Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.16 KB, 21 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong trường Tiểu học, môn Tiếng Việt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với học sinh bởi nó là môn học cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết
trong giao tiếp hàng ngày. Đó là môn học góp phần hình thành và phát triển ở
học sinh 4 kỹ năng: nghe – nói – đọc – viết. Nó giúp các em phát triển toàn diện,
hình thành ở các em những cơ sở của thế giới khoa học, góp phần rèn luyện trí
thông minh, hình thành tình cảm, thói quen đạo đức tốt đẹp của con người
mới.Với mục tiêu rèn học sinh ở cả bốn kỹ năng nghe, đọc, nói, viết trong đó
kĩ năng viết “một đoạn văn ngắn" là yêu cầu cơ bản khá trọng tâm ở phân
môn Tập làm văn lớp 2, là nền tảng để các em học lên các lớp trên.
Nhưng trong thực tiễn ta lại nhận thấy việc dạy tập làm văn dạng bài viết một
đoạn văn ngắn ở lớp 2 như sau:
- Về phía giáo viên: Nhiều giáo viên năng lực viết văn còn hạn chế,
phương pháp hình thức dạy học môn Tập làm văn nói chung, dạy dạng bài viết
đoạn văn ngắn còn đơn điệu, rập khuôn thậm chí tiết dạy khô cứng, nhàm chán
chưa tạo được hứng thú cho học sinh.
- Về phía học sinh: Đối với học sinh lớp 2 thì đây là một phân môn khó.
Bởi ở lứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp, việc diễn đạt
ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức khá chậm, học sinh nghèo vốn từ ngữ,…
Do đó một bộ phận không nhỏ học sinh viết đoạn văn ngắn chưa đạt yêu cầu.
Mục tiêu giáo dục xã hội đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết cần phải giải
quyết đó là định hướng đổi mới phương pháp dạy học Tập làm văn dạng bài viết
đoạn văn ngắn hiện nay để nâng cao chất lượng học sinh viết đoạn văn ngắn,
làm nền tảng cho các lớp sau.
Nhiều năm giảng dạy học sinh lớp 2 tại trường TH Điền Trung 1 tôi thấy
các giáo viên trong khối nói riêng, giáo viên trong tổ và nhà trường nói chung
vẫn chưa tìm ra giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn
cho học sinh.
Để nâng cao chất lượng giảng dạy Tập làm văn, nhằm tháo gỡ những khó
khăn của thầy và trò khi dạy và học mảng kiến thức về viết đoạn văn ngắn. Với


mong muốn nâng cao hiệu quả giờ dạy và trao đổi những kinh nghiệm trong
việc dạy Tiếng Việt ở Tiểu học đặc biệt là phân môn Tập làm văn, tôi mạnh dạn
chọn đề tài nghiên cứu “ Biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn cho học
sinh lớp 2B - Trường TH Điền Trung I.”
Để hoàn thành SKKN này tôi đã áp dụng những kinh nghiệm tích luỹ

1


được trên chính đối tượng học sinh lớp mình phụ trách – lớp 2B trường Tiểu học
Điền Trung I. Tổng số học sinh: 24 em.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm ra các giải pháp
- Giúp học sinh lớp 2B Trường TH Điền Trung I có kỹ năng viết đoạn văn
ngắn hay, sinh động và sáng tạo.
- Giúp giáo viên khối 2 có một số kiến thức và kinh nghiệm khi hướng dẫn
học sinh viết đoạn văn ngắn.
- Giúp bản thân tự học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu: Biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn
giúp các em học sinh lớp 2 học tốt Tập làm văn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Đọc các tài liệu sách giáo khoa, sách giáo viên Tiếng Việt 2; sách Giúp
em học tốt Tập làm văn 2; Những bài văn mẫu lớp 2; tạp chí giáo dục có liên
quan đến nội dung đề tài.
- Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung viết đoạn văn ngắn.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập các thông tin, thống kê số liệu
và xử lý số liệu.
- Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.

- Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của đề
tài.

PHẦN 2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận:
Như chúng ta đã biết, ở lớp 1 học sinh mới chỉ dừng lại ở mức độ tập nói
hoặc viết câu có nội dung theo chủ đề bài học hoặc tìm tiếng nói có âm vần vừa
học. Các em được ghép tiếng và nói những câu đơn giản, riêng lẻ có nội dung
gần gũi với cuộc sống của các em hoặc ở các bài tập đọc. Đến lớp 2 các em đã
phải viết đoạn văn từ 1 đến 3 câu rồi cao hơn từ 4 đến 5 câu kể về một sự việc
đơn giản mình được chứng kiến (tham gia) hoặc tả sơ lược về người, vật xung
quanh các em. Ở học kỳ I, chủ yếu các em được viết đoạn từ 3 đến 5 câu kể về
người thân như: Cô giáo, ông, bà, anh, chị, em và rộng hơn là toàn thể gia đình.
Song đến học kỳ II các em được viết đoạn tả con vật (chim ), tả cảnh (biển), tả
cây cối, tả người (ảnh Bác Hồ). Tuần 34 và 35 học sinh được kể về những việc
làm mà bản thân chứng kiến hoặc tham gia ….
Nội dung Tập làm văn lớp 2 có các dạng bài được thiết kế tổng cộng 31
2


tiết/năm. Cụ thể như sau:
- Các nghi thức lời nói tối thiểu (chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi, nhờ
cậy, yêu cầu, khẳng định, phủ định…); biết sử dụng chúng trong các tình huống
giao tiếp nơi công cộng, ở gia đình, trong trường  học.
        - Các kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày: khai bản tự thuật
ngắn, viết thư ngắn để nhắn tin, chia buồn hoặc chia vui…
- Nói viết về những vấn đề thuộc chủ điểm: kể một sự việc đơn giản; tả sơ
lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi.
* Trong nội dung nói, viết về vấn đề thuộc chủ điểm có các đoạn văn cụ thể
sau:

+ Nói về em hoặc trường em
+ Viết đoạn văn ngắn về gia đình em
+ Kể về người thân
+ Kể về anh chị em
+ Kể ngắn về con vật
+ Tả ngắn về bốn mùa
+ Tả ngắn về loài chim
+ Tả ngắn về biển
+ Tả ngắn về cây cối
+ Tả ngắn về Bác Hồ
+ Kể ngắn về người thân
Ta thấy lượng kiến thức nhiều so với học sinh lớp 2. Mỗi tiết được luyện tập
một nội dung khác nhau. Số lượng tiết viết đoạn văn ngắn chiếm nhiều tiết so
với tổng số tiết Tập làm văn lớp 2, đây là nền tảng để học sinh học các lớp học
trên. Vậy việc rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2 là rất quan
trọng.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Qua thực tế giảng dạy lớp 2, qua dự giờ thăm lớp, trao đổi, trò chuyện,
tâm sự, tham khảo ý kiến của bạn bè động nghiệp và đặc biệt là thông qua chấm
các bài kiểm tra của học sinh, tôi nhận thấy một số hạn chế trong việc dạy học
sinh lớp 2 trường Tiểu học Điền Trung I viết đoạn văn ngắn như sau:
2.2.1.Thực trạng của giáo viên:
Bên cạnh những đồng chí giáo viên đã tích cực, say sưa nghiên cứu sáng
tạo để tìm ra những biện pháp dạy học sinh khi viết đoạn văn sao cho hiệu quả
nhất thì còn một số giáo viên còn rất ngại, đôi khi "sợ" dạy tiết Tập làm văn với
tâm lí có dạy học sinh cũng không viết được. Cụ thể:
- Giáo viên chưa tạo được sự hứng thú cho học sinh khi dạy phân môn
3



