thoả thuận hoặc hợp đồng nào. Các bên nói trên
vẫn có trách nhiệm với nhau trong việc bồi thường thiệt hại trước sự kiện gây ra
thiệt hại ngoài dự kiến về tài sản hoặc về tinh thần.

1


Cụ thể người gây thiệt hại là người duy nhất phải thực hiện trách nhiệm trước


người bị hại và người bị hại có quyền yêu cầu người gây hại phải thực hiện những
hành vi nhất định nhằm đảm bảo lợi ích của mình.
Khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, vấn đề bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng được giải quyết không trên cơ sở của hợp đồng dân sự (vì
không có hợp đồng) mà chỉ giải quyết trên cơ sở của pháp luật quy định là thiệt hại
thực tế đã gây ra.
Tư pháp quốc tế điều chỉnh các quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại có yếu tố
nước ngoài. Yếu tố nước ngoài đã được Điều 758 của BLDS 2005 quy định rất cụ
thể: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong
các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ
chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp
luật nước ngoài,phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở
nước ngoài”.
Dựa vào các cơ sở trên, có thể đưa ra định nghĩa sau về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài: “Trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng có yếu tố nước ngoài là trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phát sinh khi có
thiệt hại xảy ra và có ít nhất một trong ba yếu tố sau: Thứ nhất, ít nhất một trong
các bên tham gia quan hệ có quốc tịch, nơi cư trú hay trụ sở ở nước ngoài; Thứ
hai, hành vi gây thiệt hại hoặc hậu quả thiệt hại xảy ra ở nước ngoài; Thứ ba, đối
tượng bị thiệt hại ở nước ngoài”.
Có thể nêu lên những vụ việc thực tế làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đông như:
Công dân Pháp sang Việt Nam du lịch bị tai nạn giao thông tại Việt Nam.
Một sản phẩm sữa của Trung Quốc có bán trên thị trường nhiều nước trong đó có
Việt Nam bị phát hiện có chứa melamine gây nguy cơ mắc bệnh sạn thận cho trẻ
em, một vài trường hợp đã tử vong.
1.2.Khái niệm xung đột pháp luật trong quan hệ về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng:
“Xung đột pháp luật là hiện tượng có hai hay nhiềuhệ thống pháp luật cùng điều

chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế cụ thể,do có sự khác nhau giữa pháp luật của
các quốc gia hoặc do tính chất đặc thù của chính đối tượng điều chỉnh của tư pháp
quốc tế”
Như vậy, xung đột pháp luật trong quan hệ về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng
được hiểu “là một tình huống có liên quan đến hệ thống pháp luật của hai hay
nhiều quốc gia, những hệ thống pháp luật này đều có thể được áp dụng để giải
quyết vụ việc”

2


Nguyên nhân xung đột pháp luật về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có yếu tố
nước ngoài thì thường có hai nguyên nhân dẫn đến xung đột pháp luật: Thứ nhất,
đó là việc pháp luật của mỗi quốc gia có những quy định không giống nhau
về,trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Thứ hai, các quan hệ BTTH ngoài hợp
đồng có sự tham gia của “yếu tố nước ngoài”. Đây là hai nguyên nhân chủ yếu đã
làm xung đột pháp luật về BTTHN nảy sinh.
2. Nguồn luật điều chỉnh quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu
tố nước ngoài:
2.1. Pháp luật trong nước:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo hệ
thống pháp luật Việt Nam được quy định trong Bộ Luật Dân sự Việt Nam (Điều
773), Nghị định số 138 – CP ngày 15.12.2005 của Chính phủ và các văn bản quy
phạm pháp luật khác có liên quan.
2.2. Điều ước quốc tế:
- Trong các hiệp định tương trợ Tư pháp: Việt Nam đã kí kết Hiệp định tương trợ
Tư pháp với khoảng 15 nước. Các Hiệp định cơ bản đều có điều khoản quy định về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Cụ thể Hiệp
định với Liên Xô ( cũ ) tại Điều 33, với Tiệp Khắc tại Điều 33, với Hunggari tại
Điều 30, với Bungari tại Điều 31, với Ba Lan tại Điều 38, với Lào tại Điều 23, với

