Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

chính sách pháp luật thời tây chu (9 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (52.61 KB, 6 trang )

I.Đặt vấn đề
Trong thời cổ đại phương Đông xuất hiện 4 trung tâm văn minh lớn và nền
văn minh Trung Quốc là một trong 4 cái nôi của nền văn minh loài người. Khi
đánh giá về một quốc gia cổ đại, người ta thường nói đến chữ viết, văn học,
tôn giáo,… và đặc biệt không thể thiếu pháp luật. Nói đến Trung Quốc, thời
cổ đại, ta cũng không thể không nhắc đến pháp luật thời đại nhà Chu và nổi
bật là nhà Tây Chu. Để hiểu rõ hơn về nhà nước này, chúng ta sẽ đi tìm hiểu
chính sách pháp luật thời Tây Chu.
II.Giải quyết vấn đề
1. Khái quát về thời Tây Chu
Nhà Chu nối tiếp sau nhà Thương và trước nhà Tần. Nhà Chu tồn tại lâu hơn
bát cứ thời kì nào khác trong lịch sử Trung Hoa, việc sử dụng đồ sắt cũng đã
xuất hiện trong thời kì này.
Nhà Tây Chu tồn tại từ năm 1027 TCN đến năm 771 TCN, kéo dài khoảng
257 năm. Thiên tử đầu tiên là Chu Vũ Vương sau khi dời đô đến Cảo
Kinh( phía Tây Tây An, tỉnh Thiểm Tây ngày nay) đã dẫn đại quân đi diệt nhà
Thương và xây dựng nên triều đại nhà Chu. Sau khi Chu Thành Vương kế vị,
do tuổi nhỏ không điều hành được đại cục nên giao cho người chú là Chu
Công Đán nhiếp chính. Chu công sau khi ổn định nội chính đã dẫn đại quân
đong chinh dẹp yên phiến loạn. Dưới sự điều hành của Chu công, lại áp dụng
một loạt biện pháp củng cố những thành quả thắng lợi. Thời Chu Thanh
Vương và Chu Khang Vương nhiếp chính được các nhà sử học gọi là “ Thành
Khang chi trị”.Điển chế quốc gia của thời nhà Chu có nhiều đặc điểm nổi bật
quan trọng nhất là tỉnh Điền chế, Tông Pháp chế, Quốc Dã Chế và Lễ nhạc…
2.Phân tích Pháp luật thời Tây Chu
2.1.Cơ sở chính trị
Pháp luật Trung Hoa cổ đại được phản ánh hết sức ít ỏi và sơ sài qua ghi chép
sử sách cổ. Trong tất cả các hình thức pháp luật cổ đại của Trung Hoa, không
thể không nhắc đến pháp luật của thời Tây Chu. Pháp luật của thời Tây Chu là



một mối liên kết chặt chẽ giữa lễ với hình pháp trên cơ sở nền tảng là chế độ
tông pháp và chính sách phân phong.
Tông pháp là một nguyên tắc quan hệ huyết thống của xã hội cổ đại Trung
Quốc, bản chất của nó là nguyên tắc xác lập quyền trưởng nam trong việc
thừa kế (tông miếu, chức quyền). Phạm vi thi hành tông pháp chủ yếu là ở
tầng lớp đại phu và sĩ. Điều cơ bản của tông pháp là sự phân biệt đại tông và
tiểu tông. Tuy nhiên, việc phân biệt này chỉ mang tính tương đối mà thôi.Ví
dụ: đối với Thiên tử thì chư hầu là ở tiểu tông; còn đối với chư hầu thì khanh
đại phu lại là tiểu tông. Song, nguyên tắc tiểu tông luôn phụ thuộc vào đại
tông để đảm bảo Thiên tử luôn là đại tông và thuộc dòng đích.
Chính sách nổi bật trong thời Tây Chu là chế độ phân phong. Về bản chất,
chính sách này là phong đất, lập chư hầu. Tất cả đất đai trong nước thuộc
quyền sở hữu của vua Chu. Vua cắt đất phân phong cho cháu thân thuộc, khi
phong đất còn kèm theo phong tước. Những người được phong đất và tước vị
sẽ trở thành các chư hầu của nhà Chu. Đến lượt mình các chư hầu cũng phong
cấp cho bề tôi của mình. Mỗi lần phong thì có sự ràng buộc trong cơ cấu tổ
chức từ Trung ương đến địa phương. Hệ quả về chính trị của chế độ phân
phong là triều Chu tạo nên một hệ thống thống trị dựa trên đẳng cấp quý tộc
huyết thống và sử dụng hệ thống các nước chư hầu và bành trướng ra bên
ngoài.
Từ cơ sở chính trị là chế độ tông pháp và chính sách phân phong, pháp luật
nhà Tây Chu đã dựa vào đó để hình thành và phát triển.
2.2. Lễ trong pháp luật Tây Chu
Lễ của người Chu, trên rất nhiều phương diện, là ngọn nguồn của lễ chế đời
sau. Theo như truyền thống, lễ chia làm 5 loại: cát lễ, hung lễ, quân lễ, tân lễ,
gia lễ gọi là ngũ lễ. Cát lễ theo sách Chu lễ tức là điển lễ tế tự, là các lễ nghi
thờ tự, cúng bái Thượng Đế, Mặt Trời, Mặt Trăng, các vì sao và các thần cai
quản tự nhiên. Việc tế tự được coi là việc lớn của nước, cho nên là quan trọng
nhất trong ngũ lễ. Hung lễ là các việc ma chay, chôn cất. Ngoài việc ma chay,