Tập làm văn.
- Việc giúp học sinh vận dụng kiến thức Tiếng Việt vào dạy Tập làm văn
còn hạn chế.
- Một số giáo viên chưa thật sự chú ý đến việc dạy học sinh cách quan sát.
Tập làm văn là phân môn mang tính chất tổng hợp, sáng tạo, thực hành từ
các phân môn khác của Tiếng Việt. Đồng thời còn gắn bó mật thiết với tất cả các
môn học khác trong chương trình Tiểu học mà việc dạy viết đoạn văn ngắn cho
học sinh lớp 2 trường Tiểu học Điền Trung I giáo viên chưa đưa học sinh say mê
với văn học, chưa hình thành thói quen tích lũy những hiểu biết, vận dụng kiến
thức Tiếng Việt vào làm văn thì việc giảng dạy Tập làm văn nói chung và dạy
viết đoạn văn ngắn cho học sinh cho học sinh lớp 2 chưa đạt hiệu quả.
2.2.2.Thực trạng của học sinh:
2.2.2.1.Một số lỗi phổ biến:
Qua tìm hiểu thực tế việc học viết đoạn văn ngắn của học sinh lớp 2 trường
tiểu học Điền Trung I, nhiều học sinh ngại học văn, đặc biệt là làm bài tập về đặt
câu, viết đoạn văn và học phân môn Tập làm văn. Các em thường mắc phải một
số lỗi sau:
- Lỗi do chưa biết cách quan sát nên thường thì các em thấy cái gì thì
nghĩ đến cái đó theo kiểu liệt kê, chứ không biết chắt lọc các chi tiết quan sát
được.
- Lỗi do hạn chế vốn từ nên việc sử dụng từ còn lặp, vụng hoặc chưa đúng.
- Câu viết không có hình ảnh, chấm câu một cách tùy tiện.
- Sự sắp xếp tổ chức câu trong đoạn còn rời rạc, chưa có sự liên kết câu.
- Lỗi do chưa biết sử dụng biện pháp tu từ vào viết văn.
Từ những thực trạng trên cho thấy việc rèn cho học sinh viết được đoạn
văn đúng về nội dung, đảm bảo về hình thức cũng đã khó chưa kể đến việc cần
phải cho học sinh viết được đoạn văn có hình ảnh đẹp.
         2.2.2.2.Kết quả khảo sát thực trạng học sinh:
Trong năm học 2017– 2018, để kiểm nghiệm cách làm của mình, tôi tiến
hành thực nghiệm với lớp 2B và đối chứng kết quả với lớp 2A. Tôi đã tiến hành

kiểm tra chất lượng viết văn của hai lớp.
Thời điểm kiểm tra: Tuần 4 tháng 10 năm học 2017-2018 khi chưa áp
dụng sáng kiến.
Đề bài: Em hãy viết một đoạn văn khoảng 4, 5 câu nói về cô giáo( thầy
giáo) cũ của em.
Kết quả thu được như sau:
Bảng 1: Thống kê theo số lỗi của học sinh:
4


Các lỗi phổ biến

Lớp

Chưa biết
Tổng số
cách quan
học
sát
sinh
SL

2A
2B

24
24

TL


5
5

20.8
20.8

Hạn chế
vốn từ,
dùng từ
chưa
chính xác
SL TL
6
6

25.0
25.0

Chấm câu
tùy tiện

Chưa biết
sử dụng
các biện
pháp tu từ

Chưa liên
kết chặt
chẽ giữa
các câu


SL

TL

SL

TL

SL

TL

7
6

29.2
25.0

12
11

50.0
45.8

8
7

33.3
29.2


Bảng 2: Kết quả đánh giá chất lượng viết đoạn văn của hai lớp 2A và 2B
Lớp

Tổng số
HS

2A

24

2B

24

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

ơ

SL

TL

SL

TL


SL

TL

0

19

79.2%

5

20.8%

0

19

79.2%

5

20.8%

Từ thực trạng trên ta thấy chất lượng viết văn của học sinh chưa đạt kết
quả cao. Tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành kiến thức, kĩ năng còn rất cao. Đây
không phải là một bộ phận nhỏ. Vì vậy với số học sinh này, người dạy chúng ta
phải tìm ra nguyên nhân để khắc phục, tháo gỡ .
2.2.3. Nguyên nhân của thực trạng

Theo tôi có sáu nguyên nhân như sau:
*Học sinh dân tộc thiểu số nói tiếng phổ thông chưa chuẩn còn nhầm lẫn
giữa phương ngữ địa phương với tiếng phổ thông và xác định câu chưa đúng.
* Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
* Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả.
* Khi quan sát thì các em không được hướng dẫn về kĩ năng quan sát: quan
sát những gì, quan sát từ đâu ? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối
tượng cần miêu tả.
* Không biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu
tả khi quan sát.
* Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch
lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh
vật, về một con người cụ thể nào đó.
* Nguyên nhân cuối cùng là trách nhiệm của người giáo viên. Phân môn
5


Tập làm văn là một môn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay
người giáo viên (nhất là giáo viên dạy lớp 2) chưa có cách phát huy tối đa năng
lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em
lòng yêu quý Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng
đã là người Việt Nam thì phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu
điểm của tiếng mẹ đẻ.
2.3. Các biện pháp thực hiện:
+ Qua việc điều tra thực trạng và tìm hiểu nguyên nhân như trên, bước
vào năm học 2017- 2018, tôi bắt đầu áp dụng một số biện pháp mới bằng các
cách làm cụ thể của tôi như sau:
2.3.1. Biện pháp thứ nhất: Tạo ra môi trường, điều kiện động viên giúp
đỡ các em trong học tập:
- Ngay từ đầu năm học, tôi đã tìm hiểu hoàn cảnh và phân loại đối tượng học

