Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

tiểu luận Xây dựng giai cấp nông dân giàu kinh nghiệm, có khả năng ứng dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại và đội ngũ các nghệ nhân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.07 KB, 40 trang )

MỤC LỤC

Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, để
bảo đảm sự thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước
luôn đặt vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là vấn đề có ý nghĩa chiến lược.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện nước ta, nhiều chủ trương,
đường lối đúng đắn của Đảng ra đời, góp phần giải phóng sức lao động của các tầng
lớp nhân dân nói chung, giai cấp nông dân nói riêng, tạo đà tăng trưởng kinh tế và ổn
định chính trị - xã hội. Bước đột phá cho sự nghiệp đổi mới nói chung và sản xuất
nông nghiệp nói riêng là đường lối đổi mới của Đại hội VI, và tiếp theo là “Nghị
quyết 10” trong nông nghiệp. Các chỉ thị, nghị quyết của các đại hội và hội nghị
Trung ương Đảng khoá VII, VIII, IX, X, XI sau này cũng luôn tập trung giải quyết
những vấn đề then chốt trong nông nghiệp. Dưới tác động của những chính sách đó,
nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, góp phần quan
trọng đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị,
tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hóa (CNH) – hiện đại hóa (HĐH) đất nước.
Dù cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch nhưng giai cấp nông dân nước ta hiện
vẫn chiếm gần 73% dân số và 56% lực lượng lao động cả nước. Trong bối cảnh hiện
nay, ít quốc gia có lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp đông đảo như vậy.
Nếu giải quyết tốt ba vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn thì kinh tế nông
nghiệp và xã hội nông thôn sẽ đóng góp to lớn cho tiến trình CNH. Việc tìm cách
phát huy vai trò của nông dân cũng chính là tìm ra biện pháp để thúc đẩy sự phát triển
kinh tế nông nghiệp, thực hiện CNH, giải quyết vấn đề xã hội, hướng tới sự phát triển
bền vững mà các quốc gia hiện nay đều rất quan tâm, đặc biệt là Việt Nam. Vì vậy,
việc nghiên cứu để tìm ra phương hướng, giải pháp để xây dựng đội ngũ nông dân
giàu kinh nghiệm, có khả năng ứng dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hiện


đại và đội ngũ các nghệ nhân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới trong giai đoạn
hiện nay là một việc cấp bách và cần thiết.
Là một sinh viên chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, thì việc nghiên cứu


vấn đề này là cần thiết và bổ sung kiến thức cho ngành học. Vì vậy, tôi xin chọn đề
tài “Xây dựng đội ngũ nông dân giàu kinh nghiệm, có khả năng ứng dụng khoa học
công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại và đội ngũ các nghệ nhân, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới trong giai đoạn hiện nay”.


B – NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VỀ VẤN ĐỀ NÔNG DÂN
1.1 Quan niệm của V.I.Lênin về những đặc điểm cơ bản của nông dân
Thứ nhất, nông dân vừa là những người lao động, vừa là những người tư hữu
nhỏ. Mặc dù khác nhau về trình độ, địa vị kinh tế và lợi ích, nhưng giữa họ có một
điểm chung là đều sinh sống bằng cách làm thuê cho các giai cấp bóc lột ở nông thôn
hoặc là tồn tại bằng chính lao động của bản thân mình với những điều kiện sẵn có về
tư liệu sản xuất chứ không sống bằng việc bóc lột lao động của người khác. Lao động
đó có thể đủ đáp ứng nuôi sống gia đình và nhu cầu sản xuất của họ; thậm chí, với
trung nông thì lao động đó có thể tạo ra sản phẩm dư thừa để tích luỹ. “Giai cấp đó,
một mặt là người tư hữu, mặt khác lại là người lao động. Nó không bóc lột những
người lao động khác”[6; tr.237]
Lenin đồng thời nhấn mạnh họ là những người sản xuất hàng hoá, như những
người đầu cơ mà bản chất tư hữu của nông dân là cơ sở kinh tế sâu xa của hành vi
đầu cơ ấy. Theo Người, “nông dân là người đầu cơ, vì anh ta bán lúa mì, một sản
phẩm cần thiết mà khi người ta thiếu nó thì người ta có thể đem toàn bộ tài sản ra để
đổi” và chính vì lẽ đó, họ được coi là một giai cấp đặc biệt.[6; tr.435]
Thứ hai, nông dân không có hệ tư tưởng độc lập. Tư tưởng của họ luôn dao
động, đầy tính thực tế và phụ thuộc rất lớn vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị.
Nông dân chỉ sẵn sàng tin và đi theo giai cấp nào mang lại lợi ích cho họ. Đây có thể
được xem là một đặc điểm quan trọng của nông dân trong bất kỳ giai đoạn nào. Với
bản chất tư hữu và thái độ dao động, ngả nghiêng, người nông dân không dễ dàng và
ngay tức khắc tin theo và ủng hộ giai cấp vô sản được. Người viết: “Nông dân sẽ



không tin bất cứ một lời nói nào, bất cứ một cương lĩnh nào… Nông dân chỉ tin vào
hành động, vào kinh nghiệm thực tiễn”[6; tr.443]
Lenin đã chỉ rõ rằng, tầng lớp này thường nghiêng ngả giữa vô sản và bọn
culắc. Một số ít trung nông nhờ may mắn có thể trở thành culắc, bởi vậy họ nghiêng
về phía culắc, nhưng phần lớn thì không thể trở thành culắc được. Do vậy, nếu những
người xã hội chủ nghĩa và những người cộng sản biết cách tuyên truyền, giáo dục nói
điều hơn lẽ thiệt với trung nông, thì sẽ thuyết phục được họ, làm cho họ thấy rằng
chính quyền Xô viết có lợi cho họ hơn bất cứ chính quyền nào khác, vì mọi chính
quyền khác đều áp bức và bóc lột họ. Chính vì đặc điểm đó của nông dân mà Lenin
yêu cầu những người cộng sản, bất luận thế nào, cũng không thể dùng bạo lực để ép
nông dân đi theo mình, mà phải cương quyết xây dựng mối quan hệ hoà thuận với họ.
Thứ ba, cùng với sự phát triển của cơ cấu kinh tế thì cơ cấu giai cấp nông dân
luôn có sự biến đổi mạnh mẽ.
Trước cách mạng xã hội chủ nghĩa, do sự tác động của cơ chế kinh tế hàng hoá
và nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ cấu giai cấp nông dân Nga có sự biến đổi mạnh
mẽ. Một phần trong số họ gia nhập vào giai cấp bóc lột ở nông thôn, một phần lớn trở
thành những người lao động làm thuê. Điển hình trong đó là tầng lớp trung nông.
Tầng lớp này có thể do điều kiện vốn có của mình mà phát triển trở thành những
người bóc lột sức lao động của người khác, nhưng cũng có không ít trung nông không
chịu nổi sự cạnh tranh, bị phá sản và phải tham gia vào đội quân lao động làm thuê.
Cách mạng vô sản thành công đã xoá bỏ sự áp bức, bóc lột giai cấp, xoá bỏ sự thống
trị của bọn địa chủ đối với giai cấp nông dân, nhưng cũng chính điều kiện đó lại giúp
cho người nông dân thiết lập cơ sở để trở thành tiểu chủ. Lenin viết: “Những điều
kiện sinh hoạt kinh tế và chính trị của họ đã không làm cho họ gần nhau, mà lại còn
làm cho họ xa nhau, rời nhau, biến họ thành hàng triệu người tiểu sở hữu riêng lẻ” .
[7; tr.161]