hung lễ còn bao gồm cả việc ai điếu về thiên tai nhân họa. Những việc như
hạn hán, chiến tranh, mất mùa,... đều cần phải có nghi thức ai điếu. Quân lễ là
chỉ về việc chiến tranh, nhưng thực tế còn bao gồm các hoạt động khác cần
huy động nhiều nhân lực như săn bắn, xây thành ấp. Tân lễ chỉ việc chư hầu
triều kiến vua, hoặc chư hầu thăm hỏi hoặc hội thề với nhau,… Gia lễ có nội
dung tương đối phức tạp, gồm có hôn lễ, quán lễ, hưởng yến, lập trừ, hoặc
việc chúc mừng các chư hầu với nhau.
Qua đó có thể thấy rằng, lễ thời cổ đại không chỉ là những quy định và nghi
thức trong sinh hoạt xã hội, mà còn bao gồm cả chế dộ chính trị quốc gia
trong đó. Qua sử sách ghi chép lại, ta có thể thấy rằng, lễ cổ đại và pháp luật
có ranh giới không rõ rang, nhiều quy định của pháp luật cũng có thể thấy qua
nội dung của lễ. Như trong sách Kiểm luận của học giả Chương Thái Viêm có
viết: Lễ là tên gọi chung của phép tắc, đại thể thì quan chế, hình pháp, nghi
thức, tức là lễ.
Ở xã hội nguyên thủy có nhiều hành vi có thể coi là khởi nguồn của lễ như là
việc thờ cúng. Sau khi bước vào xã hội có giai cấp, lễ trở thành một bộ phận
của kiến trúc thượng tầng. Lễ quy định ranh giới giữa giai cấp thống trị và
giai cấp bị trị, quy định sự cao thấp sang hèn của các đẳng cấp xã hội, bởi vậy
tính giai cấp rõ rệt.
Người xưa có câu: “Lễ không xuống tới thứ dân, hình không tới bậc đại phu”.
Thứ dân là bình dân-tầng lớp bị trị. “Lễ không xuống tới thứ dân” có nghĩa là
thứ dân nghèo khổ, không có của cải để làm lễ, lại phải lo công việc đồng áng
không thể theo đúng lễ chế thời bấy giờ để tiến hành hoặc tham gia các loại
điển lễ, và lễ chế cũng không bao gồm họ trong đó. “Hình không tới bậc đại
phu”, bậc đại phu là những người có đức có tài, nếu mà đạt hình cho đại phu
thì có nghĩa là vua không biết người hiền tài. Tuy nhiên, điều đó không có
nghĩa là không dùng hình phạt đối với bản thân đại phu, nếu có tội thì dùng
“bát nghị” tức là luân tội nạng hay nhẹ.



2.3.Hình trong pháp luật Tây Chu
Do cơ chế chính trị của nhà Chu là sự điển hình cho cơ chế dựa trên quan hệ
đẳng cấp huyết thống nên Nhà Chu đặt lễ bên cạnh hình pháp. Hình trừng trị
những gì mà lễ không cho phép, tức là bị pháp cấm đoán. “Hình không tới
bậc đại phu” có nghĩa hình đặt ra áp dụng chủ yếu đối với thứ dân- tầng lớp
bị trị. Hình phạt nhà Chu rất tàn bạo, bao gồm 5 thang bậc, được gọi là “Phép
Ngũ hình”. Phép Ngũ hình bao gồm: mặc hình( khắc chữ lên mặt); tỵ
hình(xẻo mũi); phị hình(chặt chân); cung hình(đối với đàn ông là thiến, còn
đối với phụ nữ là nhốt vào phòng tối) và cuối cùng là đại tịch( chém đầu).
Phép ngũ hình được quy định bằng 3000 điều. Trong đó hình phạt thích
chữ1000 điều, chặt chân 500 điều, thiến 300 điều, chém 200 điều. Ngoài ngũ
hình, còn có các hình phạt khác để chuộ tội như: đi đày, đánh bằng roi, đánh
giữa chợ,…
“Hình không tới bậc đại phu” cũng không có nghĩa là không áp dụng hình
phạt đối với quan lại, các bậc đại phu. Khi họ gây ra tội nghiêm trọng thì đầu
tiên sẽ bị Thiên tử quở trách. Và nếu sau đó họ không ăn năn hối lỗi thì sẽ bị
trách phạt.
Ở hình, pháp luật Nhà Tây Chu cũng đạt ra một số nguyên tắc áp dụng như
sau:
+Thứ nhất là nguyên tắc “Minh đức thận phạt” (làm sáng tỏ đức, thận trọng
dùng hình phạt) do Chu Công đặt ra. Chu Công đã rút ra từ bài học do những
quy tắc vô cùng khắt khe mà dẫn tới sự sụp đổ của nhà Thương (áp dụng
những hình phạt rất hà khắc như đóng dấu nung đỏ, cắt mũi, gông cùm,.. và
xử tử bằng các hình thức: chôn sống, mổ bụng, xẻo từng mảnh bỏ vào nước
sôi, bỏ vào cối giã,…). Minh đức thân phạt của Chu Cồn áp dụng biện pháp
giáo dục trước rồi mới tới hình phạt; đề cao đức lễ và quan trọng là dần dần
tiến tới xóa bỏ hình phạt. Để quán triệt “minh. đức thận phạt”, còn đề ra
những nguyên tắc và lí luận định tội lượng hình. Tây Chu lần đầu tiên nêu ra
rằng khi định tội lượng hình cần phải phân biệt lầm lỡ với cố ý, ngẫu nhiên