sinh theo hoàn cảnh gia đình để giúp đỡ các em. Cụ thể:
+ Trong lớp có 3 em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Tôi đã chia lớp thành 3
tổ ( mỗi em có hoàn cảnh khó khăn trong 1 tổ) và phân công mỗi tổ giúp 1 bạn.
+ Phát động phong trào tặng bạn nghèo như: Trong tổ mỗi bạn tặng bạn một
đồ dùng học tập: sách, vở, bút, mực, thước kẻ… ( bạn nào có cái gì thì tặng bạn
cái đó)
- Để tạo môi trường thuận lợi cho học sinh trong quá trình học tập, tôi đã phối
hợp các tổ chức Đội, Hội,... trong nhà trường để phát động phong trào “Đôi bạn
cùng tiến”
- Ngoài ra tôi thường xuyên quan tâm, chăm lo, mua sách vở cho 3 em học
sinh khó khăn, không để các em thiếu bất kì đồ dùng học tâp nào. Ngày tết, tôi
lại mua quà tết cho các em.
Từ những việc làm thiết thực trên thì 3 em có hoàn cảnh khó khăn đã có một
môi trường, một điều kiện học tập tốt, giúp các em tự tin bước tới trường cùng
các bạn trong lớp.
2.3.2. Biện pháp thứ hai: Tạo hứng thú cho học sinh khi học và viết văn
Hứng thú là một thuộc tính tâm lí mang tính đặc thù cá nhân. Đối tượng
của hứng thú chỉ là những cái cần thiết, có giá trị, có sức hấp dẫn với cá nhân.
Vậy vấn đề gì thu hút sự quan tâm, chú ý tìm hiểu của các em? Trả lời được câu
hỏi này nghĩa là người giáo viên đã sống cùng với đời sống tinh thần của các
em, biến đổi những nhiệm vụ học tập khô khan phù hợp với những mong muốn,
nhu cầu, sở thích, nguyện vọng (tích cực, chính đáng) của học sinh.
Để tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình giảng dạy tôi đã thực hiện các
việc làm cụ thể sau:
Việc làm thứ nhất: Xuất bản bài viết của các em.
6


Một thủ thuật tôi đã áp dụng để gây hứng thú cho học sinh đó là "xuất bản"
bài viết của các em. Sẽ là tuyệt vời nếu bài viết được đăng trên các tờ báo tường,

hay nêu gương trước cờ, điều đó kích thích các em thể hiện khả năng của mình.
Để làm việc này tôi đã chọn giới thiệu những bài viết hay của các bạn nhỏ trên
các báo Nhi đồng, Thiếu niên Tiền phong... khuyến khích học sinh đọc và phân
tích cái hay trong những bài viết, bài thơ đó. Giúp học sinh đặt câu hỏi tại sao
các bạn viết được? Mình viết có được không? Nếu có bài được đăng, em sẽ cảm
thấy thế nào? Muốn viết bài được đăng, chúng ta phải làm gì?... Trong trường
hợp khác, khi bài viết của các em chưa đủ tốt để đăng trên báo tường, tôi cho lưu
lại trên góc học tập của lớp ... Với mỗi bài được đăng cộng với nhận xét tích cực
từ giáo viên, sẽ là nguồn động lực cực lớn tạo ra hứng thú cho các em. Bằng
cách làm này, hầu hết các em trong lớp đều háo hức, mong muốn mình cũng có
bài được đăng giống như bạn.
Việc làm thứ hai: Đưa học sinh đến với các tác phẩm văn học
Đưa học sinh đến với các tác phẩm văn học là nhiệm vụ đầu tiên trong các
giải pháp rèn kỹ năng viết văn cho học sinh. Tâm lí học sinh Tiểu học nói chung
các em chỉ thích đọc các câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết và thích
khám phá những điều mới lạ, đặc biệt là các em lớp 2 chỉ thích đọc những câu
chuyện tranh, Đô-rê- mon, …không thích đọc những bài văn có nội dung miêu
tả đơn thuần. Để tạo hứng thú cho học sinh tôi đã nhẹ nhàng đưa các em đến với
tác phẩm văn học bằng cách:
* - Trong phần dặn dò học sinh chuẩn bị cho tiết học “Kể ngắn về con vật”
tôi cho học sinh thi kể tên các con vật mà em biết. HS sẽ xung phong kể rất
hăng say.
- Sau khi học sinh kể tôi khen ngợi và dặn học sinh về sưu tầm những tác
phẩm văn học có nội dung miêu tả các con vật mà em thấy hay và thích nhất để
đọc trước lớp vào tiết học sau. Bạn nào sưu tầm được tác phẩm hay và chỉ rõ
được cái hay trong cách viết của tác giả sẽ được tuyên dương trước lớp.
* - Hay trong phần dặn dò học sinh chuẩn bị cho tiết học “Tả ngắn về cây
cối”, tôi cho học sinh thi kể tên các loại cây mà em đã biết.( Ngay lập tức học
sinh sẽ xung phong kể rất hăng say và quên những mệt nhọc căng thẳng của tiết
học trước).

- Sau khi học sinh kể tôi khen ngợi và dặn học sinh về sưu tầm những tác
phẩm văn học có nội dung miêu tả các loại cây (cây ăn quả, cây bóng mát, cây
hoa…) mà em thấy hay và thích nhất để đọc trước lớp vào tiết học sau. Bạn nào
sưu tầm được tác phẩm hay và chỉ rõ được cái hay trong cách viết của tác giả
cũng được tuyên dương trước lớp.
7


Với cách làm trên, từ chỗ học sinh không thích đọc các bài văn miêu tả đơn
thuần, tôi đã tạo cho 24/24 em sự hứng thú và tích cực tìm tòi để đọc và đem đến
lớp các tác phẩm văn học có nội dung miêu tả con vật hay tả cây cối…
Việc làm thứ ba: Tạo hứng thú cho học sinh khi tiếp xúc với tác phẩm
văn học.
Sau khi đã tạo được hứng thú cho học sinh bằng cách đưa học sinh đến với
các tác phẩm văn học. Việc làm tiếp theo của tôi là phải tạo được hứng thú cho
học sinh khi tiếp xúc với các tác phẩm văn học, qua đó hình thành và rèn luyện
các kỹ năng viết văn cho học sinh.
Để học sinh có lòng yêu thích văn học và có hứng thú khi viết văn, khi dạy
Tập đọc tôi đã làm như sau:
+ Ví dụ: Khi dạy bài Tập đọc: “Tôm Càng và Cá Con” Tiếng Việt 2 - tập 2
Sau khi tìm hiểu bài tôi yêu cầu học sinh tìm những từ ngữ, câu văn hay
đoạn văn tả con vật em cảm thấy hay trong bài. Các em đã đưa ra được các từ
ngữ hay câu văn mà các em cảm nhận được đó là hay và chỉ ra được cái hay
trong câu văn đó như: “Con vật thân dẹt, trên đầu có đôi mắt tròn xoe, toàn
thân phủ một lớp vẩy bạc óng ánh”.
+ Hay khi dạy bài Tập đọc “ Cây đa quê hương ” Tiếng Việt 2- Tập 2:
Sau khi tìm hiểu bài tôi yêu cầu học sinh tìm những từ ngữ, câu văn tả cây
đa mà em cảm thấy hay trong bài. Ngay lập tức các em đã đưa ra được các từ
ngữ hay câu văn, đoạn văn mà các em cảm nhận được đó là hay và chỉ ra được
cái hay trong câu đó như: “ Cành cây lớn hơn cột đình. Ngọn chót vót giữa