Chính vì lẽ đó mà giai cấp nông dân còn có cơ sở tồn tại lâu dài, cho dù cách
mạng vô sản đã thành công. Do vậy, Lenin cho rằng, nếu ai đó nghĩ tới việc có thể
nhanh chóng xoá bỏ được giai cấp nông dân trong một thời gian ngắn thì người đó là
những người viển vông, không tưởng.
Thứ tư, giai cấp nông dân tất yếu sẽ đi theo giai cấp vô sản, ủng hộ giai cấp vô
sản tiến hành thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong xã hội có áp bức, bóc lột, nông dân là giai cấp bị áp bức, bóc lột một
cách nặng nề, bị giam hãm và phải sống trong những điều kiện thấp kém. Vì vậy, để
thay đổi cuộc sống của mình, giai cấp nông dân chỉ có thể ủng hộ và đi theo con
đường cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo nhằm xoá bỏ tầng lớp địa chủ và giai
cấp tư sản. Lenin khẳng định: “Do địa vị kinh tế của mình trong xã hội tư sản, nông
dân nhất định phải đi theo hoặc công nhân, hoặc giai cấp tư sản. Không có con đường
trung gian” .[5; tr.438]. Một khi nông dân đã hoàn toàn tin tưởng vào giai cấp vô sản
thì họ sẽ hết lòng đi theo và phục vụ cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và khi
đó, cách mạng nhất định thành công. Điều đó đã được vạch ra trong lý luận của
C.Mác và được thực tiễn cách mạng vô sản Nga chứng minh.
Như vậy, theoLenin, nông dân là giai cấp được hình thành từ rất lâu trong lịch
sử. Họ là những người sinh sống và lao động ở nông thôn gắn với các tư liệu sản xuất
nhỏ lẻ, phân tán mà mình sở hữu. Trong các xã hội có áp bức, bóc lột, cùng với giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân là những người bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất. Do
vậy, con đường giải phóng của nông dân chỉ có thể là đi theo giai cấp vô sản tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.


1.2. Quan điểm của V.I.Lênin về vai trò của nông dân trong cách mạng xã hội xã hội
chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng bao gồm hai giai đoạn. Giai
đoạn thứ nhất là giai đoạn giai cấp công nhân cùng với các giai cấp, tầng lớp nhân
dân lao động khác đấu tranh giành chính quyền và giai đoạn thứ hai là giai đoạn giai
cấp công nhân sử dụng chính quyền đã giành được và cùng với các tầng lớp nhân dân

lao động khác thực hiện công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới.
Từ thực tiễn cách mạng thế giới, thực tiễn cách mạng dân chủ tư sản và công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô viết. Lenin đã đề cập nhiều đến vai
trò của giai cấp nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
Một là, Leninđã khẳng định vai trò quan trọng của giai cấp nông dân trong
đấu tranh giành chính quyền nhà nước.
Trong hoàn cảnh nước Nga cuối thế kỷ XIX đấu tranh chống chế độ Nga
hoàng, Lenin chỉ rõ một trong những điều kiện để giai cấp công nhân giữ vững được
vai trò lãnh đạo và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là giai cấp công nhân phải
được sự ủng hộ của nông dân. Chỉ có sức mạnh của sự liên minh giai cấp giữa giai
cấp công nhân và giai cấp nông dân, giai cấp công nhân mới có cơ sở để thực hiện
thắng lợi cuộc đấu tranh cách mạng nhằm lật đổ giai cấp tư sản thống trị và các thế
lực phản động khác, giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân và các tầng lớp
nhân dân lao động.
Trong thời kỳ cách mạng dân chủ tư sản, mục tiêu chính đề ra là lật đổ chế độ
chuyên chế Nga hoàng, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân. Lenin nhận
thức rõ các phong trào nông dân đấu tranh đòi dân chủ cũng có tác động lớn tới
phong trào đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội của công nhân, vì cuộc khởi nghĩa của
nông dân thành công, cuộc cách mạng dân chủ thắng lợi sẽ dọn đường cho một cuộc


đấu tranh thực sự và kiên quyết cho chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở chế độ cộng hoà dân
chủ. Do đó, để giành thắng lợi triệt để cho cuộc cách mạng đó và tiến nhanh sang giai
đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân sẽ phải dốc toàn lực nhằm xây
dựng khối liên minh công - nông, giúp đỡ toàn thể giai cấp nông dân làm cách mạng
dân chủ. Đó là mối quan hệ hữu cơ, gắn bó một cách tự nhiên giữa hai giai cấp này.
Mối quan hệ này được xây dựng trên nền tảng vốn có là những lợi ích trước mắt và
lâu dài cả về chính trị lẫn kinh tế của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân - một
lực lượng đông đảo nhất trong xã hội. Nhấn mạnh vai trò của giai cấp nông dân cũng
như của liên minh công nông trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới ở nước

