MỞ ĐẦU
Tâm lý:là tất cả những hiện tượng tinh thần nảy sinh trong đầu óc con
người, gắn liền và điều hành mọi hành động, hoạt động của con ngừơi.
(Hiện tượng tâm lý là hiện tượng có cơ sở tự nhiên là hoạt động thần kinh
và hoạt động nội tiết, được nảy sinh bằng hoạt động sống của từng người và
gắn bó mật thiết với các quan hệ xã hội.) Tâm lý học: Là khoa học về các
hiện tượng tâm lý. Nó nghiên cứu các quy luật nảy sinh vận hành và phát
triển của các hiện tượng tâm lý trong hoạt động đa dạng diễn ra trong cuộc
sống hàng ngày của mỗi con người. Trong bài tập lớn em xin trình bày vấn
đề: “Phân tích cấu trúc của nhân cách cá nhân. Liên hện trong đời sống thực
tiễn”.
1
1. Khái niệm nhân cách.
Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu
hiện ở bản sắc giá trị xã hội của người ấy.
Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội
dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân. Bởi vây, nếu cá nhân là khái niệm
chỉ sự khác biệt giữa cá thể với loài thì nhân cách là khái niệm chỉ sự khác biệt
giữa các cá nhân. Cánhân là phương thức biểu hiện cử giống loài, còn nhân
cách vừa là nội dung, vừa là cách thức biểu hiện của mỗi cá nhân riêng biệt.
Nhân cách biểu hiện thế giới cái tôi của mỗi cá nhân, là sự tổng hợp của các
yếu tố sinh học, tâm
lý, xã hội tạo nên đặc trưng riêng về di truyền, về sinh lý thần kinh, về hoàn
cảnh sống của cá nhân theo cách riêng của mình.
Xuất phát từ bản chất của con người với tư cách là tổng hòa các mối quan hệ
xã hội. Nhân cách là nhân cách của con người do đó nó mang tính xã hội,
không thể có nhân cách tồn tại riêng lẻ mà tồn tại bên ngoài xã hội cũng giống
như không thể có con người tồn tai bên ngời xã hội được.
Bản thân nhân cách không phải là những gì có sẵn thuộc về mỗi cá nhân con
người mà nhân cách phải được hinh thành và chỉ có thể hình thành dần trong
các quá trình tham gia các mối quan hệ xã hội của con người.
Như C.Mác đã nói: “Nếu như con người có bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã
hội thì do đó con người chỉ có thể phát triển bản tính của mình trong xã hội và
cần phải phán đoán lực lượng bản tính của anh ta, không phải con người căn cứ
vào lực lượng bản tính của anh ta, không phải căn cứ vào lực lượng của cá
nhân riêng lẻ mà là căn cứ của toàn xã hội.”
Như vậy:
2
• Nhân cách không phải là tất cả các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ bao
hàm những đặc điểm quy định bộ mặt tâm lý xã hội, giá trị và cốt cách làm
người của con người như là một thành viên của xã hội.
• Nhân cách không phải là một nét, một phẩm chất tâm lý riêng lẻ mà là một
cấu tạo tâm lý phức hợp. Nói cách khác nhân cách là tổng thể những đặc điểm
tâm lý đặc trưng với một cơ cấu xác định.
• Nhân cách con người không bẩm sinh, không tự nhiên có, nhân cách được
hình thành dần trong quá trình tham gia các mối quan hệ của con người.
2. Cấu trúc của nhân cách và liên hệ thực tiễn.
2.1. Xu hướng
Xu hướng cá nhân là một hệ thống động cơ và mục đích định hướng và thúc
đẩy con người tích cực hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu, hướng thú hoặc
vươn tới mục tiêu mà cá nhân sẽ lấy làm lẽ sống của mình.
Xu hướng nhân cách là một thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, bao gồm
một hệ thống động cơ quy định tính tích cực hoạt động của cá nhân và quy
định sự lựa chọn thái độ của nó. Xu hướng nhân cách nói lên chiều hướng phát
triển của nhân cách.
Xu hướng nhân cách thường biểu hiện ở các nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế
giới quan, niềm tin của con người.
Nhu cầu:
Nhu cầu là sự đòi hỏi khách quan của mỗi con người, trong những điêù kiện
nhất định bảo đảm sự tồn tại và phát triển của họ.
Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần thoả mãn để tồn tại và
phát triển, ví dụ nhu cầu nơi ở, ăn uống, việc làm, học tập, vui chơi…
Nhu cầu của con người rất đa dạng. Nhu cầu vật chất gắn liền với sự tồn tại
của cơ thể như: nhu cầu ăn, ở, mặc,…; nhu cầu tinh thần bao gồm nhu cầu
nhận thức, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu giao tiếp và nhu cầu hoạt động xã hội...
3
Ví dụ: Đối với sinh viên thường có những nhu cầu về dụng cụ học tập như là
sách, vở, bút, laptop…hay là những nhu cầu thiết yếu hàng ngày như: nhu cầu
ăn uống, nhu cầu về ăn mặc, quần áo, giày, dép…nhu cầu được vui choi giải trí
như tham gia vào các chương trình văn nghệ của trường, các hoạt động tình
nguyện…
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó – đối tượng
vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá
nhân trong quá trình hoạt động.
Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, ở bề rộng và chiều sâu
của hứng thú. Hứng thú nảy sinh chủ yếu do tính hấp dẫn về mặt cảm xúc của
nội dung hoạt động, còn nhu cầu có thể không có yếu tố hấp dẫn.
Chẳng hạn khi bị bệnh, người ta có nhu cầu uống thuốc để điều trị nhưng
người ta không thấy khoái cảm khi uống thuốc. Đây chính là sự khác nhau giữa
hứng thú và nhu cầu.
Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, tăng sức làm việc, đặc biệt là
tăng tính tự giác, tích cực trong hoạt động và vì vậy hứng thú làm tăng hiệu
quả hoạt động. Đặc biệt trong hoạt động nhận thức và hoạt động học tập, hứng
thú có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng hiệu quả học tập.
Những môn học có hứng thú bao giờ kết quả cũng tốt hơn những môn học
không có hứng thú. Vì vậy, giáo viên cần hình thành được hứng thú học tập
cho học sinh.
Ví dụ: Trong giờ học hình sự các thầy cô thường kể những câu chuyện thực tế
về các vụ phạm tội giết người, cướp của…làm kích thích tính tò mò của em,
gây cho em cảm giác hướng thú với môn học này.
4
Lý tưởng là một mục tiêu cao đẹp, được phản ánh trong ý thức con người dưới
hình thức một hình ảnh mẫu mực, tương đối hoàn chỉnh, có sức lôi cuốn con
người tích cực hoạt động để vươn tới lý tưởng đó.
Lý tưởng khác với ước mơ ở chỗ, trong lý tưởng chứa đựng mặt nhận thức sâu
sắc của chủ thể về các điều kiện chủ quan và khách quan để vươn tới lý tưởng,
đồng thời chủ thể có tình cảm mãnh liệt đối với hình ảnh lý tưởng của mình.
Chính vì thế, lý tưởng có sức mạnh lôi cuốn toàn bộ cuộc sống con người vào
các hoạt động vươn tới lý tưởng của mình. Tuy vậy, ước mơ có thể là cơ sở cho
sự hình thành lý tưởng cao đẹp sau này.
Lý tưởng mang tính lịch sử và giai cấp: ở các thời đại và chế độ chính trị khác
nhau thì lý tưởng của con người cũng khác nhau.
Lý tưởng là biểu hiện tập trung nhất của xu hướng nhân cách, nó xác định mục
tiêu và điều khiển toàn bộ hoạt động của con người - “Sống mà không có lý
tưởng cũng như người đi trong rừng mà không có phương hướng”.
Ví dụ : với em lý tưởng sống của em rất đơn giản là em sẽ học những cái hay,
những mặt tốt của những người mà em từng gặp, để học cách thay đổi, dần
hoàn thiện bản thân và tích lũy thêm kiến thức, bù đắp những thiếu sót cho
mình.
Niềm tin là sự tin tưởng của con người vào những tri thức và những kinh
nghiệm mà con người đă thể nghiệm và rung động về tính đúng đắn của nó.
Niềm tin là thành phần quan trọng trong hệ thống động cơ của cá nhân, nó
thúc đẩy mạnh mẽ con người hành động phù hợp với niềm tin của mình. Niềm
tin càng mãnh liệt thì sức sống càng dồi dào. Có một câu thành ngữ nói rằng:
“Mất niềm tin là mất tất cả”. Điều đó nói lên rằng sống phải có niềm tin. Niềm
tin là khởi đầu của thành công, nhưng học sinh, sinh viên thường đánh mất
5
niềm tin vào bản thân.ví dụ: Em có một người bạn, bạn em cho rằng học luật
phải tự học nhiều và khó với lại toàn chữ là chữ mà bạn áy lại thi khối A, nên
vì mất tự tin mà bạn ấy chản nản trong việc hoc.