trời xanh. Rễ cây nổi trên mặt đất thành những hình thù quái lạ, như
những con rắn hổ mang giận giữ ”…
Đồng thời tôi khuyến khích các em học thuộc lòng những đoạn văn, những
đoạn thơ hay mà các em yêu thích, kiểm tra những đoạn mà học sinh thích trong
giờ học sau. Những tiết sinh hoạt ngoại khóa, tôi tổ chức cho các em thi đọc
những bài văn, bài thơ mà các em sưu tầm được ngoài sách giáo khoa, giới thiệu
về cảnh đẹp ở địa phương để trau dồi cảm xúc cho các em.
Với cách làm như vậy, từ chỗ học sinh không thích tiếp xúc với các tác
phẩm văn học có nội dung miêu tả đơn giản, tôi đã giúp được 24/24 em sự hứng
thú và tích cực tìm tòi, khám phá cái hay trong mỗi tác phẩm văn học có nội
dung miêu tả đơn giản.
2.3.3. Biện pháp thứ ba: Hình thành cho các em thói quen tích lũy
những hiểu biết về thế giới tự nhiên trong cuộc sống và trong văn học.
Như chúng ta biết, đặc điểm tâm lý học sinh Tiểu học, tư duy của các em

8


lại đang trong quá trình hình thành và phát triển, còn đang trong giai đoạn " tư
duy cụ thể". Để hình thành thói quen cho học sinh trong quá trình giảng dạy tôi
đã thực hiện các việc làm cụ thể sau:
Việc làm thứ nhất: Tạo cho học sinh có thói quen quan sát:
Kĩ năng quan sát rất cần cho học sinh khi viết văn. Quan sát trên lớp theo
gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị ở nhà. Giáo viên
cần khai thác kĩ tranh ảnh, tập trung quan sát các đặc điểm nổi bật của đối
tượng. Mục đích là giúp học sinh tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên cạnh đó
tôi đã hướng dẫn học sinh cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận một
cách có xúc cảm về sự vật đó.
Học sinh có thói quen quan sát những sự vật hiện tượng xung quanh để ghi
nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Vì qua thực tế đôi khi tôi cho các em một

bài tập tả về cảnh biển, có em bảo là con chưa bao giờ nhìn thấy biển. Quả đúng
như vậy, vì các em được sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên các em không nhìn
thấy biển là đúng. Bởi thế giáo viên cũng cần sưu tầm những ảnh về cảnh biển
để có thể cho các em xem, cho các em quan sát về cảnh biển, … hoặc vào dịp
nghỉ hè các em hay được bố mẹ cho đi tham quan tắm biển, nhân đó, giáo viên
có thể yêu cầu học sinh quan sát kỹ để có ý tưởng cho tập làm văn tả cảnh biển.
Ví dụ: * Quan sát tranh về cảnh biển, tôi hướng dẫn học sinh thực hiện
như sau:
- Quan sát chung cảnh biển: Bức tranh vẽ cảnh biển vào thời gian nào?( lúc
sáng sớm, lúc bình minh)
- Quan sát cảnh từ gần: Sóng biển như thế nào? ( nhấp nhô)
- Rồi tới cảnh xa:
Trên mặt biển có những gì?( thuyền đánh cá, chim hải âu)
Trên bầu trời có những gì?(có đàn hải âu đang bay lượn, có đám mây)
- Có biển, thiên nhiên chúng ta như thế nào? ( tươi đẹp )
*. Khi hướng dẫn học sinh quan sát ảnh Bác Hồ, tôi hướng dẫn học sinh
như sau:
- Đầu tiên, em cần xác định vị trí treo ảnh Bác Hồ.
- Tiếp theo em quan sát gương mặt Bác Hồ trong ảnh, em biết được những
gì?( học sinh lần lượt nêu ý kiến của mình:
Chòm râu dài
Mái tóc bạc trắng
Vầng trán cao và rộng
Đôi mắt sáng ngời…)
- Ngắm nhìn ảnh Bác Hồ, em muốn hứa với Bác điều gì? ( chăm học, chăm
làm, cố gắng học giỏi, thực hiện tốt năm điều Bác Hồ dạy, phấn đấu trở thành
con ngoan, trò giỏi…)
*. Khi hướng dẫn học sinh quan sát con vật, tôi lại hướng dẫn học sinh
bằng cách sau:
9



- Đầu tiên, em cần chọn đối tượng quan sát ( đó là con gì?)
- Tiếp theo quan sát đặc điểm về hình dáng:
+ Hình dáng (to hay nhỏ), màu lông, mắt, cánh, đôi chân…
- Cuối cùng là quan sát một số hoạt động, thói quen
Với những thao tác mà tôi đã hướng dẫn học sinh quan sát ở trên, các em
dùng lời để nêu lên nhận xét những gì quan sát được, sắp xếp lựa chọn cách diễn
đạt để trả lời từng câu hỏi. Kết quả là 24/24 em đã biết cách quan sát và làm tốt
bài tập ở các tiết học này. Như vậy thực hiện tốt thao tác này là tôi đã góp phần
vào sự thành công của việc rèn kỹ năng quan sát cho học sinh.
Việc làm thứ hai: Hình thành cho các em thói quen tích lũy những hiểu
biết về thế giới tự nhiên trong cuộc sống và trong văn học.
Sau khi học sinh có kĩ năng quan sát, việc làm tiếp theo là hình thành cho
các em thói quen tích lũy những hiểu biết về thế giới tự nhiên trong cuộc sống
và trong văn học.
Như chúng ta biết, khi viết văn miêu tả kĩ năng quan sát, ghi chép là rất
cần thiết. Từ việc quan sát và ghi chép các em mới có vốn để làm văn miêu tả.
Nhưng trong thực tế các em ít quan sát, không có thói quen để ý các sự vật, sự
việc, hiện tượng quanh mình. Do đó trong giảng dạy tôi đã thực hiện như sau:
Ví dụ: Khi học tả ngắn về loài chim:
Sau tiết học, tôi dặn học sinh về quan sát một con vật mà mình thích và
ghi chép lại những gì mình đã quan sát được vào sổ tay, phát hiện ra những đặc
điểm tiêu biểu, cụ thể của con vật, sự vật, hiện tượng quanh mình và tiết học sau
tôi đã cho học sinh thi giới thiệu con vật mà các em đã quan sát được trước lớp.
Em nào quan sát tinh tế, dùng từ ngữ hay thì được tuyên dương trước lớp. ( học
sinh rất hăng say, không khí lớp học rất sôi nổi.)
Sau mỗi tiết học Tập đọc, tôi không những dặn học sinh ghi chép những
câu văn hay có nội dung miêu tả con vật vào sổ tay mà còn dặn học sinh tìm
thêm các câu văn hay có nội dung miêu tả con vật có trong tác phẩm văn học

ngoài chương trình học. Cuối tuần học, tôi đã cho các em đọc trước lớp những
câu văn, từ ngữ mình đã sưu tầm và ghi chép được. Sau khi học sinh nêu xong,
tôi đã tuyên dương các em và nhắc nhở các em thường xuyên làm việc này.
Như vây, bên cạnh việc cung cấp vốn sống thực tế thì tôi đã hướng dẫn các
em biết tích lũy vốn văn học cho mình. Không chỉ khi học văn miêu tả mà ngay
trong cuộc sống hàng ngày trước bất kì cảnh vật, hiện tượng nào mình gặp, các
em hãy để ý, quan sát và ghi chép lại những gì mình cảm thấy hay, thấy đẹp, hay
những câu văn giàu hình ảnh mà mình thấy tâm đắc …Qua đó, vốn sống của các
em sẽ phong phú hơn, viết văn sẽ tốt hơn.
10


