MỤC LỤC
A./ ĐẶT VẤN ĐỀ:...................................................................................1
B./ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:.......................................................................2
I. Các quy định của luật tố tụng hình sự về tạm giam trong tố tụng
hình sự...............................................................................................2
1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam................................2
2.Mục đích ý nghĩa của tạm giam..................................................2
3. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam....................................3
4.Căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam.....................................4
5.Thẩm quyền ra lệnh tạm giam...................................................7
6.Thủ tục tạm giam........................................................................8
7.Thời hạn tạm giam......................................................................8
8. Một số vấn đề xung quanh việc tạm giam.................................9
9. Những quy định của pháp luật khi chưa có luật TTHS năm 2003
......................................................................................................12
II. Tình hình tạm giam ở nước ta hiện nay, một số bất cập và hướng
hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này...........................12
1. Tình hình tạm giam ở nước ta hiện nay...................................12
2. Một số bất cập và hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về
vấn đề này.....................................................................................13
3. Giải pháp về tăng cường năng lực và nâng cao phẩm chất đạo
đức của chủ thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam...........14
4. Giải pháp về việc xử lý các trường hợp vi phạm......................15
5. Kiến nghị về việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện
quy định của BLTTHS....................................................................16
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ..........................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:......................................................17
Đề bài: Các quy định của luật tố tụng hình sự về tạm giam trong tố tụng hình sự và đề
xuất hoàn thiện quy định này.
A./ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Để bảo vệ lợi ích cho những người bị hại, để tăng cường hơn tính nghiêm
minh của pháp luật, các nhà làm luật nước ta đã đưa ra những biện pháp để ngăn ngừa
1
những loại tội phạm nguy hiểm cho xã hội. Đó là các biện pháp ngăn chặn như: Bắt người,
tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm. Do đây là vấn đề rộng nên sau đây bài viết này chỉ làm rõ về biện pháp ngăn chặn tạm
giam.
B./ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Các quy định của luật tố tụng hình sự về tạm giam trong tố tụng hình sự.
1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Để hiểu được các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) về tạm giam trong
TTHS thì trước hết ta cần hiểu thế nào là biện pháp ngăn chặn (BPNC) và từ đó có thể hiểu
được BPNC tạm giam.
BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo,
người bị truy nã hoặc đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn những hành vi nguy
hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành
vi gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử án hình sự. (1)
Tạm giam là BPNC nghiêm khắc nhất thể hiện ở chỗ nó hạn chế quyền tự do thân
thể của người bị áp dụng biện pháp này. Chính vì vậy mà biện pháp tạm giam phải tuân thủ
theo những quy định chặt chẽ của pháp luật.
2.Mục đích ý nghĩa của tạm giam.
Để ngăn chặn và phòng ngừa việc bị can, bị cáo không thực hiện nghĩa vụ của mình
và ngăn chặn việc họ bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội việc quy định của pháp luật và cho
phép của các cơ quan tiến hành tố tụng được áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam với
bị can, bị cáo trong những trường hợp nhất định, khi có đủ căn cứ áp dụng theo quy định
của BLTTHS là hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong cuộc đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm ở nước ta. Việc áp dụng biện pháp tạm giam sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Mục đích và ý
nghĩa của biện pháp tạm giam trong TTHS được thể hiện cụ thể như sau:
+) Việc áp dụng BPNC tạm giam tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra, xử
lý tội phạm. Ngăn chặn, nhanh chóng làm rõ tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội
2
là một nhiệm vụ quan trọng của cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án. Việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn tạm giam sẽ đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo trong các hoạt động
tố tụng khi cần thiết, bảo đảm để bản án tuyên có điều kiện thi hành khi có hiệu lực pháp
luật cũng như bảo đảm tính chính xác, khách quan của các hoạt động tố tụng.
+)Việc quy định và áp dụng BPNC tạm giam thể hiện sự cưỡng chế của Nhà nước
trong việc đấu tranh chống tội phạm góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, củng
cố tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy không phải là hình phạt cũng không có mục
đích trong việc trấn áp, trừng trị những người bị áp dụng biện pháp này nhưng việc áp
dụng chúng sẽ ảnh hưởng đến quyền tự do cá nhân. Người bị áp dụng biện pháp này sẽ bị
cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất định bị hạn chế một số quyền công dân.
+)Việc quy định và áp dụng BPNC tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc, góp phần
bảo đảm và tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong hiến pháp.