Nga, Lenin đã khẳng định: “Chỉ có lập nên chuyên chính dân chủ - cách mạng của
giai cấp vô sản và nông dân thì cách mạng dân chủ mới có thể giành được thắng lợi
quyết định”[5;tr.356]
Giai cấp nông dân cần phát huy được vai trò của mình vì vậy giai cấp vô sản
phải nhận thấy và tranh thủ được sức mạnh tiềm tàng của nông dân, phải tin vào sức
mạnh đó và tạo mọi điều kiện để nông dân tham gia tích cực vào phong trào của
mình, tức là sử dụng chính sức mạnh của nông dân để giải phóng cho nông dân.
Lenin nói: “Nông dân với tư cách là quần chúng, thì muốn tìm sự lãnh đạo của Đảng
cách mạng và cộng hòa… Nông dân thì có thể tiến hành cách mạng đến cùng được,
và chúng ta cần hết sức giúp cho họ làm được như thế”[5; tr.113]

Hai là, Leninkhẳng định vai trò của giai cấp nông dân trong sự nghiệp xây
dựng xã hội mới
Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã đánh dấu sự ra đời của một chế độ xã
hội mới, một kiểu nhà nước mới. Nước Nga Xô viết bước vào thời kỳ xây dựng và
bảo vệ chính quyền cách mạng với vô vàn khó khăn và thử thách. Trước hết, liên
minh với giai cấp nông dân là điều kiện để giai cấp vô sản có thể nâng cao sức mạnh,


bảo đảm giữ vững, củng cố và phát huy vai trò của chính quyền cách mạng, từng
bước xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Lenin luôn nhấn mạnh điều kiện khác biệt của nước Nga là công nhân công
nghiệp chiếm thiểu số, còn tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số. Đối với một nước như
vậy thì cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thắng lợi triệt để với hai điều kiện:
“Điều kiện thứ nhất là có sự ủng hộ kịp thời của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
một nước hay một số nước tiên tiến… Điều kiện nữa là sự thỏa thuận giữa giai cấp vô
sản đang thực hiện sự chuyên chính của mình hoặc đang nắm chính quyền nhà nước
với đại đa số nông dân” [7; tr:69]. Lenin cho rằng, chừng nào cách mạng vô sản còn
chưa nổ ra ở các nước khác, thì chỉ có thỏa thuận với nông dân mới có thể cứu vãn
được cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga.

Cách mạng thành công, chính quyền non trẻ mới ra đời đã gặp phải sự chống
đối quyết liệt của các lực lượng phản động trong và ngoài nước. Chính vì vậy, vấn đề
bảo vệ và củng cố chính quyền được đặt lên hàng đầu. Và giai cấp công nhân phải
làm thế nào để đạt được mục tiêu đó? Về điều này, như Lenin đã khẳng định, “chỉ
nhờ có sự ủng hộ hết sức thành thực của đa số nhân dân lao động, chính quyền đó
mới có thể đứng vững được” [6;tr:75]
Ba là, nông dân cung cấp sản phẩm nông nghiệp để đảm bảo nhu cầu của xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời góp phần khôi phục và phát triển nền đại
công nghiệp, tạo cơ sở vững chắc để giai cấp công nhân từng bước xây dựng và phát
triển nền kinh tế mới cũng như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Việc nông dân tích cực sản xuất nhằm cung cấp lương thực cũng như những
sản phẩm nông nghiệp khác sẽ giúp đưa nền kinh tế nước Nga ra khỏi sự khủng
hoảng do tình trạng thiếu lương thực xảy ra triền miên sau cách mạng. Theo Lenin,
Đảng phải thuyết phục để công nhân và nông dân thấy rằng, nếu không có sự hợp lực


mới, không có các hình thức đoàn kết mới trong nội bộ nhà nước thì sẽ không thoát ra
khỏi tình trạng phá sản về kinh tế.
Phân tích mối quan hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp, Lenin đã chỉ ra cơ sở
thực sự và duy nhất để làm tăng các nguồn dự trữ, để xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ
có thể là đại công nghiệp; bởi lẽ, không có công xưởng lớn với quy mô như chủ nghĩa
tư bản đã tạo ra, không có một nền đại công nghiệp được tổ chức cao, thì không thể
nói đến chủ nghĩa xã hội nói chung, càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội ở một
nước nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, ông cũng chỉ rõ, nếu không có dự trữ lương
thực đầy đủ và thực sự đảm bảo thì nhà nước hoàn toàn không thể tập trung chú ý để
tiến hành có hệ thống công tác khôi phục đại công nghiệp dù là trên một quy mô nhỏ
bé. Ngay sau khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công, Lenin thẳng thắn chỉ ra
rằng, những người cộng sản phải tự coi là mắc nợ nông dân và phải trả “món nợ” đó
bằng cách khôi phục nền công nghiệp.
Trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”,Lenin đã khẳng định dứt khoát rằng,

giai cấp công nhân phải tạo mọi điều kiện giúp nông dân cải thiện đời sống của mình.
Tư tưởng đúng đắn mang tầm chiến lược và đậm nét nhân văn đó xuất phát từ việc
ông ý thức sâu sắc được vai trò của giai cấp nông dân trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở một nước mà nông dân chiếm đại đa số. Lenin khẳng định: “Phải bắt đầu từ
nông dân. Người nào không hiểu điều đó, người nào có ý coi đưa vấn đề nông dân lên
hàng đầu như thế là một sự “từ bỏ” hoặc tương tự như sự từ bỏ chuyên chính vô sản,
thì chẳng qua chỉ là vì người đó không chịu suy nghĩ kỹ càng vấn đề đó và bị lời nói
trống rỗng chi phối”[7; tr:263]
Trong diễn văn tại Đại hội ngành nông nghiệp tỉnh Mátxcơva tổ chức vào
tháng 11 năm 1921, V.I.Lênin đã tiếp tục nhấn mạnh vấn đề phát triển nền kinh tế nói
chung, trước hết là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Như vậy, vấn đề nông nghiệp,
nông thôn và nông dân là vấn đề cơ bản và mấu chốt nhất trong giai đoạn đầu xây


dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ có sự tham gia của giai cấp nông dân vào cách mạng xã
hội chủ nghĩa mới có thể đảm bảo cho thắng lợi toàn diện và triệt để của giai cấp
công nhân. [1]