Kết quả là 24/24 em đã thường xuyên tích lũy những hiểu biết về thế giới
tự nhiên trong cuộc sống và trong văn học và vốn từ của các em đã phong phú
hơn, dùng từ miêu tả đã chính xác hơn.
Việc làm thứ ba: Rèn kỹ năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật và vận
dụng kiến thức Tiếng Việt vào viết văn
Kiến thức Tập làm văn là kiến thức tổng hợp. Các phân môn Tập đọc,
Luyện từ và câu hỗ trợ rất nhiều cho việc viết văn của học sinh. Nếu các em
không biết vận dụng các kiến thức của phân môn khác thì các em không thể viết
được đoạn văn hay, đoạn văn giàu hình ảnh, cảm xúc. Để giúp các em biết vận
dụng kiến thức Tiếng Việt vào viết văn, tôi đã tiến hành một số việc làm sau:
Bước 1: Giúp học sinh vận dụng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm vào viết
văn.
Trong văn miêu tả thì vốn từ ngữ miêu tả rất quan trọng, tôi đã giúp học
sinh tích lũy được một số các từ ngữ như việc làm thứ hai đã trình bày. Việc
dùng từ ngữ giàu hình ảnh, gợi tả, gợi cảm vào viết văn sẽ giúp cho câu văn, bài
văn trở nên sinh động hơn, mượt mà hơn, và thu hút người đọc, người nghe hơn.
Để giúp học sinh vận dụng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm vào viết văn, tôi đã
hướng dẫn các em như sau:

Để chuẩn bị cho bài học mới, với đề bài viết về người thân thì tôi cho các
em về nhà tìm các từ ngữ chỉ màu sắc thích hợp để tả mái tóc (đen bóng, óng
mượt, bồng bềnh, loăn xoăn…) rồi đặt câu với từ em vừa tìm được có nội dung
miêu tả người thân. Từ tả làn da (đen sạm, trắng hồng, bánh mật, xanh xao, đỏ
đắn, ngăm đen…). Từ tả đôi mắt (đen láy), khuôn mặt (tròn trĩnh, hình trái xoan,
…), thân hình (mảnh khảnh, gầy gò, béo tròn, thon thả …) và đặt câu với từ em
vừa tìm được có nội dung miêu tả người thân. Bước vào đầu của tiết học, tôi cho
các em thi kể trước lớp, em nào tìm được nhiều từ và đặt câu đúng thì tôi
cho cả lớp tuyên dương bạn bằng một tràng pháo tay.
Ngoài ra tôi còn lưu ý cho học sinh khi tả cần chọn đúng từ ngữ diễn tả thật
chính xác.
Ví dụ: Khi tả về mắt người mẹ, tôi cho các em đặt câu có nội dung miêu tả
đôi mắt của mẹ, học sinh lần lượt nêu lên một số câu:
Học sinh 1: Đôi mắt mẹ đen láy.
Học sinh 2: Đôi mắt mẹ đen như hạt nhãn.
Học sinh 3: Nổi bật trên khuôn mặt mẹ là đôi mắt to, đen láy, luôn ánh lên
cái nhìn ấm áp và trìu mến.
Sau khi học sinh nêu được một số câu thì tôi cho học sinh nhận xét các câu
dùng từ miêu tả đúng chưa, trong các câu trên thì câu nào miêu tả hay nhất.
11


Rõ ràng cùng tả đôi mắt nhưng có nhiều cách dùng từ, đặt câu khác nhau.
Việc sử dụng nhiều từ ngữ gợi tả, gợi cảm khác nhau đã tạo nên những câu văn
hay hơn.
Và cuối tiết học, tôi dặn học sinh cũng với các từ ngữ các em đã tìm được ở
trên, các em hãy đặt thành nhiều câu khác nhau có nội dung miêu tả người thân,
em nào đặt được nhiều câu với các cách khác nhau thì được thưởng hoa điểm
tốt.
Với việc làm trên, từ chỗ học sinh chưa biết dùng các từ ngữ gợi tả, gợi

cảm vào viết văn tôi đã giúp được 23/24 em biết vận dụng các từ ngữ gợi tả, gợi
cảm vào viết văn làm cho câu văn, đoạn văn của các em trở nên sinh động hơn,
mượt mà hơn và thu hút người đọc, người nghe hơn.
Bước 2: Rèn kỹ năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật vào viết câu.
Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ góp phần làm cho đoạn văn miêu tả sinh
động hơn. Muốn đạt được điều đó thì buộc học sinh phải sử dụng biện pháp
nghệ thuật như so sánh, nhân hóa. Để rèn kỹ năng sử dụng các biện pháp nghệ
thuật vào viết câu, trong giảng dạy, tôi đã tiến hành như sau:
Trước khi viết câu, tôi cho học sinh lựa chọn những chi tiết, sự vật nào có
thể miêu tả theo cách so sánh hay nhân hóa. Chọn được sự vật để miêu tả rồi
tôi cho học sinh chọn xem so sánh với cái gì và nhân hóa thế nào?
Ví dụ 1: Tả bộ lông con chim
- Câu: Con chim có bộ lông màu đen.
Học sinh có thể viết thành: Toàn thân chú được khoác một chiếc áo màu
đen tuyền.
Ví dụ 2: Tả cặp mỏ của chim
- Câu: Cặp mỏ chim nhỏ, màu vàng.
Học sinh có thể viết thành: Cặp mỏ của chú nhỏ như hai mảnh vỏ trấu
chắp lại, màu vàng trông thật là đẹp.
*. Trong khi dạy bài tả ngắn về biển, tôi đưa ra 2 cách miêu tả sau:
Cách 1: Mặt biển buổi sớm mai thật đẹp.
Cách 2: Mặt biển buổi sáng như tấm gương khổng lồ, vỡ làm nhiều mảnh,
lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Lúc này tôi cho học sinh đọc và cảm nhận về hai cách viết trên. Hầu như học
sinh đều đồng tình với cách 2. Điều này chứng tỏ học sinh đã nhìn nhận được
tác dụng của các biện pháp tu từ khi vận dụng vào viết văn.
Với cách làm này, từ chỗ học sinh chưa biết cách sử dụng các biện pháp
nghệ thuật vào viết câu, tôi đã giúp được 22/24 em sử dụng một cách thành thạo
12