BPNC tạm giam không chỉ thể hiện tính cưỡng chế của Nhà nước đối với người có hành vi
xâm hại các quyền công dân mà còn là một công cụ phương tiện hữu hiệu để bảo vệ các
quyền đó khi nó có nguy cơ bị xâm hại hoặc đang bị xâm hại. BPNC tạm giam tuy hạn chế
một số quyền của công dân đối với bị can, bị cáo nhưng mặt khác lại bảo vệ quyền và lợi
ích của Nhà nước và của những công dân khác.
+)Tạm giam thể hiện tính ưu việt của nhà nước ta, nghiêm chỉnh chấp hành các quy
định của pháp luật về tạm giam là nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng. Các chủ thể này phải hoạt động theo đúng nhiệm vụ, quyền hạn, và thủ tục do pháp
luật quy định. Trong BPNC tạm giam còn thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta. Đó là
các vấn đề khi quy định về tạm giam đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời
kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ
ràng, người chưa thành niên.
3. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam.
Giống như biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam đối tượng bị áp dụng cũng chỉ
có thể là bị can, bị cáo. Khoản 1 điều 88 BLTTHS quy định : “ tạm giam có thể được áp
dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
+) Đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm
trọng.
3
+) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy
định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”.
Tuy nhiên không phải bị can, bị cáo nào cũng có thể áp dụng biện pháp này. Những
người không phải là bị can, bị cáo thì không bị áp dụng biện pháp này. Khoản 2 Điều 88
BLTTHS năm 2003 quy định những trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam bao
gồm:
+)Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi và có nơi
cư trú rõ ràng.
+)Bị can, bị cáo là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng.
Tuy nhiên, họ cũng có thể bị áp dụng BPNC tạm giam trong những trường hợp sau:
+Bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc bị bắt theo lệnh truy nã
+Bị can, bị cáo được áp dụng BPNC khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây
cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố xét xử.
+)Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu
không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Việc quy định như trên thể hiện khá rõ nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ ngĩa tôn
trọng quyền con người, bảo vệ quyền trẻ em. Với điều kiện sinh hoạt trong trại giam thì
không đảm bảo đầy đủ những nhu cầu cần thiết cho phụ nữ mang thai, phụ nữ nuôi con
dưới 36 tháng tuổi,người già yếu và người bị bệnh nặng. Hơn nữa, trong trường hợp này bị
can, bị cáo đã có nơi cư trú rõ ràng nếu họ không thuộc các trường hợp đặc biệt kể trên các
cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác để đảm bảo sự có
mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng.
4.Căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam.
a.Theo khoản 1 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự quy định những trường hợp
được áp dụng biện pháp tạm giam như sau:
4
Trường hợp thứ nhất: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc phạm tội
rất nghiêm trọng. Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà theo quy định của pháp luật
mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân,
tử hình hoặc phạm tội mà mức cao nhất của khung hình phạt là đến 15 năm tù. Việc áp
dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp này cần hai điều kiện sau:
+) Người thực hiện tội phạm là người đã bị khởi tố bị can hoặc người đã bị thẩm
phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử với tư cách là bị cáo.
+) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng.
Trường hợp thứ hai: Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm
trọng mà bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó
có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Để tạm giam trong trường hợp này cần có ba điều kiện:
+) Người thực hiện tội phạm là bị can, bị cáo;
+) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật
hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm. Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội
nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là trên hai năm tù. Trong một điều luật có nhiều khoản thì
phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt trên hai năm tù có thể tạm giam, phạm tội thuộc
khoản có mức hình phạt tù từ hai năm trở xuống thì không được tạm giam.
+) Có căn cứ cho rằng người phạm tội có thể bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy
tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để xác định điều kiện này phải căn cứ vào nhân
thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị
can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc.
Qua nghiên cứu quy định của bộ luật tố tụng hình sự về tạm giam cho thấy, biện
pháp ngăn chặn này chỉ cần thiết khi các biện pháp ngăn chặn khác không đảm bảo được
mục đích ngăn chặn tội phạm.
b.Những trường hợp không được áp dụng biện pháp tạm giam:
5
+) Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi có
nơi cư trú rõ ràng.
+) Bị can, bị cáo là người già yếu, người bị bệnh nặng có nơi cư trú rõ ràng. Đối
với bị can, bị cáo thuộc một trong hai trường hợp nói trên cần áp dụng biện pháp ngăn
chặn khác, có thể là cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc bảo lĩnh.