1.3. Tư tưởng của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề nông dân
và một số quan điểm về nghệ nhân:
Trong quá khứ, khi xã hội chưa có các phương tiện truyền thông, đội ngũ nghệ
sĩ chuyên nghiệp chưa ra đời, nghệ nhân dân gian chính là chủ thể của quá trình sáng
tạo - truyền bá các tài sản văn hóa phi vật thể, từ điệu hát, câu hò trong sinh hoạt hằng
ngày đến hoạt động văn hóa tinh thần có quy tắc và tổ chức chặt chẽ như ca trù, hát
quan họ, hát xoan, hát ví dặm, đàn ca tài tử, ca bài chòi... Các tài sản văn hóa ấy được
trao truyền, sáng tạo và bổ sung trong tiến trình lịch sử, trở thành các tài sản văn hóa
mà bản chất là sự tích tụ giá trị biểu thị cho thế giới tâm hồn và khả năng sáng tạo
thẩm mỹ của cộng đồng địa lý - dân cư, góp phần làm nên sự phong phú, độc đáo của
bản sắc văn hóa dân tộc. Trên thực tế, hầu như các thế hệ nghệ nhân không có văn
bản ghi chép, nhưng sự gắn bó với văn hóa cộng đồng, nhiệt huyết và trí nhớ, đã giúp

họ giữ vai trò hết sức quan trọng trong sự sáng tạo - truyền bá các giá trị văn hóa
truyền thống
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn quan tâm và
nhận thức sâu sắc nông nghiệp, nông dân và nông thôn về lý luận cũng như thực tiễn
dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, đây cũng là vấn đề được Hồ
Chí Minh vận dụng thành công trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Cách nhìn nhận,
đánh giá về nông dân của Hồ Chí Minh hết sức sâu sắc, tinh tế. Người không dừng lại
ở thái độ chính trị mà còn nghiên cứu tâm lý, bản chất, tập quán người nông dân làm
nông nghiệp trong cộng đồng nông thôn.


Về chính trị, nông dân là cơ sở chính của Mặt trận Dân tộc thống nhất trong
kháng chiến; sau độc lập, liên minh công - nông - trí thức là nền tảng của chính
quyền, là công cụ sắc bén trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chế độ mới. Về mặt
kinh tế - xã hội, phải coi nông nghiệp và công nghiệp như hai chân của nền kinh tế.
Người nhấn mạnh: “Nước ta là một nước nông nghiệp... Muốn phát triển công
nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm
chính. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở để phát triển công
nghiệp”[11; tr:180]
Trên tinh thần đó, Người đã tìm ra quyết sách chiến lược đúng đắn, chỉ đạo sản
xuất thắng lợi, khôi phục và phát triển kinh tế, bắt đầu từ nông nghiệp. Nhìn lại nạn
đói 1945 và sự hồi phục sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc (1955 - 1960), có hơn
80% số hộ nông dân có mức sống ngang bằng tầng lớp trung nông, đời sống cư dân
nông thôn được ổn định, tác động tích cực đến hoạt động kinh tế ở thành thị. Có thể
khẳng định, trong 10 năm (1955 - 1965) đánh dấu mốc quan trọng về thành tựu kinh
tế - xã hội ở nông thôn miền Bắc. [13]
Giai cấp nông dân là một lực lượng có vai trò hết sức quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Lịch sử 80 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng
đã khẳng định những đóng góp to lớn của nông dân đối với sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nông dân nước ta chiếm hơn 90%
dân số, là nạn nhân chủ yếu của chế độ thực dân. Giải phóng dân tộc, mà chủ yếu là
nông dân là nhiệm vụ quan trọng số một của cách mạng. Từ những năm 20 của thế kỷ
XX, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã xác định cần phải thu hút đại bộ phận giai
cấp nông dân vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo. Năm 1927,
Trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Người còn nêu ra: “Bây giờ tư bản lại đi áp bức
công nông, cho nên công nông là người chủ cách mệnh. 1. Là vì công nông bị áp bức


nặng hơn. 2. Là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết. 3. Là vì công
nông là người tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì
được cả thế giới, cho nên họ gan góc. Vì những cớ ấy, nên công nông là gốc cách
mệnh”.[9; tr:266]
Đến năm 1930, trong “Cương lĩnh đầu tiên” của Đảng do Người soạn thảo
cũng xác định rõ: Đảng phải lôi cuốn đại đa số dân cày và phải dựa vào hạng dân cày
nghèo, lãnh đạo họ làm cách mạng, đồng thời phải liên lạc với tiểu tư sản, trí thức,
trung nông để kéo họ đi cùng giai cấp vô sản. Đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ
và tư sản chưa rõ mặt phản cách mạng thì cũng phải lợi dụng, ít ra cũng phải làm cho
họ trung lập. Trong khi liên lạc với các giai cấp, không được nhân nhượng lợi ích của
công nông mà đi vào đường thoả hiệp. Chủ trương trên cho thấy, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc và Đảng ta đã nắm chắc tình hình thực tiễn Việt Nam, đánh giá đầy đủ và đúng
đắn vị trí, vai trò, khả năng của các giai cấp, tầng lớp trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc Việt Nam.
Trong “Luận cương chính trị” năm 1930, Đảng ta xác định: Trong cách mạng
tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chính, nhưng vô sản có
cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được.Đảng ta đã từng bước tổ chức,
rèn luyện, giác ngộ giai cấp nông dân trong quá trình đấu tranh cách mạng.
Cùng với công nhân và những người trí thức yêu nước, giai cấp nông dân đã
tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và những tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc,
trở thành một trong hai động lực chính của cách mạng. Những người tiên tiến trong

giai cấp nông dân đã gia nhập Đảng, gánh vác nhiệm vụ trọng đại của dân tộc. Hiện
tượng đặc thù này vào những thập niên đầu thế kỷ XX ở Việt Nam đã nói lên tính
chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối cứu nước đúng
đắn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, tài tổ chức và giáo dục nông dân của Đảng, đồng
thời biểu hiện sự trưởng thành của giai cấp nông dân Việt Nam về mặt giác ngộ dân


tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là nguồn sức mạnh cơ bản làm nên những thắng lợi vẻ
vang của cách mạng nước ta từ khi có Đảng.
Báo cáo trước Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II,
ngày 25-1-1953 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nền tảng của vấn đề dân tộc
là vấn đề nông dân, vì nông dân là tối đại đa số trong dân tộc. Nền tảng của cách
mạng dân chủ cũng là vấn đề nông dân, vì nông dân là lực lượng cách mạng đông
nhất chống phong kiến, chống đế quốc. Hoàn cảnh nước ta hiện nay, bên địch thì giặc
Pháp dựa vào địa chủ phong kiến phản động do bù nhìn Bảo Đại đứng đầu để phá
hoại kháng chiến, bên ta thì bộ đội, sản xuất lương thực, đi dân công nhiều hơn hết là
nông dân. Mấy năm trước, vì hoàn cảnh đặc biệt mà ta chỉ thi hành giảm tô, giảm tức,
như thế là đúng. Nhưng ngày nay, kháng chiến đã 7 năm, đồng bào nông dân hy sinh
cho Tổ quốc, đóng góp cho kháng chiến đã nhiều và vẫn sẵn sàng hy sinh, đóng góp
nữa. Song họ vẫn là lớp người nghèo khổ hơn hết, vì thiếu ruộng hoặc không có
ruộng cày. Đó là một điều rất không hợp lý. Muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi,
dân chủ nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và
chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân”[10; tr:15-16]
Từ cuối năm 1954, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và nhất là sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước bước vào giai đoạn
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc
hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường mới mẻ chưa có tiền lệ trong lịch
sử. Muốn hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đó, Đảng phải biết phát huy những nhân tố
quyết định nhất cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó
vấn đề nông dân có tầm quan trọng đặc biệt.

Giai cấp nông dân nước ta hăng hái đi theo Đảng. Nắm vững đặc điểm của tầng
lớp trung nông nước ta, Đảng ta đã chỉ rõ, đối tuợng đoàn kết của giai cấp công nhân
còn có cả trung nông, lôi kéo trung nông, giai cấp công nhân mới đủ sức cô lập và cải


tạo tư sản. Hơn nữa, bất cứ nước nào sau cải cách ruộng đất thì tầng lớp trung nông
trở thành lực lượng đông đảo nhất, nhân vật trung tâm ở nông thôn. Lênin đã từng
nói: Đối với trung nông là một liên minh tự nguyện, đầy tự tin và chân thành. Đảng ta
đã đánh giá đúng tầng lớp trung nông. Đồng chí Lê Duẩn đã viết: “Vấn đề nông dân ở
nước ta, phải coi trọng trung nông… không nên có sự phân biệt về quyền lợi và nghĩa
vụ giữa bần nông và trung nông… Khẩu hiệu “phấn đấu đưa mức sống của nông dân
lên ngang mức sống của trung nông lớp trên” chính là mục tiêu để đi đến xoá bỏ ranh
giới và sự khác biệt giữa bần nông và trung nông”[2; tr.245-247]
Gắn CNH – HĐH với liên minh công – nông, nắm vững đặc điểm nông dân
nước ta, Đảng và Nhà nước ta tiến hành từng bước công nghiệp hoá, coi đó là con
đường tăng cường liên minh công nông, điều quan trọng hơn là chăm lo cải thiện đời
sống vật chất và văn hoá cho nông dân, tăng cường giáo dục ý thức làm chủ, nâng
cao trình độ chính trị, khoa học - kỹ thuật cho nông dân. Cơ sở kinh tế của liên minh
công nông trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, trong đó có công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Ngay từ
khi bước vào thời kỳ quá độ, Đảng ta đã xác định: Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện đường
lối đổi mới của Đại hội VI, từ tháng 12-1986, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều
chủ trương, chính sách, cơ chế, biện pháp mới nhằm giải phóng sức sản xuất, phát
triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhờ vậy,
nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta đã có những chuyển biến mạnh mẽ.
Nước ta là nước nông nghiệp, muốn trở thành nước công nghiệp thì khâu đột
phá trước hết phải trên lĩnh vực nông nghiệp, phải là địa bàn nông thôn, nơi có gần
80% dân cư sinh sống, chiếm 75% lực lượng lao động xã hội. Chính vì thế, tiếp theo
Đại hội VI và Đại hội VII, Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh phải rất quan tâm đến

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Đây là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất trong nông nghiệp và bộ mặt


kinh tế - xã hội nông thôn, biến lao động thủ công thành lao động cơ giới, đưa sản
xuất nhỏ lên thành sản xuất lớn hàng hoá, là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng các hoạt động sản xuất phi nông
nghiệp nhằm khai thác mọi tiềm năng tạo ra năng suất lao động, hiệu quả kinh tế - xã
hội cao trong nông nghiệp, từ đó biến đổi bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn tiến gần
với thành thị: “Có chính sách khuyến khích và trợ giúp nông dân trong xây dựng kết
cấu hạ tầng, chuyển giao công nghệ, giải quyết các khó khăn về vốn, về giá cả vật tư
nông nghiệp và hàng nông sản, về thị trường tiêu thụ sản phẩm…”[4; tr: 87-88]
CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn là sự nghiệp của toàn Đảng, trong đó lực lượng
cơ bản là nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn thành công, cần phải thực hiện hàng loạt các biện
pháp về kinh tế - kỹ thuật; tạo ra sự chuyển biến mới thực sự trong tư duy của người
nông dân và những người sống ở nông thôn; những biện pháp về năng suất lao động
và đất đai để tạo ra lượng hàng hoá nông sản lớn, bảo đảm chất lượng, mẫu mã, giá
thành… mà thị trường trong nước và thế giới có thể chấp nhận được.Nhìn lại lịch sử
80 năm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định rằng nắm
vững và giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân, đáp ứng nhiệm vụ cách mạng của từng
giai đoạn lịch sử nhất định là một trong những nguyên nhân quan trọng làm nên
những thắng lợi của cách mạng Việt Nam.


CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ NÔNG DÂN VÀ ĐỘI NGŨ CÁC NGHỆ
NHÂN, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
2.1 Thực trạng đội ngũ nông dân và đội ngũ các nghệ nhân Việt Nam hiện nay
2.1.1 Thành tựu

Nông dân nước ta hiện nay chiếm gần 70% dân số và khoảng 50% lực lượng
lao động xã hội. Thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp
nông dân khẳng định vai trò chủ thể trong phát triển nông nghiệp và xây dưng nông
thôn mới, cùng với nhân dân cả nước tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, đoàn
kết, tự lực, tự cường, lao động cần cù, thông minh, sáng tạo đã tạo nên những thành
tựu khá toàn diện trên mặt trận sản xuất nông nghiệp. Trong bối cảnh khủng hoảng tài
chính, suy thoái kinh tế toàn cầu thì kinh tế nông nghiệp luôn là trụ đỡ, là nhân tố tạo
sự ổn định cho phát triển đất nước, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô, tăng trưởng ổn định, bền vững, đến năm 2014 đã chặn được đà tụt giảm tăng
trưởng nông nghiệp; bảo đảm an sinh xã hội, tỷ lệ hộ nghèo giảm liên tục qua các
năm; đời sống của nhân dân, trong đó đại bộ phận là nông dân được cải thiện.
Nông dân phấn khởi trước những thành tựu to lớn của đất nước sau gần 30 năm
đổi mới, đã đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, vị thế và uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế ngày càng nâng cao. Nông dân tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng, sự điều hành của Chính phủ; tích cực thực hiện chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn tạo công ăn việc làm,
tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho nông dân như: Chương trình mục tiêu quốc gia
về xây dựng nông thôn mới và Phong trào “cả nước chung sức xây dựng nông thôn
mới”; đào tạo nghề cho lao động nông thôn; hỗ trợ xây dựng mô hình cánh đồng lớn;


hỗ trợ giảm nghèo bền vững cho các huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao; khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; ứng dụng, chuyển giao tiến bộ
khoa học - kỹ thuật; chính sách tín dụng cho vay lãi suất ưu đãi giúp nông dân phát
triển sản xuất, kinh doanh; Chính phủ kịp thời triển khai gói 16.000 tỷ đồng hỗ trợ
cho ngư dân vay đóng tàu đánh cá xa bờ, đóng tàu và nâng cấp thiết bị cho lực lượng
cảnh sát biển, kiểm ngư... Nông dân phấn khởi về Hiến pháp sửa đổi và Luật Đất đai
(sửa đổi) đã được kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII thông qua, đây là sự kiện trọng
đại đối với đất nước, nhân dân nói chung và nông dân nói riêng.
Đặc biệt, cán bộ, hội viên và nông dân rất phấn khởi khi Thủ tướng Chính phủ

ban hành Quyết định 673/QĐ-TTg, ngày 10/5/2011 về việc Hội Nông dân Việt Nam
trực tiếp thực hiện và phối hợp thực hiện một số chương trình, đề án phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội nông thôn giai đoạn 2011- 2020; Quyết định 1956/QĐ-TTg, ngày
27/01/2009 về việc phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020; Quyết định 1045/QĐ- TTg, ngày 7/7/2010 về việc phê duyệt Đề án đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ Hội Nông dân Việt Nam giai đoạn 2010- 2015; Quyết định số
81/2014/QĐ-TTg, ngày 31/12/2014 về việc phối hợp giữa các Bộ, ngành, Ủy ban
nhân dân các cấp với các cấp Hội Nông dân Việt Nam trong việc tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo của nông dân.
Những chủ trương, chính sách đó đã đi nhanh vào cuộc sống, động viên đông
đảo cán bộ, hội viên, nông dân quyết tâm thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, có được cơ chế, chính sách,
nguồn lực, là công cụ, điều kiện để các cấp Hội trực tiếp tham gia các hoạt động dịch
vụ, tư vấn, dạy nghề và hỗ trợ nông dân, tạo nguồn lực giúp đỡ hội viên, nông dân
phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, tăng thu nhập; góp phần đảm bảo an
sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho hội viên,
nông dân; thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.


2.1.2 Hạn chế
Một là,trình độ sản xuất, quản lý của người nông dân chưa đáp ứng kịp theo
yêu cầu của sản xuất hàng hóa.
Vốn đầu tư xã hội vào nông nghiệp, nông thôn nhất là khu vực sản xuất, kinh
doanh còn thấp so với nhu cầu, nông dân thiếu và khó tiếp cận vốn, thiếu kiến thức về
khoa học kỹ thuật và thị trường để đầu tư phục vụ sản xuất hàng hóa tập trung. Tổ
chức sản xuất phân tán, manh mún, quy mô nhỏ lẻ chiếm tỷ lệ cao, hiệu quả thấp; sản
xuất mang tính tự phát, chưa có sự phối hợp, hướng dẫn chung về định hướng và quy
hoạch vùng sản xuất cho từng loại sản phẩm. Trình độ sản xuất, quản lý của người
nông dân chưa đáp ứng kịp theo yêu cầu của sản xuất hàng hóa. Tiềm lực sản xuất,

tiềm lực kinh tế của hộ nông dân còn thấp, thiếu thông tin thị trường và kiến thức về
pháp luật.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước năm 2014 – 2016 (Đ.vị: %)
Nông nghiệp
Công nghiệp & Xây dựng
Dịch vụ
2014 3.44
6.42
6.16
2015 2.41
9.64
6.33
2016 1.36
7.57
6.98
Nguồn: Tổng cục Thống kê – Niên giám 2016, Nxb Thống kê 2016

Việc nông dân liên kết, hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất và tiêu thụ nông sản còn
rời rạc, chưa chặt chẽ. Vấn đề tiêu thụ nông sản nhất là ở vùng chuyên canh đang còn


gặp nhiều khó khăn; chính sách thu mua tạm trữ gạo, hỗ trợ tiêu thụ nông sản hàng
hóa, chưa mang lại lợi ích thiết thực cho nông dân, còn rơi vãi ở khâu trung gian, nằm
ở các doanh nghiệp; nông dân không tự quyết định được giá bán nông sản của mình
làm ra, mà do thương lái quyết định nên vẫn bị thương lái ép giá.

Hai là, tỉ lệ thất nghiệp cao, nông dân không còn thiết tha, mặn mà với đồng
ruộng
Một bộ phận nông dân không thiết tha, mặn mà với đồng ruộng. Tình trạng

nông dân bỏ ruộng, bỏ chăn nuôi, thậm trí chăn nuôi còn bỏ đói, cầm chừng để đi làm
việc khác có thu nhập cao hơn còn diễn ra ở một số nơi. Nông dân ở một số nơi bị thu
hồi đất và tái định cư chưa có việc làm ổn định, nơi ở mới chưa bằng nơi ở cũ; đời
sống còn gặp nhiều khó khăn nhất là ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa...