2.2. Tính cách
.Trong cuộc sống hằng ngày ta thường dùng các từ “tính tình”, “tính nết”, “tính
cách” để chỉ tính cách. Những nét tính cách tốt thường được gọi là “đặc tính”,
“lòng”, “tinh thần”…; những nét tính cách xấu thường được gọi là “thói”,
“tật”…
Tính cách là sự kết hợp độc đáo các đặc điểm tâm lý ổn định của con người,
những đặc điểm này quy định phương thức hành vi điển hình của người đó
trong những điều kiện và hoàn cảnh sống nhất định thể hiện thái độ của họ đối
với thế giới xunh quanh và bản thân.
Tính cách là một thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, bao gồm một hệ
thống thái độ tương đối ổn định đối với hiện thực và thể hiện trong hệ thống
hành vi, cử chỉ, cách nói năng tương ứng. Nói cách khác, tính cách là thái độ
đã được củng cố trong những phương thức hành vi quen thuộc.
Tính cách mang tính ổn định, bền vững, thống nhất và tính độc đáo, riêng biệt,
điển hình cho mỗi cá nhân. Tính cách của cá nhân chịu sự chế ước của xã hội.
Tính cách của con người không phải là bẩm sinh, không tự nhiên có mà tính
cách được hình thành trong sự phát triển của cá nhân, dưới tác động của giáo
dục và sự tích cực rèn luyện của cá nhân. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”.
Mỗi người có một tính cách riêng cho mình, ví dụ bác Hồ một con người vĩ
đại, bác một con người có thể nói là hội tụ nhiều tính cách mà chúng ta phải
học tập như tiết cần cù, tiết kiệm, chịu khó,…
Tính cách có cấu trúc rất phức tạp, bao gồm hệ thống thái độ và hệ thống hành
vi tương ứng:
6
Hệ thống thái độ của cá nhân có thể là thái độ tốt hoặc là thái độ xấu, bao gồm
các mặt sau đây:
• Thái độ đối với tập thể và xã hội bao gồm các thái độ tốt là: yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội, thái độ chính trị, tinh thần đổi mới, tinh thần hợp tác cộng
đồng … hoặc là thái độ xấu như: bất mãn với chế độ, chống phá chế độ nhà
nước…
• Thái độ đối với lao động, gồm các thái độ tốt như: yêu lao động, cần cù, sáng
tạo, lao động có kỷ luật, tiết kiệm, đem lại năng xuất cao… Ngược lại là sự
lười biếng, dối trá, cẩu thả, lãng phí…
• Thái độ đối với mọi người, gồm các thái độ như tính khiêm tốn, lòng tự
trọng, tinh thần tự phê bình…; ngược lại là tính tự kiêu, tính ích kỷ…
• Thái độ đối với bản thân, gồm các thái độ tốt như: Tự trọng, nghiêm khắc
với chính mình, tự chủ hành vi bản thân…Ngược lại là tính buông thả, thiếu tự
chủ,..
Hệ thống hành vi là biểu hiện cụ thể ra bên ngoài của hệ thống thái độ, nó rất
đa dạng. Người có tính cách ổn định thì hệ thống thái độ sẽ tương ứng với hệ
thống hành vi, cử chỉ, lời nói... Tuy nhiên, cũng có khi không có sự thống nhất
của thái độ với hành vi cử chỉ.
2.3. Năng lực
Năng lực là tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với
những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định đảm bảo cho sự hoàn
thành hoạt động đó có kết quả.
Con người ta không những khác nhau về nhu cầu, hứng thú, tính tình, khí
chất…mà còn khác nhau về khả năng, năng lực. Trong hoạt động thực tế có khi
cùng một điều kiện làm việc, cùng một công việc nhưng có người đạt kết quả
cao mà có người chỉ đạt kết quả thấp. Có người làm tốt công việc này nhưng
không thể làm tốt công việc khác… Như vậy là có sự khác nhau về năng lực.
7
Để làm tốt một công việc, cá nhân cần phải có một số đặc điểm thích ứng với
công việc đó. Ví dụ như muốn học giỏi thì người phải có bộ óc thông minh,
chăm chỉ, say mê học tập, có chí hướng vươn lên, có phương pháp học tập
tốt… Sự phù hợp ấy gọi là năng lực.