Tuy nhiên, đối với trường hợp bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con bú
duới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng có nơi cư trú rõ ràng, có đủ điều kiện
tạm giam thì vẫn có thể ra lệnh tạm giam. Đó là những “trường hợp đặc biệt”. Nhưng
BLTTHS chưa có quy định về vấn đề này. Thông tư liên ngành số 2/TTLN ngày 12/1/1989
của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ, Bộ tư pháp hướng
dẫn thi hành một số quyết định của BLTTHS đã quy định những trường hợp đặc biệt cần
phải tạm giam. Họ là phần tử nguy hiểm cho xã hội hoặc có thể bỏ trốn hoặc cản trở việc
xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội thì mới tạm giam họ.Mặc dù đã có sự giải thích nhưng
hướng dẫn này vẫn chưa rõ ràng và khó áp dụng.
Đến LTTHS các trường hợp đặc biệt tại điểm a,b,c của khoản 1 điều 88 BLTTHS
năm 2003 như sau:
- Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.
- Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội
hoặc cố ý phạm tội gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử.
- Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu
không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hiểm đến an ninh quốc gia.
Ngoài những quy định tại khoản 2 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 còn có
thể coi các trường hợp sau đây cũng là các trường hợp cần thiết phải tạm giam mà có thể áp
dụng các biện pháp ngăn chặn khác.
- Người bị tạm giam có căn cước rõ ràng, hành vi phạm tội thuộc tội ít nghiêm
trọng, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác không ảnh hưởng đến việc điều tra, truy
tố, xét xử hoặc thi hành án.
6
- Người bị tạm giam được người khác bảo lĩnh và có đủ điều kiện để ấp dụng biện
pháp ngăn chặn này.
Điều 303 BLTTHS năm 2003 còn quy định việc tạm giam người chưa thành niên.
Theo quy định của điều này thì việc tạm giam người chưa thành niên phạm tội phải có đủ
ba điều kiện sau:
+) Phải có đủ căn cứ quy định Điều 80,81,82,86,88,120 bộ luật tố tụng hình sự. Đây
là trường hợp người chưa thành niên phạm tội bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt
trong trường hợp phạm tôi quả tang hoặc đang bị truy nã bị tam giam, bị tạm giữ để ngăn
chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật của họ, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc thi hành án.
+) Tội phạm do họ thực hiện là tôi nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng hoặc
tội đặc biệt nghiêm trọng.
+)Họ đã dủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 68 bộ luật hình sự.
5.Thẩm quyền ra lệnh tạm giam.
Theo khoản 3 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định những người có
thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì có quyền ra lệnh tạm giam ( những
người có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại khoản 1 Điều 80
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ). Lệnh tạm giam của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ
quan điều tra các cấp được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thời hạn
mà Viện kiểm sát phải xem xét để ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn tạm giam
của cơ quan điều tra là ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê
chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan đến việc tạm giam. Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ cho Cơ
quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn dù có phê chuẩn hay không.
Theo quy định trên, việc áp dụng biện pháp tạm giam chỉ được giao cho các cơ quan
tiến hành tố tụng như Tòa án, viện kiểm sát, cơ qun điều tra mà thôi. Cụ thể:
- Viện trưởng, phó viện trưởng viện kiểm sát và kiểm sát viên các cấp.
- Chánh án, phó chánh án tòa án nhân dân và tòa án quân sự các cấp.
7
- Thẩm phán giữ các chức vụ chánh tòa, phó chánh tòa, phúc thẩm tòa án nhân dân
tối cao.
- Hội đồng xét xử.
Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp, trong trường hợp này lệnh tạm
giam phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Như vậy, thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam được quy định cho nhiều cơ quan với
nhiều chủ thể khác nhau ở tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng. Viện kiểm sát với chức
năng là cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ kiểm tra, giám sát hoạt động này đặc
biệt đối với lệnh tạm giam của thủ trưởng phó thủ trưởng cơ quan điều ra các cấp phải được
Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
6.Thủ tục tạm giam.
Với tính chất là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, hạn chế tự do của người bị
áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định, vì vậy quy định việc áp dụng BPNC tạm
giam cần phải tuân theo một trình tự thủ tục rất chặt chẽ.
Việc tạm giam phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giam phải ghi
rõ ngày, tháng, năm, họ tên ,chức vụ của người ra lệnh, họ tên, địa chỉ của người bị tạm
giam, lý do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản.
Sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của
người bị tạm giam nhằm xác định đúng đối tượng cần tạm giam, tránh trường hợp nhầm
lẫn. Đồng thời cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải thông báo ngay cho gia đình người bị tạm
giam và cho chính quyền xã phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức, nơi người bị tạm giam
cư trú hoặc làm việc biết để gia đình họ cũng như các cơ quan tổ chức biết và không phải
tiến hành những thủ tục tìm kiếm không cần thiết, gây tốn kém.
7.Thời hạn tạm giam.
Điều 120 bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định thời hạn tạm giam để truy tố và đối
với từng giai đoạn tố tụng cụ thể lại có những thời hạn tạm giam khác nhau được quy định
trong bộ luật như: tạm giam để truy tố, tạm giam để xét xử sơ thẩm, tạm giam sau khi xét
8
xử sơ thẩm, tạm giam để chuẩn bị xét xử phúc thẩm, tạm giam bị cáo trong trường hợp cấp
giám đốc thẩm hủy án để điều tra, xét xử lại.
+)Thời hạn tạm giam để điều tra
Điều 120 BLTTHS năm 2003 quy định thời hạn tạm giam để điều tra không quá hai
tháng đối với tội ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội nghiêm trọng, không quá
bốn tháng đối với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ
án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian để cho việc điều tra và không có
căn cứ để thay đổi, hủy bỏ tạm giam thì chậm nhất trước khi hết hạn tạm giam là 10 ngày
cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
+)Thời hạn tạm giam để truy tố
Khoản 2 điều 166 BLTTHS năm 2003 quy định “ thời hạn tạm giam để truy tố
không được quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này”.
Như vậy thời hạn tạm giam để truy tố đối với tội ít nghiêm trọng và tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng tối đa có thể lên đến 30 ngày , đối với tội rất nghiêm trọng tối đa có thể
lên tới 45 ngày, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng thời hạn tạm giam để truy tố tối đa có thể
lên tới 60 ngày.
+)Thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm
Điều 177 BLTTHS năm 2003 quy định “ thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử
không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại điều 176 của bộ luật này.”
Như vậy thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử tối đa là 75 ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng, 90 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 120 ngày đối với tội phạm rất
nghiêm trọng, 150 ngày đối với tội đặc biệt nghiêm trọng.
+)Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm
Điều 243BLTTHS năm 2003 quy định rất rõ ràng về vấn đề này.
+) Thời hạn tạm giam để đảm bảo thi hành án
Điều 228 BLTTHS 2003 quy định: “ Thời hạn tạm giam bị cáo quy định tại khoản1
và khoản 2 Điều này là 45 ngày, kể từ ngày tuyên án.”
8. Một số vấn đề xung quanh việc tạm giam.
a.Về chế độ tạm giam:
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được áp dụng để bảo đảm cho hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng và không để cho người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm.
9
Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng đây không phải là hình phạt đối với người
phạm tội. Đây là đặc điểm để phân biệt “tạm giam ” với giam. “giam” là biện pháp chấp
hành hình phạt tù, người bị kết án phải cải tạo và sinh sống trong trại cải tạo trong một thời
hạn tù mà tòa án đã tuyên. Do tạm giam không phải là hình phạt nên chế độ tạm giam khác
với chế độ đang chấp hành hình phạt tù (Điều 19 bộ luật tố tụng hình sự).
Ngày 7/11/1998 Chính phủ đã ban hành nghị định 89/NĐ-CP về tạm giam, tạm giữ.
Nội dung chính là:
- Nhà tạm giam chỉ tiếp nhận giam những người đã có lệnh tạm giam hoặc lệnh truy
nã. Người bị tạm giam, tạm giữ không được giam chung một buồng. Việc tạm giam, phải
tuân theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự , nhân phẩm của người bị tạm giam.
- Giám thị trại giam thông báo bằng văn bản cho cơ quan đang thụ lý vụ án có người
bị tạm giam biết việc hết thời hạn tạm giam lần thứ nhất trước 5 ngày, việc hết hạn tạm
giam trước 10 ngày và yêu cầu cơ quan đang thụ lý tiếp nhận hoặc giải quyết các trường
hợp hết thời hạn tạm giam.
- Việc giam được bố trí theo khu vực và phân loại như sau: phụ nữ, người chưa
thành niên, người nước ngoài, người có bệnh truyền nhiễm, loại côn đồ, hung hãn, cướp tài
sản, giết người tái phạm, nguy hiểm, người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, người bị
tòa án tuyên bố tử hình, người có án phạt tù đã chuyển đi trại giam.