các biện pháp tu từ khi viết câu văn và đã làm cho câu văn của các em trở nên
sinh động hơn, hấp dẫn hơn, dễ dàng lôi cuốn được người đọc.
2.3.4. Biện pháp thứ tư: Rèn kĩ năng chấm câu cho học sinh.
Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và
câu được hình thành thông qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, tôi đã sử dụng
phương pháp phân tích ngôn ngữ trong giờ học Tập làm văn. Sử dụng phương
pháp này để giáo viên có cơ sở giúp học sinh nhận ra cấu tạo câu, nhằm giúp các
em viết câu đúng, đủ bộ phận.
Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn Luyện từ và câu: “ Ai – là
gì?”, “ Ai – làm gì?”, “ Ai – như thế nào?”, tôi hướng dẫn HS nhận biết những
vấn đề sau:
- Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận trả lời cho câu
hỏi Ai?( hoặc cái gì?/ con gì)?, bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì (hoặc làm
gì?/ như thế nào? ( Đó chính là đảm bảo về hình thức cấu tạo ).
- Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? ( Đảm bảo về mặt nghĩa)
Trên cơ sở đó, từ chỗ nhiều học sinh chấm câu một cách tùy tiện, tôi đã
giúp được 23/24 em biết dùng dấu chấm câu một cách chính xác khi viết văn.
2.3.5.Biện pháp thứ năm: Rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh
Viết đoạn văn là sản phẩm cuối cùng của học sinh. Một đoạn văn miêu tả
thường có ba phần:
Phần 1: Viết câu mở đoạn: Giới thiệu đối tượng cần viết. (Có thể diễn đạt
bằng một câu)
Phần 2: Phát triển đoạn văn: Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý, mỗi
gợi ý có thể diễn đạt 2, 3 hay 4 câu tùy theo năng lực học sinh.
Phần 3: Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy
nghĩ, mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích
lợi của đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người.
Để rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh tôi đã thực hiện lần lượt các
việc làm sau:

Việc làm thứ nhất: Rèn kĩ năng viết câu mở đoạn:
Có nhiều cách viết câu mở đoạn khi viết về một sự vật nào đó. Không nhất
thiết phải gò bó học sinh viết câu mở theo cách nào để cho các em tự chọn cho
mình cách viết câu mở hợp lý nhất và phù hợp với khả năng của từng em. Khi
giảng dạy, tôi cho hoc sinh viết nhiều lần với những câu mở đoạn khác nhau đối
với cùng một đề bài. Nhưng phải có nội dung giới thiệu sự vật định tả.

13


Ví dụ: Với đề Viết đoạn văn tả con vật em thích: Học sinh đã đưa ra được
các cách mở đoạn như sau:
Học sinh 1: Gia đình em nuôi rất nhiều con vật nhưng em thích nhất là
con mèo.
Học sinh 2: Meo meo, đó là chú mèo mướp nhà em đấy.
Học sinh 3: Nhà em có nuôi một con mèo tam thể.
Học sinh 4: Tuần trước, mẹ em có mua một con mèo trắng rất đẹp.
Từ các cách mở đoạn khác nhau tôi cho các em nhận xét và tìm ra ý đúng,
ý hay để mở đoạn một cách hợp lý nhất.
Với cách làm này thì 24/24 học sinh đã biết viết câu mở đoạn thành thạo
với nhiều đề bài khác nhau và nhiều em đã có những câu mở đoạn rất hay, xúc
tích lôi cuốn được người đọc.
Việc làm thứ hai 2: Rèn kĩ năng viết câu kết đoạn:
Kết đoạn tuy chỉ là một phần nhỏ trong đoạn văn nhưng lại rất quan trọng
bởi câu kết đoạn thể hiện được tình cảm của người viết với đối tượng miêu tả.
Thực tế cho thấy học sinh thường hay viết câu kết đoạn khô cứng, gò bó, thiếu
tính chân thực. Chủ yếu các em chưa biết viết câu kết hay viết chưa hay. Vì vậy
tôi đã gợi ý để học sinh biết cách làm câu kết đoạn bằng cảm xúc của mình một
cách tự nhiên thông qua những câu hỏi mở, sau đó cho các em nhận xét, sửa sai
và chắt lọc để có được câu kết đoạn hay.

Đoạn văn không thể hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm xúc
không chỉ bộc lộ ở phần kết đoạn mà còn thể hiện ở từng câu của đoạn. Vì vậy
tôi đã chú ý rèn cho học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong đoạn văn một cách
thường xuyên liên tục, từ tiết viết đoạn văn đầu tiên.
Việc làm thứ ba: Rèn kĩ năng viết phần phát triển đoạn
Thông thường, khi làm văn, học sinh thường viết phần này dưới hình thức
trả lời được mấy câu hỏi gợi ý. Đây là hạn chế đáng tiếc mà ta bắt gặp trong bài
làm của học sinh. Vì vậy tôi đã giúp học sinh khắc khục tình trạng này bằng
cách:
Điều trước tiên tôi hướng dẫn học sinh là các em phải xác định những ý cần
triển khai trong nội dung đoạn văn miêu tả. Tôi cho học sinh nêu đặc điểm của
đối tượng( con vật: đầu, mình, chân,…; người thân: dáng người, mái tóc, khuôn
mặt, hàm răng,…) rồi hướng các em tả các bộ phận, có thể tả một hoặc hai bộ
phận .
Tiếp theo tôi hướng dẫn các em cách mở rộng ý theo những hướng sau:
14


+ Mở rộng ý bằng cách liên tưởng, so sánh đối tượng đang miêu tả với
những đối tượng khác
+ Mở rộng ý bằng cách đi vào miêu tả thật tỉ mỉ, thật chi tiết từng đặc
điểm về đường nét, hình dáng và màu sắc của đối tượng.
+ Mở rộng ý bằng cách đan xen vào những câu văn tả là những câu văn
nêu cảm xúc, suy nghĩ, nhận xét hay liên tưởng tới một kỉ niệm nào đó.
Sau khi thực hiện được các công việc trên, tôi thấy 24/24 học sinh đã viết
được phần phát triển đoạn hoàn chỉnh. Như vậy tôi đã rèn được cho các em kĩ
năng viết phần phát triển đoạn đạt kết quả.
Việc làm thứ tư: Dạy các bước khi viết một đoạn văn miêu tả hoàn
chỉnh.
Tuy đã cung cấp được hàng loạt các kiến thức cho học sinh, việc hướng