Tỷ lệ hộ nghèo phân theo thành thị và nông thôn giai đoạn 2010 – 2015 (Đ.vị %)
2010
2012
2013
2014
2015
Cả nước
14.2
11.1
9.8
8.4
7
Thành thị
6.9
4.3
3.7
3
2.5
Nông thôn
17.4
14.1
12.7
10.8
9.2
Nguồn: Tổng Cục thống kê – Niên giám thống kê 2015, Nxb Thống kê 2015, tr 787

Như vậy, mặc dù tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn có xu hướng giảm nhưng vẫn
gấp khoảng 3 lần so với tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, cao hơn so với tỷ lệ thất nghiệp
cả nước 2.2% (năm 2015). Vì vậy, xu hướng tìm công việc thu nhập cao hơn, lãng
quên ruộng đồng là điều tất yếu diễn ra.
Ba là, trình độ dân trí,nhận thức của nông dân còn thấp
Một bộ phận nông dân còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước; không muốn thoát ra khỏi hộ nghèo, xã nghèo, thậm trí có nơi
còn luân phiên nhau làm hộ nghèo để được hưởng chính sách hỗ trợ. Nông dân băn


khoăn về tiêu chí hộ nghèo hiện nay mới chỉ dựa vào thu nhập là chưa đủ mà còn
phải phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của hộ gia đình như nhà ở, điều kiện y tế, giáo
dục...
Tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội cờ bạc, ma túy, mại dâm; tình trạng bạo lực gia đình
ở nông thôn còn diễn biến phức tạp. Việc tổ chức lễ hội chưa được quản lý chặt chẽ,
việc lợi dụng lễ hội để hoạt động mê tín, dị đoan, đồng cốt, bói toán trục lợi còn diễn
ra ở nhiều nơi, ảnh hưởng thuần phong mỹ tục và bản sắc văn hóa của dân tộc, nhưng
việc xử lý, ngăn chặn còn hạn chế.

2.2.Xây dựng đội ngũ nông dân và nghệ nhân giàu kinh nghiệm, có khả năng
ứng dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại
2.2.1 Chính sách ưu đãi cho ngành nông nghiệp công nghệ cao
Theo Quyết định số 1895/QĐ-TTg ngày 17 tháng 12 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ về chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với mục
tiêu:
Thúc đẩy phát triển và ứng dụng có hiệu quả công nghệ cao trong lĩnh vực
nông nghiệp, góp phần xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng
hiện đại, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
cao, đạt mức tăng trưởng hàng năm trên 3,5%; đảm bảo vững chắc an ninh lương
thực, thực phẩm quốc gia cả trước mắt và lâu dài.

Đến năm 2015 - Bước đầu phát triển các công nghệ cao thuộc Danh mục công
nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển và các công nghệ tiên tiến trong nông nghiệp
để tạo ra và đưa vào sản xuất được 1 - 2 giống mới cho mỗi loại cây trồng nông lâm
nghiệp, vật nuôi và thuỷ sản chủ yếu, có năng suất cao, chất lượng tốt, khả 2 năng
chống chịu vượt trội; 2 - 3 quy trình công nghệ tiên tiến trong từng lĩnh vực; 2 - 3 loại
chế phẩm sinh học; 2 - 3 loại thức ăn chăn nuôi; 1 - 2 bộ kít; 1 - 2 loại vắc-xin; 1 - 2
loại vật tư, máy móc, thiết bị mới phục vụ sản xuất nông nghiệp.


Từng bước ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến để sản xuất một số
sản phẩm nông nghiệp có năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao và an toàn; đưa
tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm khoảng 15%
tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của cả nước.
Hình thành và phát triển ít nhất 80 doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao tại các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm; xây dựng 3 - 5 khu nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao tại một số vùng sinh thái nông nghiệp và 1 - 2 vùng nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao tại mỗi tỉnh vùng kinh tế trọng điểm.
Giai đoạn 2016 - 2020 - Đẩy mạnh phát triển các công nghệ cao thuộc Danh
mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển và các công nghệ tiên tiến trong
nông nghiệp để tạo ra và đưa vào sản xuất được 2 - 3 giống mới cho mỗi loại cây
trồng nông lâm nghiệp, vật nuôi và thuỷ sản chủ yếu, có năng suất cao, chất lượng
tốt, khả năng chống chịu vượt trội; 3 - 4 quy trình công nghệ tiên tiến trong từng lĩnh
vực; 3 - 4 loại chế phẩm sinh học, 3 - 4 loại thức ăn chăn nuôi, 2 - 3 bộ kít, 2 - 3 loại
vắc-xin, 2 - 3 loại vật tư, máy móc, thiết bị mới phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến để sản xuất các sản
phẩm nông nghiệp có năng suất cao, chất lượng tốt, an toàn và có sức cạnh tranh cao;
đưa tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm khoảng 35%
tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của cả nước.
Hình thành và phát triển khoảng 200 doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao tại các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm; xây dựng thêm 1 - 2 khu nông nghiệp

ứng dụng công nghệ cao tại mỗi vùng sinh thái nông nghiệp và 2 - 3 vùng nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại mỗi tỉnh vùng kinh tế trọng điểm.
Ngoài ra, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với các bộ ngành triển khai
nhiều chương trình phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất nông
nghiệp. Trong đó, công nghệ nuôi cấy tế bào được ứng dụng rộng rãi để cung cấp cây


giống sạch, giá thành rẻ. Công nghệ gen ứng dụng trong nghiên cứu cải tiến giống
cây trồng vật nuôi có năng suất chất lượng tốt, khả năng chống chịu cao với sâu bệnh
hại, điều kiện môi trường bất lợi. Bộ Nông nghiệp đang tiếp tục thực hiện Chương
trình phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và lĩnh
vực thủy sản đến năm 2020 để làm chủ công nghệ sản xuất. Công nghệ tự động hóa,
bán tự động trong sản xuất nông nghiệp kết hợp công nghệ thông tin đã được ứng
dụng tại các mô hình canh tác rau, củ, quả, hoa có giá trị kinh tế cao.
Năm 2016, sau khoảng 4 năm thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao, ngành nông nghiệp đã thu hút được số vốn đầu tư lớn vào
ngành nông nghiệp, tuy nhiên con số còn thấp hơn nhiều so với những ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo:

Vốn đầu tư thực hiện của khu vực kinh tế Nhà nước theo giá hiện hành phân
theo ngành kinh tế năm 2012 – 2016 (Đ.vị: tỷ đồng)
2012
2013
2014
2015
Sơ bộ 2016
Nông – lâm – ngư nghiệp
21.789 29.654 30.669 33.168 34.119
C.Nghiệp chế biến
48.98

46.846 35.537 36.391 41.812
Xây dựng
23.659 36.151 31.155 32.492 33.450
Dịch vụ ăn uống – lưu trú
6.423
6.541
3.408
4.159
4.181
Nguồn: Tổng cục Thống kê – tại />Năm 2017, Chính phủ đã có Nghị quyết về phát triển nông nghiệp công nghệ
cao; chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước triển khai trong hệ thống ngân hàng thương mại
gói tín dụng ưu đãi 100.000 tỷ đồng cho nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp
sạch. Nhiều địa phương, doanh nghiệp, hợp tác xã đã chọn nông nghiệp công nghệ
cao, nông nghiệp hữu cơ làm hướng đi chính để tập trung đầu tư.