Ví dụ: Đối với người họa sĩ,năng lực tạo hình thì thuộc tính chủ đạo gồm
tưởng tượng sáng tạo giúp cá nhân nắm được cái bản chất, xây dựng hình
tượng độc đáo của các hiện tượng, sự vật; thuộc tính làm chỗ dựa là tính nhạy
cảm cao của bộ máy phân tích thị giác giúp cho cá nhân nhận xét nhanh chóng
các đường nét của vật thể…; thuộc tính hỗ trợ là tình cảm, thái độ của người
họa sĩ đối với sự vật và hiện tượng. Nó tạo thành cái nền hỗ trợ cho hoạt động
tạo hình.
Người ta cũng phân biệt các mức độ của năng lực: có năng lực, tài năng và
thiên tài.
Tài năng chỉ mức độ cao hơn năng lực, người có tài năng ở lĩnh vực hoạt động
nào đó chính là người có khả năng giải quyết được vấn đề một cách sáng tạo,
tạo ra được những giá trị to lớn trong cuộc sống.
Ví dụ: Nguyễn Du có tài thơ ca, Bùi xuân Phái có tài hội họa.
Thiên tài chỉ mức độ cao nhất của năng lực. Người thiên tài thể hiện sự hoàn
thành một cách xuất chúng một hoạt động nào đó, họ là những vĩ nhân trong
lịch sử. Chẳng hạn như Mác, Ăngghen, Lênin là những bậc thiên tài đã xây
dựng nên học thuyết Mác-Lênin.
Năng lực được phân loại theo các căn cứ khác nhau.
Căn cứ vào mức độ chuyên biệt của năng lực thì người ta phân loại năng lực là
thành năng lực chung và năng lực chuyên môn (năng lực riêng).
8
Năng lực chung là năng lực cần thiêt cho nhiều loại hoạt động khác nhau. Nó
đảm bảo cho cá nhân nhanh chóng nắm vững tri thức trong nhiều lĩnh vực hoạt
động khác nhau (ví dụ như thông minh, thính tai, tinh mắt, tháo vát…).
Năng lực chuyên môn là loại năng lực đảm bảo cho cá nhân hoạt động đạt kết
quả đối với một lĩnh vực nhất định. Chẳng hạn các năng lực tổ chức, hội họa,
toán học, âm nhạc, sư phạm, … là những năng lực chuyên môn.
Sự hình thành năng lực:
Người ta sinh ra không phải đã có sẵn năng lực đối với hoạt động nào đó, mà
phải qua quá trình hoạt động, rèn luyện năng lực mới hình thành và bộc lộ. “Có
khổ luyện mới thành tài”, “có công mài sắt có ngày nên kim”. Năng lực gắn
liền với hoạt động và hình thành trong hoạt động. Tuy nhiên, sự hình thành
năng lực phụ thuộc vào nhiều yếu tố, sau đây chúng ta tìm hiểu sự hình thành
năng lực và các yếu tố ảnh hưởng tới nó.
2.4. Khí chất
Khí chất là một thuộc tính tâm lý gắn liền với kiểu hoạt động thần kinh tương
đối bền vững của cá nhân đặc trưng cho hoạt động tâm lý về cường độ, tốc độ,
nhịp độ, thể hiện sắc thái riêng về hành vi và cử
chỉ của người đó.
Giữa các cá nhân với nhau có sự khác biệt khá rõ rệt trong những đặc điểm bên
ngoài của hành vi. Một số người linh hoạt, nhiệt tình, số khác lại chậm chạp,
điềm đạm; có người cởi mở, dễ tiếp xúc với mọi người, có người lại kín đáo,
không cởi mở, đóng kín bản thân. Những đặc điểm này chỉ thuần túy là những
đặc điểm bên ngoài của hành vi, không liên quan gì đến việc khả năng kiềm
chế của người đó như thế nào, tình cảm, thái độ của người đó ra sao, họ trung
thực hay giả dối… Những khác biệt này là những khác biệt về khí chất. – khác
biệt về cường độ, tính linh hoạt, tính cân bằng của các phản ứng hành vi của cá
nhân.
9
Khí chất thể hiện cá nhân phản ứng như thế nào trong các tình huống xác định
của cuộc sống. Nó tạo phong thái hành vi, ứng xử và do đó ảnh hưởng đến các
quan hệ của con người - dễ xây dựng quan hệ, dễ thích ứng hay ngược lại khó
xây dựng các quan hệ với người khác, khó thích ứng.