dẫn các em liên kết lại thành một đoạn văn là không thể thiếu được. Do đó tôi đã
hướng dẫn các em thực hiện như sau:
Bước 1: - Xác định yêu cầu bài.
+ Học sinh nêu yêu cầu bài tập.
+ Giáo viên phân tích yêu cầu.
- Định hướng học sinh viết.
+ Tả (kể) về ai (cái gì) ?
+ Viết mấy câu ?
+ Viết với tình cảm như thế nào ?
+ Hướng dẫn học sinh sắp xếp ý.
Dù mới là học sinh lớp 2, bài viết chưa yêu cầu cao với bố cục một bài
văn như lớp 4 - 5, cũng chưa có khái niệm lập dàn ý. Song với đoạn viết từ 3
đến 5 câu với 2 đến 3 ý cũng cần sự sắp xếp ý. Ở học kỳ I học sinh được kể về
những người thân thiết với mình như: Cô giáo, thầy giáo, ông, bà, anh, chị,
em… Do đó giáo viên nên gợi ý học sinh trước tiên tự giới thiệu về người đó
(Tên là gì?, mối quan hệ với bản thân?). Tiếp đó là hình dáng, tính cách, công
việc hoặc ý thích của người kể và cuối cùng là tình cảm của học sinh đối với
người mình kể.
- Sang học kỳ II, học sinh được tả về một số con vật, cảnh vật xung
quanh mình. Đầu tiên cần gợi mở cho học sinh giới thiệu về vật (cảnh vật) định
tả. Chi tiết nổi bật của cảnh, vật đó. Cuối cùng là tình cảm của bản thân đối với
cảnh vật và con vật đó…
- Hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn văn. Ở khâu này học sinh bộc

15


lộ rất rõ nhược điểm về tư duy cách viết câu, sử dụng từ. Giáo viên không nên
làm thay cho học sinh mà nên trang bị một số tình huống, một số cách dùng từ,
một số cách liên kết ( liên kết lặp từ, liên kết thay thế từ) phù hợp với nội dung

đoạn viết để học sinh vận dụng viết bài.
Bước 2: Học sinh viết bài vào vở.(Trước khi viết vào vở cho học sinh
nêu miệng bài văn)
Bước 3: Chấm bài, chữa lỗi.
- Học sinh đổi chéo vở đọc bài, sửa câu từ, nhận xét bài lẫn cho nhau.
- Giáo viên yêu cầu một số học sinh đọc bài viết của mình và đọc bài viết
đã được bạn sửa (câu, từ) trước lớp. Học sinh dưới lớp nhận xét sửa chữa bổ
sung.
- Giáo viên chấm và chữa một số lỗi cơ bản ( từ, câu, ý ).
- Giáo viên đọc đoạn văn mẫu mà giáo viên đã chuẩn bị để học sinh tham
khảo.
Ví dụ: Khi dạy học sinh viết một đoạn văn từ 3 đến 5 câu nói về mùa hè, tôi
đã hướng dẫn theo các bước như sau:
Bước 1: Xác định yêu cầu bài.
- Học sinh đọc yêu cầu bài: “Hãy viết từ 3 đến 5 câu nói về mùa hè”.
- Giáo viên phân tích yêu cầu.
- Hướng dẫn học sinh định hướng viết.
+ Viết đoạn gồm mấy câu? (Viết đoạn từ 3 đến 5 câu).
+ Viết về cái gì? (Viết về mùa hè).
- Hướng dẫn học sinh sắp xếp ý.
+ Mùa hè bắt đầu từ tháng nào trong năm?
(Mùa hè bắt đầu từ tháng 4 trong năm).
+ Mặt trời mùa hè như thế nào?
( Mặt trời mùa hè rất chói chang ).
+ Cả hai câu trên cho em biết về thời điểm và nét tiêu biểu của mùa nào?
(Đó là mùa hè).
- Giáo viên khẳng định đây là ý 1 của bài.
+ Bà Đất nói về mùa hè như thế nào?
(Mùa hè cho ta trái ngọt hoa thơm).
+ Vậy câu nói của Bà Đất có thể trả lời được cho câu hỏi nào trong bài?

(Cây trái trong vườn như thế nào?).
- Đây chính là ý 2 của đoạn viết.
+ Em có thích mùa hè không? (Có).
+ Vì sao? (Vì mùa hè em không phải đi học mà được nghỉ hè).
16


+ Học sinh thường làm gì vào dịp nghỉ hè?
(Học sinh được đi tham quan, thắng cảnh, thăm ông bà…).
- Đây chính là ý 3 của đoạn viết.
+ Đoạn viết có mấy ý? (3 ý)
- Giáo viên giảng mùa hè đến khiến cho cây tươi tốt trái trĩu cành và học
sinh được nghỉ hè.
Vậy đoạn văn có thể viết :
Ý1----- Ý2------- Ý3
+ Hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn văn. Với 3 ý này học sinh có
thể phát triển mỗi ý thành 1 hoặc 2 câu. Từ câu này sang câu khác phải có sự
liên kết (Ví dụ: Có thể dùng liên kết lặp từ: Trong bốn mùa, em thích nhất là
mùa hè. Vì mùa hè chúng em không còn bận rộn với sách vở và được vui chơi
thoải mái. Mùa hè có nắng tháng năm, tháng sáu chói chang…) tránh lặp lại từ
ý này phát triển tiếp ý kia.
Tóm lại: Không nhất thiết cứ mỗi câu hỏi viết được một câu trong đoạn
văn. Cần viết với sự cảm nhận bằng nhiều cách: Nhìn, ngửi, ăn… xen lồng với
tình cảm của bản thân về mùa hè.
Bước 2: Học sinh làm bài vào vở.
- Giáo viên hướng dẫn cách trình bày một văn bản. Khi bắt đầu viết đoạn
cách lề một ô, viết hết câu này tiếp sang câu khác, ý này tiếp sang ý kia, viết hết
đoạn mới xuống dòng.
- Khi học sinh làm bài giáo viên quan sát giúp đỡ những học sinh yếu.
Bước 3: Chấm bài, chữa lỗi:

Việc chấm và nhận xét bài làm của học sinh là không thể thiếu được.
Chấm và chữa bài là đánh giá cái được và cái chưa được của học sinh. Mục đích
của việc chấm bài là đánh giá kết quả bài làm của học sinh từ đó nắm được năng
lực viết văn của học sinh để chuẩn bị tốt hơn cho những bài viết sau.
Khi nhận xét bài, tôi đã chỉ rõ cái được và cái chưa được của bài về từng
khía canh như: ( Bố cục, cách dùng từ, viết câu, liên kết câu, sử dụng biện pháp
tu từ..)
Ngoài ra trong quá trình dạy học, tôi tích lũy được rất nhiều những đoạn
văn hay của học sinh trong các năm học trước, tôi đọc cho các em nghe rồi cùng
các em phân tích cái hay, cái cần học tập trong từng đoạn văn.
Với cách làm trên tôi đã thu được kết quả là 24/24 em viết được đoạn văn
đúng bố cục, biết cách viết phần phát triển đoạn, mở đoạn hay kết đoạn của đoạn
văn miêu tả, tôi đã giúp các em có kĩ năng viết đoạn văn miêu tả, không những
có đoạn văn đúng mà còn có nhiều đoạn văn hay, sáng tạo, liên kết câu chặt chẽ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
17