Liên Bang Nga tại điều 37, với ucraina tại Điều 33, với Mông Cổ tại Điều 41và với
Bêlarút tại Điều 39. Còn lại ba Hiệp định là Hiệp định với Cuba, Hiệp định với
Trung Quốc và Hiệp định với Cộng Hoà Pháp không có điều khoản quy định về
vấn đề này.
Nội dung của điều khoản quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng có yếu tố nước ngoài trong các Hiệp định kể trên tương đối thống nhất. Ví dụ,
Điều 37 Hiệp định tương trợ tư pháp với Liên Bang Nga năm 1998 quy
định:“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (do hành vi vi phạm pháp
luật) được xác định theo pháp luật của Bên ký kết nơi xảy ra hoàn cảnh làm căn
cứ để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nếu nguyên đơn và bị đơn đều là công dân của
một Bên ký kết hoặc đều được thành lập hoặc có trụ sở ở một Bên ký kết, thì áp
dụng pháp của Bên kí kết đó ”.
Các Hiệp định tương trợ tư pháp với Mông Cổ (Điều 41) với Bungari (Điều 31)
với Ba Lan (Điều 38), với Bêlarút (Điều 39) cũng nội dung tương tự như trên.

3


Riêng Hiệp định tương trợ tư pháp với Hunggari (Điều 30) thì quy định: “ Về
trách nhiệm do gây thiệt hại, sẽ áp dụng pháp luật của nước kí kết nơi đã xảy ra
hành vi gây thiệt hại. Tuy nhiên, nếu các đương sự thường trú trên lãnh thổ nước
kí kết kia thì áp dụng pháp luật của nuớc ký kết kia”. Điều 23 Hiệp định tương trợ
tư pháp với Lào cũng có nội dung tương tự như vậy.
Qua các quy định trên cho thấy, trong việc điều chỉnh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước
thường áp dụng hệ thuộc luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti
Commissi) hoặc Luật nhân thân (Lex Personalis) trong đó hoặc áp dụng luật quốc
tịch (Lex Nationalis ) hoặc áp dụng luật nơi cư trú (Lex Domicilli).
-Trong các điều ước quốc tế đa phương: Một số điều ước quốc tế đáng chú ý đã
được xây dựng như:

 Công ước Lahaye ngày 2/10/1973 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
sản phẩm gây ra. Công ước quy định rõ cơ chế bồi thường thiệt hại nếu sản
phẩm, hàng hóa gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì trách nhiệm thuộc về
nhà sản xuất. Tuy nhiên, công ước cũng đưa ra nhiều nguyên tắc chọn luật
phức tạp, những nguyên tắc này chỉ được áp dụng với những điều kiện nhất
định. Ví dụ Công ước quy định : Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do sản phẩm gây ra, có thể áp dụng một trong các hệ thống pháp luật
sau :
Luật nơi thường trú của nạn nhân nếu đây cũng là nơi có cơ sở chính của
nhà sản xuất hoặc là nơi mua sản phẩm (điều 5)
Luật nơi xảy ra thiệt hại nếu đây cũng đồng thời là nơi có trụ sở chính của
nhà sản xuất hoặc là nơi mua sản phẩm (điều 4).
Nguyên đơn có quyền lựa chọn luật áp dụng là luật xảy ra thiệt hại hoặc nơi
có cơ sở chính của nhà sản xuất (điều 6).
 Công ước về tai nạn giao thông đường bộ ngày 4/5/1971. Nội dung công
ước đề cập đến việc chọn luật áp dụng giải quyết trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do các phương tiện giao thông gây ra, theo đó luật áp dụng là luật
nơi xảy ra tai nạn, hoặc luật nơi đăng ký phương tiện giao thông.

4


II,GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo hệ
thống pháp luật Việt Nam được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật
hàng hải 2005, Nghị định 138/CP ngày 15/12/2005 quy định chi tiết thi hành các
quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, Luật hàng
không dân dụng Việt Nam năm 2006,..

Vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định tại Điều
773 Bộ luật dân sự. Cụ thể, việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định
theo pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả
thực tế của hành vi gây thiệt hại.
Như vậy, pháp luật Việt Nam cho phép lựa chọn một trong hai hệ thuộc luật để giải
quyết vụ việc về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là giải quyết theo
luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc giải quyết theo luật nơi phát sinh hậu quả
thực tế của hành vi gây thiệt hại.
Bên cạnh việc áp dụng pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật
(Lex loci delicti commisi), pháp luật Việt Nam quy định áp dụng hệ thuộc luật
quốc tịch của các bên đương sự tức bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại và hệ thuộc
luật quốc tịch của phương tiện. Cụ thể: Điều 773 khoản 3: Trong trường hợp hành
vi gây thiệt hại xảy ra ở ngoài lãnh thổ của Việt Nam mà người gây thiệt hại và
người bị thiệt hại đều là công dân hoặc pháp nhân Việt Nam, thì áp dụng pháp luật
Việt Nam (Lex Nationalis). Việc bồi thường thiệt hại do tàu bay, tàu biển gây ra ở
không phận quốc tế hoặc biển cả được xác định theo pháp luật của nước mà tàu
bay, tàu biển mang quốc tịch (lex banderae), trừ trường hợp pháp luật về hàng hải,
pháp luật về hàng không của Việt Nam có quy định khác ( Điều 773 khoản 2 ).
Như vậy, trong việc điều chỉnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
Luật Tư pháp quốc tế Việt Nam áp dụng pháp luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại
hoặc theo pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt
hại và áp dụng pháp luật quốc tịch của các đương sự.
Sau đây em xin được làm rõ thêm về nội dung, cách thức áp dụng các hệ thuộc luật
trên để giải quyết các xung đột pháp luật về btth ngoài hợp đồng:
1.

Áp dụng hệ thuộc luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại:

5



Luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại được áp dụng trong pham vi rất rộng.
Điều 17 của Nghị định 138/NĐ – CP quy định chi tiết thi hành các quy định của
Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài quy định: “Việc áp dụng
pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tuân theo quy định tại Điều 773
của Bộ luật dân sự.
Trong trường hợp áp dụng pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì tuân theo các quy định tại Chương XXI Phần
thứ ba của Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan”.
Theo đó, trong một vụ việc về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao
gồm cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài thì
tòa án áp dụng luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại để xác định các vấn đề sau:

Thứ nhất, xác định thế nào là sự kiện hay hành vi gây thiệt hại? Hành vi gây
thiệt hại trong trường hợp này phải là hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp
luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc
không hành động trái với các quy định của pháp luật.
Trên thực tế có hành vi ở quốc gia này được coi là hợp pháp(không vi phạm pháp
luật), nhưng ở quốc gia khác lại được coi là hành vi bất hợp pháp( ví dụ việc đưa
các thông tin về đời tư của cá nhân ở mỗi nước khác nhau cho phép trong một giới
hạn khác nhau). Như vây, cần dựa vào thống pháp luật hành vi gây thiệt hại trên
thực tế mới có căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thiệt hại xảy ra bao gồm thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần.
Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm; thiệt hại do sức
khỏe bị xâm phạm; thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm; thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm
phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn
phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị

hiểu nhầm... và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ
phải chịu. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác
không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị
xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin... vì bị hiểu
nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải
chịu.
6



Thứ hai, vấn đề xác định tính chất mức độ của hành vi, xác định lỗi của các
bên: lỗi cố ý hay vô ý, lỗi do người bị thiệt hại gây ra hay do bên thứ ba, lỗi nặng
hay lỗi nhẹ,..
Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì ta phải xem xét
đến mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật. Thiệt hại
xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái
pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
Ngoài ra việc xem xét đến yếu tố lỗi là cần thiết, người gây thiệt hại phải chịu
trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về hình thức lỗi là thái độ tâm lý của
người có hành vi gây thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố ý hay vô ý: Cố ý
gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt
hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn,
nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra; Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy
trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt
hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại,
nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Con người phải chịu
trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của
mình. Bởi vậy, những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được

hành vi của mình sẽ không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó.

Thứ ba, xác định nguyên tắc, cách thức bồi thường thiệt hại; các loại trách
nhiệm bồi thường thiệt hại như trách nhiệm bồi thường do phương tiện giao thông,
hoặc do sản phẩm hàng hóa gây ra…

Thứ tư, cách thức khởi kiện với bên gây thiệt hại hoặc đối với các công ty
bảo hiểm, thời hiệu khởi kiện,..
Nói chung, để giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng đều có thể căn cứ vào nơi xảy ra hành vi hoặc sự kiện gây
thiệt hại tùy từng trước hợp cụ thể.
Tuy nhiên, có một số điểm cần chú ý, áp dụng luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại
là áp dụng luật nội dung của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại, không áp dụng
các quy phạm xung đột của tư pháp quốc tế, nói cách khác trong lĩnh vực này cũng
không chấp nhận hiện tượng dẫn chiếu ngược. Điều này là hoàn toàn hợp lý vì mục
đích của việc xây dựng quy phạm xung đột điều chỉnh các quan hệ trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng là nhằm giải quyết trực tiếp vấn đề, tạo điều kiện
7