- Người được giam chung bằng những người trong cùng một vụ án đang điều tra,
truy tố, xét xử, Việc giam giữ riêng từng người do cơ quan đang thụ lý vụ án quyết định.
Người nước ngoài bị tạm giữ có thể được ở buồng giam riêng trong trại tạm giam.
- Bình quân diện tích tối thiểu nơi giam đối với người bị tạm giam là 2 m 2/người có
bệ nằm bằng xi măng hoặc gạch men và có chiếu trải để nằm.
- Về độ chăm nom người thân và bảo quản tài sản của người bị tạm giữ, tạm giam
thêo Điều 90 BLTTHS như sau:
- Khi người bị tạm giữ, tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người
thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc thì cơ quan ra quyết định
tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho người thân thích chăm nom. Trong trường
hợp người bị tạm giữ, tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm
giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom.
10
- Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không
có người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam phải áp
dụng những biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng.
- Cơ quan tra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam thông báo cho người bị tạm giữ,
tạm giam biết biện pháp đã được áp dụng.
b.Về việc khấu trừ thời hạn tạm giam và thời hạn chấp hành hình phạt.
Đoạn cuối Điều 33 BLTTHS năm 2003 quyết định : “ thời hạn tạm giam được trừ
vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giam bằng một ngày tù.”
Quy định này không chỉ áp dụng đối với người bị tạm giam liên tục cho đến khi xét
xử mà cồn áp dụng đối với cả ngững người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác sau
một thời gian bị tạm giam. Những hình phạt khác không phải là hình phạt tù có thời hạn
như cảnh cáo, phạt tiền hoặc tử hình thì không áp dụng quyết định này mặc dù trước đó họ
có bị giam. Riêng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân
đội và hình phạt tù chung thân thì thời hạn tạm giam sẽ được tính vào thời hạn chấp hành
hình phạt tù.
c. Quyền của người bị tạm giam.
- Người bị tạm giam có đầy đủ các quyền của bị can, bị cáo quy định tại Điều 49,50
quyền của người bị kết án đang chờ thi hành hình phạt tù tại Điều 260 BLTTHS 2003. Điều
49, 50 BLTTHS thì mặc dù bị can, bị cáo lúc trước có thể đang bị tạm giam để đảm bảo
cho công tác điều tra, truy tố, xét xử nhưng cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải đảm bảo các
điều kiện cần thiết để cho bị can, bị cáo thực hiện được các quyền của mình, bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của bản thân. Việc quy định của các cơ quyền của bị can, bị can ngoài
mục đích để bị can, bị cáo chủ động tham gia tố tụng còn góp phần vào việc tránh bỏ lọt tội
phạm, tránh bắt giam người vô tội trong khi cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình.
Ngoài ra, Điều 260 BLTTHS quy định “ Trong trường hợp người bị kết án đang bị
tạm giam thì theo yêu cầu của người thân thích người bị kết án, cơ quan công an phải cho
phép người bị kết án gặp người thân thích trước khi thi hành án”. Ban giám thị trại giam
phải thông báo cho người bị kết án biết nơi người đó chấp hành hình phạt.
d.Ý nghĩa của việc tạm giam
Với mục đích ngăn chặn và phòng ngừa tội phạm việc quy định biện pháp tạm giam
trong BLTTHS có ý nghĩa rất quan trọng biện pháp tạm giam góp phần nhằm nâng cao hiệu
11
quả quản lý Nhà nước, củng cố, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo vệ tài sản, tính
mạng, sức khỏe của người dân. Tạm giam đúng sẽ góp phần bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng
các quyền cơ bản của công dânvà được hiến pháp ghi nhận, bảo đảm cho các cơ quan
chuyên trách tiến hành tố tụng được thuận lợi.
9. Những quy định của pháp luật khi chưa có luật TTHS năm 2003
Ngay khi giành được độc lập năm 1945 Nhà nước Việt Nam dân chủ đã ban hành
những văn bản pháp luật hình sự và tố tụng hình sự trong đó có quy định về tạm giam. Tuy
nhiên các văn bản ban hành thời kỳ này chưa có quy định riêng về biện pháp tạm giam mà
nó chỉ đan xen trong các văn bản pháp luật về bộ máy nhà nước như sắc lệnh số 13/SL
ngày 24/01/1946 về tổ chức tòa án và nghách thẩm phán, Sắc lệnh 13/SL ngày 20/07/1946
về tổ chức bộ máy tư pháp và Tòa án, sắc lệnh 85/ SL ngày 7/11/1950 về củng cố bộ máy
tư pháp.