Đến năm 2017, các đơn vị đã giới thiệu chuyển giao vào sản xuất được 105
công nghệ; xây dựng được 85 mô hình ứng dụng khoa học vào sản xuất và 50 mô
hình liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu
thụ; đào tạo được 500 cán bộ kỹ thuật địa phương và 5.500 lượt nông dân...Đến nay,
Thủ tướng đã quy hoạch 22 khu nông nghiệp công nghệ cao. Bộ Nông nghiệp đã
công nhận 35 doanh nghiệp và các địa phương công nhận ba vùng nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao.[16]
2.2.2Đào tạo nghề và tác phong công nghiệp cho nông dân và nghệ nhân
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã
hội và quá trình đô thị hóa ở nước ta diễn ra nhanh, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch
mạnh mẽ. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều hộ nông nghiệp bị mất đất sản xuất, phải
tìm cách chuyển đổi lao động sang lĩnh vực phi nông nghiệp nên rất cần được hưởng
chính sách ưu đãi về đào tạo nghề. Bên cạnh đó, chất lượng lao động ở nông thôn
nước ta còn quá thấp. Chất lượng lao động nông thôn thấp đã làm cho thu nhập của

người lao động không thể tăng nhanh.
Ngày 27-11-2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1956/QĐTTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” (gọi tắt
là Đề án 1956). Trong Quyết định này đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta là: “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước,
của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước tăng
cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn, có chính sách bảo
đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi lao động nông thôn,
khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho lao
động nông thôn”.
Tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo năm 2012 – 2016 (Đ.vị %)


2012

2013

2014

2015

Sơ bộ 2016

Thành thị

33.1

35.2

35.9


38.0

39.2

Nông thôn

10.7

11.9

12.0

13.5

13.9

Nguồn: Tổng cục Thống kê tại />Như vậy, tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động ở nông thôn còn thấp hơn so với
thành phố khá lớn, trung bình khoảng 3 lần. Vì vậy, cần thiết phải tập trung đào tạo
nghề, cũng như tác phong công nghiệp cho người nông dân. Và để các hoạt động đào
tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn thực sự hiệu quả, tạo được sự đồng
thuận cao của người dân, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, phải có sự “vào cuộc” mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị ở địa
phương. Nhận thức đúng về đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn là cơ
hội để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho địa phương, nâng cao chất lượng,
năng suất lao động; góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp
Việt Nam trên thị trường quốc tế. Thực tế thời gian vừa qua cho thấy, ở địa phương
nào có sự quan tâm của cấp uỷ đảng, sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền và sự
tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội… thì ở đó công tác dạy nghề cho
nông dân và lao động nông thôn đạt được kết quả mong muốn.

Thứ hai, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải sát với tình hình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng địa phương, đáp ứng nhu cầu sản
xuất, kinh doanh và có hiệu quả thiết thực.
Thứ ba, do tính đa dạng vùng miền và tính đặc thù của người nông dân và lao
động nông thôn (trình độ học vấn không đồng đều, lao động theo mùa vụ, thói quen
canh tác…), nên việc tổ chức các khóa đào tạo phải rất linh hoạt về chương trình đào
tạo, hình thức đào tạo, phương thức đào tạo, phương pháp truyền đạt… Chương trình
đào tạo phải gắn với học liệu sinh động, đa dạng và thiết thực, phù hợp với trình độ
của người học.


Thứ tư, chú trọng phát triển các ngành nghề thủ công (tự đào tạo, bồi dưỡng tại
địa phương). Đào tạo nghề ở nông thôn không thể không chú trọng việc phát triển các
ngành nghề thủ công, nhất là việc thực hiện “mỗi làng, một nghề” đang được triển
khai. Trong nông thôn đang có một số nghề thủ công, mỹ nghệ truyền thống cần được
bảo tồn và có khả năng phát triển, cần được quan tâm và đưa vào chương trình dạy
nghề. Cụ thể như: chế biến gỗ, sơn mài, chạm, khảm; làm đồ gốm, đồ đồng; nghề
mây tre đan, nghề thêu ren, nghề dệt, lụa, thổ cẩm…
Thứ năm, để những người nông dân trở thành những lao động nông nghiệp
hiện đại, song song với việc truyền đạt kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cần trang bị
cho họ những kiến thức tiêu chuẩn an toàn sản phẩm, về thị trường, kiến thức kinh
doanh trong điều kiện hội nhập. Ngoài ra, còn phải đào tạo về tác phong làm việc cho
người lao động (tác phong công nghiệp…).

Thứ sáu, sau khi đào tạo nghề cho người nông dân thì chính quyền địa phương
cũng cần phải giải quyết vấn đề đầu ra sản xuất bởi nếu không giải quyết được
đầu ra của sản xuất thì hiệu quả đào tạo bằng không (ví dụ như: đào tạo cách
trồng nấm, nuôi thỏ… song sản xuất ra không tiêu thụ được nên những người
được đào tạo lại bỏ nghề). [8]


2.2.3 Từ nông dân, nghệ nhân thành công nhân nông nghiệp, nghệ nhân công
nghiệp
Theo Quyết định số 1895/QĐ-TTg ngày 17 tháng 12 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ [14] về chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, có
một trong những nhiệm vụ nhằm biến người nông dân thành những công nhân nông
nghiệp, thậm chí là những nhà doanh nhân nông nghiệp, tiêu biểu ở một số nhiệm vụ
sau:


×