Sau một thời gian nghiên cứu đề tài, áp dụng trực tiếp vào lớp 2B - Trường
Tiểu học Điền Trung I do tôi chủ nhiệm, tôi nhận thấy các em bắt đầu có hứng
thú và đam mê với phân môn Tập làm văn. Giờ học diễn ra nhẹ nhàng và sinh
động hơn. Các em đã chủ động, tự giác trong việc hình thành kiến thức và tôi đã
tiến hành kiểm tra tính khả thi của đề tài như sau:
Thời điểm kiểm tra: Tuần 3 của tháng 3 năm học 2017 - 2018 sau khi đã áp
dụng sáng kiến.
Đề bài: Viết một đoạn văn ngắn để nói về một con vật mà em thích.
Bảng 1: Thống kê theo số lỗi của học sinh:
Các lỗi phổ biến

Lớp


Tổng
số
học
sinh

Chưa biết
cách quan
sát

SL

TL

Hạn chếvốn
từ, dùng từ
chưa chính
xác

SL

TL

Chấm câu
tùy tiện

SL

TL


Chưa biết
Chưa liên
sử dụng các kết chặt chẽ
biện pháp tu giữa các câu
từ

SL

TL

SL

TL

2B
24
0
0
1 4.15
2
8.3
0
2A
24
3 12.5
2 8.3
3 12.5
4 16.6
3 12.5
Bảng 2: Kết quả đánh giá chất lượng viết văn của hai lớp 2A và 2B sau

khi áp dụng sáng kiến.
Lớp

Tổng
số
HS

2B
Lớp
thực
nghiệm

24

Thời điểm

SL
Trước khi
thực hiện

0

Sau khi
thực hiện

6

So sánh đối
chứng


Tăng
6 em

Trước khi
thực hiện

2A
Lớp đối
chứng

24

Hoàn thành tốt

Sau khi
thực hiện
So sánh đối
chứng

TL%

25 %,

Hoàn thành

Chưa hoàn
thành
SL
TL%


SL

TL%

19

79.2%

5

18

75 %

0

25.0

20.8%

Giảm
5 em

20.8

0

3

12.5


Tăng
3 em

12.5

19

79.2%

5

20.8%

19

79.2

2

8.3

Giảm
3 em

12.5

Từ thực tế kết quả bài làm của học sinh, tôi nhận thấy vốn từ ngữ của các
em ngày càng phong phú hơn cả về số lượng lẫn chất lượng. Cách sử dụng từ
18



của các em chính xác hơn. Trong khi viết văn các em đã biết cách sử dụng các
biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa vào viết đoạn văn. Cụ thể: Số em
hoàn thành tốt tăng lên 6 em( Mai Anh, Thái, Ngọc Linh, Đồng, Hoàng, Phương
Linh)- chiếm 25%, số em chưa hoàn thành giảm 5 em(Quyên, Dương, Hoàn,
Vân, Nhi) - chiếm 20.8%. So với kết quả lớp 2A thì kết quả của lớp 2B cao hơn
nhiều. Đặc biệt là số em mắc lỗi được giảm rõ nét. Nói chung, chất lượng viết
đoạn văn của học sinh đã được nâng lên rõ rệt. Số bài đạt hoàn thành tốt được
nâng lên, số bài chưa hoàn thành giảm đi. Điều đáng mừng là không còn em nào
chưa hoàn thành. Điều đó chứng tỏ những biện pháp mà tôi áp dụng đã thực sự
góp phần "Nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2B trường
Tiểu học Điền Trung I".

PHẦN 3. KẾT LUẬN - ĐỀ XUẤT
3.1 Kết luận:
Trong quá trình giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm
văn nói riêng, đặc biệt là dạy học sinh viết tốt đoạn văn ngắn ở lớp 2, mỗi giáo
viên cần phải luôn luôn nghiên cứu, sáng tạo, tìm ra những giải pháp hữu hiệu
nhất để giảng dạy cho học sinh. Luôn luôn chú trọng đến điểm tích hợp của
chương trình trong quá trình giảng dạy. Bằng những kinh nghiệm của bản thân
trong quá trình giảng dạy, sau khi áp dụng các biện pháp trên, tôi đã rút ra bài
học sau:
* Đối với giáo viên:
- Để nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2, người
giáo viên cần tạo cho học sinh hứng thú khi học văn với nhiều hình thức khác
nhau.
- Hình thành cho học sinh thói quen tích lũy những hiểu biết về thế giới tự
nhiên trong cuộc sống và trong tác phẩm văn học bằng cách giao việc về nhà
sưu tầm, quan sát, lắng nghe rồi viết những điều quan sát, nghe thấy trong cuộc

sống.
- Dạy học sinh biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật và vận dụng kiến
thức Tiếng Việt vào viết văn.
- Giáo viên cần chú ý rèn cả 4 kĩ năng nghe - nói - đọc - viết cho học sinh.
Việc hướng dẫn học sinh viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2 đạt kết quả
cao không phải là một sớm, một chiều, một tiết học nhất định. Vì thế người giáo
viên phải có lòng kiên trì và sự say mê nghiên cứu văn học.
* Đối với học sinh:
- Các em phải có ý thức tự học, tự rèn luyện, đặc biệt là học viết văn để
19


còn tiếp tục học các bậc học trên.
- Học sinh phải trau dồi cho mình lòng say mê, yêu thích văn học.
- Chăm chỉ tìm tòi và đọc nhiều loại sách để bồi dưỡng tâm hồn và mở
mang sự hiểu biết về thế giới tự nhiên và thế giới xung quanh.
3.2 Kiến nghị:
Đề xuất với nhà trường:
- Tổ chức có hiệu quả các buổi sinh hoạt chuyên môn ( tăng cường dự giờ,
trao đổi kinh nghiệm ,…) bổ sung và tăng cường sử dụng các tài liệu tham khảo
về văn học ở tiểu học.
- Tạo điều kiện để tôi được triển khai rộng sáng kiến để được áp dụng rộng
rãi trong toàn trường.
- Đầu tư hệ thống tranh ảnh đồ dùng dạy học phù hợp cho các nội dung của
các tiết học của phân môn Tập làm văn.
Đề xuất với phòng GD&ĐT:
.
- Đối với những sáng kiến kinh nghiệm của những đồng chí giáo viên
trong ngành có giá trị áp dụng trong giảng dạy, Phòng giáo dục in ấn thành
tập san để các trường được học tập những kinh nghiệm quý báu ấy.

- Có sự khuyến khích động viên đối với những giáo viên có những sáng
kiến kinh nghiệm hay.
Trên đây là một sáng kiến nhỏ của bản thân tôi trong quá trình giảng dạy phân
môn Tập làm văn ở trường Tiểu học Điền Trung I. Rất mong nhận được sự góp ý
của đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG
Bá Thước, tháng 3 năm 2018
HIỆU TRƯỞNG

NGƯỜI THỰC HIỆN

Nguyễn Thị Ngọ
Trần Thị Hiền

∙ 

20


21



×