Sau ngày miền Bắc giải phóng nhà nước ta ban hành một số sắc lệnh như luật số
103/ SL/005 ngày 20/05/1957 quy định việc đảm bảo tự do thân thể và quyền bất khả xâm
phạm đối với nhà ở, thư tín, động vật của người dân, Luật này quy định thời hạn thẩm
quyền áp dụng biện pháp tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác.
Nghị định số 301-TTg ngày 10/7/1957 của thủ tướng chính phủ quy định chi tiết sắc
lệnh trên về thủ tục áp dụng hủy bỏ, thay thế biện pháp tạm giam.
Đất nước thống nhất chính phủ lâm thời cách mạng miền Nam Việt Nam đã ban
hành sắc luật số 02/SL/76 ngày 15/03/1076 quy định về một số biện pháp ngăn chặn trong
đó có tạm giam.
Ngày 25/08/1988 quốc hội thông qua BLTTHS có hiệu lực thi hành ngày 1/1/ 1989.
BLTTHS năm 2003 đánh dấu một bước tiến mới quan trọng.
II. Tình hình tạm giam ở nước ta hiện nay, một số bất cập và hướng hoàn thiện quy
định của pháp luật về vấn đề này.
1. Tình hình tạm giam ở nước ta hiện nay.
Có thể nói việc áp dụng BPNC tạm giam trong TTHS đã góp phần mang lại hiệu quả
rất lớn trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước tatrong thời gian vừa qua.
Hàng loạt vụ án đã được phá nhanh chóng, kịp thời đáp ứng nhiệm vụ giữ gìn trật tự an
toàn giao thông xã hội, các quyền và lợi ích của nhân dân được tôn trọng và bảo vệ. Trong
12
năm 2007, tổng số người tạm giam là 1261 người tính đến cuối năm 2007 số người đã được
giải quyết là 944 người. Trong đó có 23 người đã được thay đổi biện pháp ngăn chặn tạm
giam, 1 người được hủy bỏ tạm giam do được miễn TNHH, số người bị chết trong quá
trình áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là 3 người, số người còn lại là 314 người.
trong năm 2008, tổng số người bị tạm giam là 1223 người. Tính đến năm 2008, số người đã
được giải quyết là 856 người ( có 28 người được thay đổi BPNC tạm giam, 6 người được
hủy bỏ BPNC tạm giam do được miễn TNHS). Số người bị chết trong quá trình áp dụng
BPNC tạm giam là 3 người, số còn lại là 364 người. Theo báo cáo tổng kết của VKSND
tỉnh Hải Dương ở địa bàn tỉnh trong 2 năm 2007, 2008 không xảy ra tình trạng tạm giam
người vượt quá thời hạn.(2)
2. Một số bất cập và hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này.
- Trong BLTTHS hiện hành chưa có quy định về khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm
giam. Tại điều 88 BLTTHS năm 2005 mới chỉ nêu ra được đối tượng áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam, do vậy cần đưa ra một khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam vào
khoản 1 điều 88 năm 2003 như sau:
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn do cơ quan điều tra, viện kiểm sát, hoặc tòa án áp
dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, hoặc bị can,
bị cáo phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai
năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử
hoặc có thể tiếp tục phạm tội, người phạm tội quả tang hoặc bị bắt trong trường hợp khẩn
cấp và người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đang trong thời gian chờ thi hành
án nhằm ngăn chặn người đó bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
- Việc bắt giam bị cáo ngay tại phiên tòa cần có quy định theo hướng là phải có lệnh
tạm giam vì nếu chỉ tuyên trong phần quyết định của bản án thì không thể tiếp tục tạm giam
bị cáo, do bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực phápluật, chưa được đem ra thi hành, trừ trường
hợp bản án được đem ra theo thi hành ngay theo quy định tại khoản 2 Điều 255 BLTTHS.
- Vấn đề phê chuẩn lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì BLTTHS nên quy định
các mức thời hạn phê chuẩn của VKS, theo từng loại vụ án đơn giản hay phức tạp kể từ khi
nhận được công văn đề nghị phê chuẩn và tài liệu của vụ án. Hiện nay, tại khoản 3 Điều 88
có quy định về thời hạn của VKS xem xét đó là trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận
13
được lệnh tạm giam theo đề nghi xét phê chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan đến việc tạm
giam, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn. Nên quy định cụ thể hơn
thời hạn này theo hướng quy định các mức thời gian theo từng vụ án đơn giản hay phức
tạp. Nếu vụ án đơn giản, hồ sơ tài liệu đầy đủ chỉ cần một ngày nhưng có những vụ việc hồ
sơ vụ án lại phức tạp thì cần có nhiều thời gian hơn để VKS nghiên cứu trước khi phê
chuẩn.