Khí chất có nguồn gốc ở kiểu hoạt động thần kinh cấp cao và do các tính chất
(cường độ, sự cân bằng, tính năng động) của quá trình thần kinh (hưng phấn và
ức chế) quy định.
Căn cứ vào các đặc tính cường độ, sự cân bằng, tính năng động của phản
ứng hành vi của cá nhân người ta phân biệt các loại khí chất: hoạt (hoạt bát),
đằm (bình thản), nóng (nóng nảy) và ưu tư.
Người tính nóng: bồng bột, sôi nổi, dễ bị kích động, lăn vào công việc,
dùng nghị lực để tác động đến người khác; trực tính, kiên nghị, gặp thất bại
hay thay đổi tâm trạng, mất hứng thú, “bốc” lại khi gặp việc khác hấp dẫn.
Người tính hoạt: nhanh nhẹn, cân bằng, linh họat, cởi mở trong công
việc mà anh ta hứng thú; dễ quen với mọi người, chịu đựng giỏi trước những
biến đổi nhanh, thích ứng mau; dễ tiếp nhận cái mới, mềm dẻo trong cách ứng
xử, dễ gây được thiện cảm chung.
Người tính đằm: cân bằng về tình cảm và hành động, bình tĩnh, ung
dung, tự kiềm chế cao, suy nghĩ cẩn thận nhưng chậm chạp, khó thích ứng với
những thay đổi nhanh, khó chan hòa mau chóng mà cần thời gian mới “ăn ý”
được với mọi người, kiên trì trong công việc từ đầu đến cuối.
Người tính trầm (ưu): tinh tường, hay ngượng, khó tiếp xúc với mọi
người; dễ mặc cảm, tự ti; cần sự giúp đỡ, cổ vũ thường xuyên; chỉ cảm thấy tự
tin trong những tình huống quen thuộc.
KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển của xã hội,con người cũng đang tự mình hướng
tới sự hoàn thiện nhân cách của mình.Các mỗi quan hệ như hoạt động,giáo
10
dục, ở gia đình,nhà trường, xã hội là một vấn đề rất quan trọng và cần thiết, để
giáo dục cho con người ta lĩnh hội được những tri thức khoa học, để ngày một
phát triển nhân cách con người đến sự hoàn mĩ.Hiện nay giáo dục đang là một
vẫn đề quan trọng cấp bách của các quôc gia trên thế giới. Ở nước ta hiện nay
giáo dục là vấn đề cấp bách và đặt lên hàng đầu và được xem là vấn đề quốc
sách.Tốc độ công nghiệp phát triển cao về kinh tế, văn hoá, xã hội đang có sự
thay đổi rõ nét.Bên cạnh đó còn tồn tại các tệ nạn xã hội,như các tệ nạn tham
nhũng gây ảnh hưởng rất lớn đến chủ nhân tương lai của đất nước đó là trẻ em.
Trong giáo dục cấp trung học phổ thông,vấn đề giáo dục và phát triển nhân
cách là một vấn đề rất quan trọng, ở lứa tuổi này các em có nhiều thay đổi về
mặt tâm lý và sinh lý nên nhu cầu hoàn thiện nhân cách để thích nghi với xã
hội hoá và có thái độ tích cực hơn trong cuộc sống là cực kỳ quan trọng. Giáo
dục để tạo điều kiện và hướng cho thế hệ trẻ các em dần dần tự hoàn thiện
nhân cách.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
11
Nguyến Ngọc Bích,tâm lý học nhân cách-một số vấn đề lý luận, NXBGD,1998
Đào Thị Oanh, vấn đề nhân cách trong tâm lý học ngày nay,NXBFD,1998.
Nguyễn Quang Uẩn,tâm lý hoc đại cương, hn,1995.
Nguyễn Quang Uẩn, Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành, Tâm lý học đại
cương, NXBĐHQG Hà Nội, 1998.
- Trần Trọng Thủy, Bài tập thực hành Tâm lý học, NXBĐHQG Hà Nội, 2002.
- Lê Tuyết Ánh, Kim Thị Dung, Nguyễn Thị Thanh Hằng, Nguyễn Ánh Hồng,
Tâm lý học đại cương, giáo trình ĐHKHXH&NV. Tp HCM, 2004.
/> />%96_Vien_tam_ly_hoc_xin_tran_trong_thong_bao_sach_thang_7_nam_2009.
html
12