với nhất quán. Tội tuy nhỉ nhưng nếu cố ý hoặc nhất quán thì nghiêm trị; tội
lớn nhưng do lầm lỡ hoặc ngẫu nhiên, không có hệ thống thì có thể xử nhẹ.
+Thứ hai, để đảm bảo thực thi pháp luật, còn qui định trình tự tố tụng như: án
kiện dân sự phải nộp tiền tố tụng; án kiện dân hình đều phải sử dụng chứng
cứ. Ngoài ra còn dựa vào “Ngũ thính” tức là xem xét sắc mặt, thái độ để phân
biệt khẩu cung là thật hay giả; giám sát quan tòa xét án; các vụ án quan trọng
phải được Chu Vương xét hỏi. Quan tòa xử án nếu duy quan(sợ quyền thế),
duy phản(đền ơn trả oán), duy hóa (ăn hối lộ), duy lai (nhận nhờ vả) thì cùng
tội như kẻ phạm tội.
Một đặc điểm quan trọng của pháp chế Tây Chu là trong khi hoàn thiện các
quy định của pháp luật thì đồng thời thực hiện lễ trị.
3.Đánh giá pháp luật thời Tây Chu
Có thể nói pháp luật nhà Tây Chu phát triển nhất trong thời cổ đại của Trung
Quốc. Qua những phân tích ở trên có thể thấy rằng rằng, lễ thời cổ đại cũng
như pháp luật, là bất bình bình đẳng một cách công khai. Lễ không những
không bình đẳng mà còn là công cụ đắc lực bảo vệ xã hội đẳng cấp lúc bấy
giờ. Lễ bảo vệ lợi ích và điều chỉnh các quan hệ trong tầng lớp quý tộc. Bởi vì
thế mà lễ thời cổ đại mang đậm tính giai cấp. Lễ phân biệt sang hèn, định trật
tự tôn ty, những nghi thức về ăn ở, hội họp, ma chay, cưới đến thời nhà Tây
Chu đã trở thành một thể chế chính trị. Ngoài ra, lễ của nhà Chu là ngọn
nguồn của lễ chế các nhà nước sau ra đời. Đặt bên cạnh lễ là hình. Thời Tây
Chu, hình phạt được quy định khá rõ ràng, cụ thể, thể hiện thông qua số lượng
các điều được quy định đối với mỗi bậc hình phạt (được quy định cụ thể trong
phép ngũ hình). Mặc dù các hình phạt còn hà khắc và tàn bạo, song có nhiều
tiến bộ và nhân đạo hơn so với thời Hạ-Thương trước đó (thể hiện qua nguyên
tắc “Minh đức thận phạt”). Một điểm tiến bộ hơn nữa, đó là việc quy định
trình tự tố tụng mà các nhà nước trước đó chưa có. Và việc quy định trình tự



tố tụng này cũng trở thành cơ sở cho việc hoàn thiện hơn trong hệ thống pháp
luật của các nhà nước sau này.
III.Kết luận : Như vậy, thông qua chính sách Pháp luật nhà Tây Chu ta đã
hiểu rõ hơn được phần nào về Nhà nước này. Thấy được những điểm tiến bộ
hơn so với các nhà nước trước đó, đồng thời cũng thấy rõ được những mặ hạn
chế. Đó cũng là cơ sở để hoàn thiện dần hệ thống pháp luật cho các Nhà nước
thời kỳ sau này. Pháp luật Tây Chu là đốm sáng trong pháp luật Trung Quốc
thời cổ đại.



×