- Về trách nhiệm của người đề xuất, người ra lệnh và phê chuẩn cần phải có quy
định rõ ràng. Nếu tạm giam trái pháp luật, điều tra viên phải chịu trách nhiệm của người đề
xuất, thủ trưởng cơ quan điều tra phải chịu trách nhiệm của người ra lệnh còn nếu việc tạm
giam sau đó lại do VKS phê chuẩn thì người đã đề xuất phê chuẩn phải chịu trách nhiệm
của người đề xuất, người đã phê chuẩn phải chịu trách nhiệm của người đã phê chuẩn. Mức
độ và trách nhiệm của từng người là như nhau.
- Vấn đề thời hạn tạm giam để điều tra và thời hạn điều tra. BLTTHS nên quy định
thời gian bằng nhau vì có những vụ án phức tạp thời hạn điều tra vẫn còn nhưng thời hạn
tạm giam đã hết vì vậy gây khó dễ cho cơ quan điều tra cũng như cho quá trình xét xử thi
hành án.
- Trong xu thế cải cách tư pháp hiện nay, nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 2/6/2005
của bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu: “ xác định rõ căn cứ
tạm giam, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm, thu hẹp
đối tượng có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam.”
Nhà làm luật nên sửa đổi những điều liên quan đến vấn đề này cho phù hợp với thực
tiễn áp dụng, theo đó nên bỏ quy định cơ quan điều tra có thẩm quyền áp dụng biện pháp
ngăn chặn ở giai đoạn điều tra, mà chỉ quy định VKS, phó viện trưởng VKS các cấp cấp có
thẩm quyền ra lệnh tạm giam ở giai đoạn này, có thể trên cơ sở đề nghị của cơ quan điều tra
hoặc do VKS tự quyết định khi có căn cứ.
3. Giải pháp về tăng cường năng lực và nâng cao phẩm chất đạo đức của chủ thể
áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Đối với cơ quan điều tra: trước hết, cơ quan điều tra cần nâng cao chất lượng đội
ngũ điều tra viên, thường xuyên mở các lớp huấn luyện nhằm nâng cao ý thức pháp luật,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho điều tra viên. Bởi lẽ, trên thực tế điều tra viên là người
tiến hành tố tụng trực tiếp điều tra lập hồ sơ vụ án, đê xuất thủ trưởng cơ quan điều tra ra
14
lệnh tạm giam. Đặc biệt, trong tình hình tội phạm ngày càng tinh vi với những thủ đoạn
tinh vi thì cũng đòi hỏi trình độ của điều tra viên cũng ngày càng phải nâng cao hơn về
chuyên môn nghiệp vụ để nhận biết được rõ ràng đâu là hành vi phạm tội.
Trước khi tạm giam cơ quan điều tra cần cân nhắc sự cần thiết của việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam. Quán triệt quan điểm tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong nghị
quyết số 49/NQ- TW ngày 2/6/2005 bộ chính trị đó là xác định rõ căn cứ để tạm giam, hạn
chế việc áp dụng tạm giam đối với một số tội phạm.
Đối với VKS: với chức năng là kiểm sát hoạt động tố tụng nói chung trong đó có việc
áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam nên vai trò của VKS có ý nghĩa quan trọng trong
quá trình áp dụng biện pháp này. VKS cần kiểm sát chặt chẽ việc phê chuẩn lệnh tạm giam
đảm bảo không gây khó dễ cho cơ quan điều tra trong quá trình điều tra vụ án mà cũng
không gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền của những người không thực sự phải áp
dụng biện pháp tạm giam.
Để thực hiện được điều này thì VKS phải kiện toàn đội ngũ kiểm sát viên nhất là
nâng cao nghiệp vụ, tăng cường việc tập huấn cho đội ngũ kiểm sát viên đặc biệt đó là khi
tội phạm ngày càng có diễn biến phức tạp. Đồng thời VKS cũng phải tăng cường hoạt động
kiểm tra, giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng nhằn đản
bảo một cách tốt nhất nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của người dân, kịp thời phát hiện và xử lý kịp thời những trường hợp cố tình vi phạm
của các cơ quan như ép cung, mớm cung tra tấn người bị tạm giam.