thuận lợi cho tòa án giải quyết vụ việc đồng thời cũng đảm bảo được lợi ích của
các bê, vì nhìn chung đây cũng là hệ thống luật có quan hệ gần nhất đối với vụ
việc. Giả thiết rằng nếu thừa nhận dẫn chiếu ngược thì mục đích của quy phạm
không đạt được, gây khó khăn trong việc giải quyết và không đảm bảo được lợi ích
của người bị thiệt hại.
Một nguyên tắc cơ bản đã được ghi nhận trong pháp luật các nước “người
nào gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra”,
nhằm khắc phục những thiệt hại cho người bị thiệt hại. Việc áp dụng luật nơi xảy
ra hành vi gây thiệt hại để giải quyết các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng có những ý nghĩa nhất định:


Thứ nhất, nguyên tắc lex loci delicti thể hiện tính khách quan, trong trường
hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại không cùng quốc tịch hoặc nơi cư trú thì
áp dụng nguyên tắc này phù hơp. Về mặt thực tiễn, nơi xảy ra thiệt hại cũng là nơi
có mối quan hệ gần gũi nhất đối với quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, là quy phạm thể hiện bản chất của quan hệ.

Thứ hai, áp dụng luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại cũng có nghĩa là tôn
trọng pháp luật quốc gia nơi có hành vi gây thiệt hại cho các bên. Xét về tính chất
loại vụ việc, hành vi gây thiệt hại cũng có thể là hành vi vi phạm pháp luật quốc
gia, ảnh hưởng đến lợi ích công, lợi ích xã hội nên cần phải được xem xét, giải
quyết theo hệ thống luật này để đánh giá tính chất, mức độ…của hành vi gây thiệt
hại đó.

Thứ ba, do ưu điểm nổi bật của nguyên tắc này là đơn giản, dễ áp dụng, chắc
chắn và có thể dự tính trước được, trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết của tòa án giúp tòa
án có thể dễ dàng hơn trong việc điều tra, thu thập chứng cứ, xác minh về thiệt
hại…đồng thời đảm bảo khắc phục được lợi ích cả bên bị thiệt hại một cách nhanh
và hiệu quả nhất.
Bên cạnh nhưng ưu điểm của việc áp dụng hệ thuộc luật nơi xảy ra hành vi gây
thiệt hại trong việc giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng có yếu tố nước ngoài thì việc áp dụng cũng có những khó khăn, vướng mắc
và hạn chế nhất định đó là trong một số vụ việc, có thể dễ dàng xác định nơi xảy ra
hành vi, sự kiện thiệt gây thiệt hại như nơi xảy ra tai nạn, nơi sản xuất các sản
phẩm hàng hóa không tuân thủ quy định an toàn, nơi xảy ra hành vi ô nhiễm môi
trường…Tuy nhiên, vấn đề sẽ trở nên phức tạp khi nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại
trong các tình huống trên xảy ra ở nhiều nước khác nhau, hoặc xảy ra ở vùng lãnh
thổ quốc tế( sản phẩm hàng hóa được bán ở nhiều nước, sự ô nhiễm môi trường
làm ảnh hưởng đến nhiều quốc gia nhiều người tiêu dùng bị nhiễm độc, tai nạn

hàng không, đâm va tàu biển tại vùng không phận, hải phận quốc tế…). Trong

8


trường hợp này, hành vi gây thiệt hại xảy ra ở một nước nhưng hậu quả thực tế xảy
ra ở nhiều nước khác nhau, hoặc không thuộc lãnh thổ quốc gia nào cả. Điều này
gây ra rất nhiều khó khăn cho Tòa án trong việc xác định nơi xảy ra hành vi gây
thiệt hại.
2.
Áp dụng hệ thuộc luật nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây
thiệt hại:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi có đủ các yếu tố là:
có trái pháp luật, có thiệt hại thực tế xảy ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái
pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại.
Tuy nhiên trên thực tế một số trường hợp việc xác định được đầy đủ các yếu tố này
là khó khăn do có thể hành vi gây thiệt hại xảy ra ở một quốc gia nhưng hậu quả lại
phát sinh ở một quốc gia khác hoặc hành vi gây thiệt hại xảy ra ở nhiều nơi, nhiều
quốc gia và trong những trường hợp như vậy việc xác định nơi phát sinh hậu quả
thực tế của hành vi gây thiệt hại là dễ dàng hơn thì Tòa án sẽ lựa chọn luật nơi đó
để giải quyết.
Thế nào là nơi phát sinh hậu quả thực tế? Ta có thể hiểu đó là nơi xảy ra các thiệt
hại( thiệt hại vật chất hoặc thiệt hại tinh thần) và thiệt hại đó là kết quả của hành vi
trái pháp luật, ví dụ như: Ông A sang Trung Quốc du lịch bị chó của một người dân
bản địa cắn sau khi về nước ông A bị dại và tử vong. Trong trường hợp này nơi
phát sinh hậu quả là nhà của ông A ở Việt Nam.
Việc lựa chọn luật nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại có những
ưu điểm nhất định đó là:

Đây là nguyên tắc đơn giản, dễ áp dụng, chắc chắn và có thể dự tính trước

được, trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tạo
điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết của tòa án giúp tòa án có thể dễ dàng hơn
trong việc điều tra, thu thập chứng cứ, xác minh về thiệt hại

Trong trường hợp khó xác định được nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc
hành vi gây thiệt hại xảy ra ở nhiều nơi, nhiều quốc gia khác nhau thì nơi phát sinh
hậu quả chính là căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng một cách dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, cũng giống như nguyên tắc nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại, nguyên tắc
nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt trong nhiều trường hợp cũng có
những hạn chế nhất định như trường hợp nơi phát sinh hậu quả thực tế ở các nước
khác nhau, đây là trường hợp tương đối phức tạp trong lĩnh vực xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật,
sự phát triển của thương mại quốc tế, của các quốc gia ngày càng làm phát sinh
9


nhiều tranh chấp trong lĩnh vực trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Ví dụ như các thiệt hại do sử dụng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của nước ngoài
gây ra trên lãnh thổ các quôc gia khác ; các phương tiện thông tin đại chúng đăng
tải các thông tin gây ảnh hưởng danh dự, uy tín của công dân, pháp nhân nước
khác; Hay các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Tư pháp quốc tế cũng đưa ra nhiều giải pháp cho vấn đề này nhưng chưa có
nguyên tắc chung để giải quyết. Hiện pháp luật Việt Nam cũng chưa có quy định
về vấn đề này.
3.Áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch của phương tiện:
Việc bồi thường thiệt hại do tàu bay tàu biển gây ra ở không phận quốc tế
hoặc biển cả được xác định theo pháp luật của nước mà tàu bay, tàu biển mang
quốc tịch( lex banderae), trừ trường hợp pháp luật về hàng hải, pháp luật về hàng
không của Việt Nam có quy định khác ( Điều 773 khoản 2 BLDS).

Theo quy định trên, thì việc bồi thường thiệt hại do tàu bay tàu biển gây ra ở không
phận quốc tế hoặc biển cả được xác định theo pháp luật của nước mà tàu bay, tàu
biển mang quốc tịch.trừ trường hợp pháp luật về hàng hải, pháp luật về hàng không
của Việt Nam có quy định khác . hiện nay việc xác định luật áp dụng theo phấp
luật hàng hải Viêt nam được quy định tai Điều 5 Bộ luật hàng hải Việt Nam năm
2003, theo đó việc bồi thuờng thiệt hại ngoài hop đồng của tàu biển tại biển cả thì
pháp luật được áp dụng là luật quốc gia mà tàu mang cờ. còn trong luật hang không
dân dụng Việt Nam, BTTHNHĐ tại không phận quốc tế đưỡc xác định theo theo
Điều 4 như sau:
“Điều 4. Nguyên tắc áp dụng pháp luật khi có xung đột pháp luật
1.

Pháp luật của quốc gia đăng ký quốc tịch tàu bay được áp dụng đối với

quan hệ xã hội phát sinh trong tàu bay đang bay và áp dụng để xác định các quyền
đối với tàu bay.
2.

Pháp luật của quốc gia nơi ký kết hợp đồng liên quan đến các quyền đối với

tàu bay được áp dụng để xác định hình thức của hợp đồng.
10


3.

Pháp luật của quốc gia nơi thực hiện việc cứu hộ hoặc giữ gìn tàu bay được

áp dụng đối với việc trả tiền công cứu hộ hoặc giữ gìn tàu bay đó.
4.