Đối với tòa án cần phải thường xuyên tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho các thẩm
phán và hội thẩm về vấn đề áp dụng thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam. Cần
phải có những văn bản hướng dẫn chi tiết về các trường hợp áp dụng về thẩm quyền ra lệnh
bắt bị can, bị cáo để tạm giam của chánh án, phó chánh án và của hội đồng xét xử về thời
hạn tạm giam trong từng giai đoạn của quá trình xét xử.
4. Giải pháp về việc xử lý các trường hợp vi phạm.
Về trách nhiệm của người có thẩm quyền trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam đặc biệt cần quy định rõ ràng và đầy đủ trách nhiệm của họ cũng như các
chế tài mà họ có thể bị áp dụng nếu họ có những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình
thực thi nhiệm vụ của mình cả về tòa án dân sự, tòa án hành chính cũng như tòa án hình sự.
15
Thực tế hiện nay pháp luật cũng có những quy định cụ thể về trường hợp này. Vấn
đề bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng
hình sự gây ra đã được Ủy ban thường vụ quốc hội ra nghị quyết số 38 ngày 17/3/2003 còn
trách nhiệm hình sự thì cũng đã được BLHS quy định. Nhưng trong những vụ án có liên
quan đến sai phạm của các cá nhân có thẩm quyền trong quá trình áp dụng pháp luật có liên
quan đến tạm giam thì thường “phớt lờ” hoặc giải quyết cho qua chuyện gây bất bình trong
quần chúng nhân dân. Điều này cần được các cơ quan có thẩm quyền thực hiện nghiêm
minh theo đúng quy định cuả pháp luật.
5. Kiến nghị về việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện quy định của
BLTTHS.
- Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với các trường hợp đặc biệt không
được miễn trừ chính sách ưu đãi khi áp dụng biện pháp ngăn chặn này cần được quy định:
- Trường hợp bị can, bị cáo đang mang thai, đang nuôi con nhỏ người già yếu ngừoi
bị bệnh nặng người nước ngoài cần được hưởng chế độ giam giữ theo quy định của quy chế
về tạm giam, tạm giữ.
- Tăng cường năng lực và nâng cao phẩm chất đạo đức của các chủ thể áp dụng biện
pháp tạm giam. Chấp hành nghiêm túc các tiêu chuẩn đối cới các chức danh Điều tra viên,
kiểm sát viên, thẩm phán đồng thời sửa đổi, bổ sung những quyết định chưa phù hợp chuẩn
hóa các chức danh.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Tạm giam không chỉ là công cụ, phương tiện để các cơ quan tiến hành tố tụng sử
dụng nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc các hành vi gây khó khăn cho công tác điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam những
năm gần đây tình hình vi phạm pháp luật còn nhiều phổ biến có nơi diễn ra nhiều hiện
tượng vi phạm pháp luật như: tạm giam quá hạn, tạm giam những đối tượng mà pháp luật
không quy định tạm giam. Do đó, các quy định về tạm giam chỉ đáp ứng được đầy đủ yêu
cầu của thực tiễn đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm ở nước ta trong giai đoan hiện
nay, chưa bảo đảm tự do, dân chủ của công dân. Vì vậy cần hoàn thiện hơn nữa các quy
định của pháp luật về vấn đề này.
Một số từ viết tắt trong bài:
16
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự.
VKS : viện kiểm sát
TTHS : tố tụng hình sự
BPNC: biện pháp ngăn chặn
Nguồn trích dẫn:
(1) Xem Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2011, tr.193.
(2) Xem Báo cáo tổng kết công tác VKSND tỉnh Hải Dương năm 2008.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.Giáo trình luật tố tụng hình sự, Trường đại học luật Hà Nội,Nxb. Tư pháp, Hà Nội,
2006.
2.Bộ luật tố tụng hình sự của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nxb.Lao
động, Hà Nội, 2009.
3. Tạm giam trong tố tụng hình sự - Khóa luận tốt nghiệp/ Vũ Đình Tiến, Trường đại
học Luật Hà Nội, Hà Nội, 1997
4.Các biện pháp ngăn chặn, tạm giam, tạm giữ trong tố tụng hình sự, Thực trạng,
nguyên nhân và giải pháp, Luận án tiến sỹ luật học Nguyễn Văn Điệp, Hà Nội , 2005.
5.Tạm giam trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Khóa luận tốt
nghiệp/ Hà Đình Hiệu. Hà Nội, 2010
17