Pháp luật của quốc gia nơi xảy ra tai nạn do tàu bay va chạm hoặc gây cản

trở nhau, do tàu bay đang bay gây thiệt hại cho người thứ ba ở mặt đất được áp
dụng đối với việc bồi thường thiệt hại.”.
4, Ap dụng hệ thuộc luật quốc tịch của đương sự:
Trong truờng hợp hành vi gây thiêt hại xảy ra ở ngoài lãnh thổ của Việ Nam
mà người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều là công dân hoặc pháp nhân Việt
Nam, thì áp dụng pháp luật Việt Nam – lex nationalis ( Điều 773 khỏan 3 BLDS).
Ví dụ: anh C và Anh D là người Việt nam đangư trú tại Mỹ. giữa họ xảy ra mâu
thuẫn, anh C đã làm anh D bị thương tật trên 60%. Căn cứ theo ĐIều 773 khỏan 3
BLDS thì việc BTTHNHĐ sẽ được xác định theo Pháp luật Việt Nam. Nếu trường
hợp hành vi gây hại xảy ra ở ngoài lãnh thổ aviệt Nam mà cả hai bên gây thiệt hại
và bị thiệt hại đều là pháp nhân Việt nam thì việc BTTHNHĐ cũng được xác địh
theo pháp luật Việt Nam.
5.Nhận xét:
III, MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT
VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC
NGOÀI:
- Cần xây dựng quy phạm thực chất thống nhất giữa Việt Nam với nhiều các
quốc gia trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương để điều
chỉnh vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.Trong trương hợp chưa thể
xây dựng được quy phạm thực chất thống nhất để trực tiếp điều chỉnh các
quan hệ này thì phải xây dựng các quy phạm xung đột thống nhất để điều
chỉnh.

11



- Thúc đẩy việc ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp có quy định về chế
định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với các quốc gia đã thiết lập quan
hệ ngoại giao với Việt Nam.
- Tại khoản 1 Điều 773 BLDS 2005 không nêu lên thứ tự ưu tiên áp dụng hệ
thuộc luật nào nên có thể lựa chọn pháp luật của nước này hoặc nước kia là
do ý muốn chủ quan của cơ quan Tư pháp. Do vậy, định hướng sửa đổi về
vấn đề này là thống nhất áp dụng pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây
thiệt hại. Còn việc áp dụng pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả thực
tế của hành vi gây hại chỉ đặt ra khi không xác định được nơi xảy ra hành vi
gây thiệt hại.
- Khoản 2 Điều 773 BLDS 2005 không có tính khả thi trong trường hợp việc
bồi thường thiệt hại do tàu bay, tàu biển gây ra mà các tàu bay, tàu biển
mang các quốc tịch khác nhau va chạm nhau gây thiệt hại thì không xác
định được pháp luật áp dụng trong trường hợp này…Do đó theo em, pháp
luật cần đặt ra vấn đề sửa đổi bổ sung quy địnhcủa pháp luật về vấn đề
BTTHNHĐ hoàn chỉnh và thực tế hơn nữa để việc áp dụng đạt kết quả tốt
nhất.
- Khoản 3 Điều 773 BLDS 2005 quy định: “Trong truờng hợp hành vi gây thiêt
hại xảy ra ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà
người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều là công dân hoặc pháp nhân Việt
Nam, thì áp dụng pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, điều luật
này có nhắc đến thuật ngữ “pháp nhân Việt Nam”, mặc dù chế định về pháp
nhân được quy định khá đầy đủ trong BLDS nhưng căn cứ để xác định quốc
tịch của pháp nhân lại chưa được quy định. Do đó, cần phải quy định về căn
cứ xác định quốc tịch pháp nhân theo nơi có trụ sở, nơi thành lập hay nơi
hoạt động chính làm căn cứ pháp lý để giải quyết vụ việc một cách thống
nhất.
KẾT LUẬN
Tóm lại, về cơ bản pháp luật Việt Nam đã quy định khá đầy đủ về vấn đề
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, tạo cơ sở tương đối vững

chắc để giải quyết các vụ việc xảy ra trong thực tế. Tuy nhiên, sự xung đột pháp
luật xảy ra trong lĩnh vực này xảy ra như một tất yếu khách quan, do vậy chỉ riêng
pháp luật quốc gia quy định là chưa đủ mà chúng ta ngày càng phải hợp tác sâu
rộng hơn với quốc tế bằng cách ngoài việc tiếp tục kí kết các HĐTTTP với các

12


quốc gia khác thì chúng ta cũng nên tham gia kí kết các ĐƯQT đa phương toàn
cầu, chỉ có như vậy pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng trong TPQT Việt Nam nói
riêng mới ngày càng hoàn thiện được.

13



×