Contents
A.Mở bài.......................................................................................1
B.Nội dung...................................................................................3
I.Một số vấn đề cơ bản về Quyền im lặng ở Hoa Kỳ................3
1.Nguồn gốc hình thành và khái niệm của Quyền im lặng.. .3
2.Căn cứ của quyền im lặng ở Hoa Kỳ.................................5
3. Phạm vi áp dụng quyền im lặng tại Hoa Kỳ....................5
II. Các quy định về quyền im lặng trong pháp luật hoa kỳ.......6
1.Nội dung của quyền im lặng trong pháp luật hoa kỳ........6
2. Điều kiện áp dụng quyền im lặng.....................................7
3. Cảnh báo Miranda............................................................9
4.Nguyên tắc “fruit of poisonous tree” (tạm dịch: quả trên
cây độc)........................................................................................10
5.Đánh giá lời khai..............................................................11
III.Một số kinh nghiệm cho Việt Nam.....................................12
C. Kết bài...................................................................................14
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:................................14
0
A.Mở bài
Quyền con người, hay nhân quyền, là một giá trị cơ bản và quan trọng của
nhân loại. Đó là thành quả của sự phát triển lịch sử, là đặc trưng của xã hội văn
minh. Quyền con người cũng là một quy phạm pháp luật, đương nhiên nó đòi
hỏi tất cả mọi thành viên của xã hội, không loại trừ bất cứ ai, đều có quyền và
nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền và tự do của mọi người.
Là một phạm trù đa diện, song quyền con người có mối liên hệ gần gũi
hơn cả với pháp luật. Điều này trước hết là bởi cho dù quyền con người có là
bẩm sinh, vốn có (nguồn gốc tự nhiên) hay phải do các nhà nước quy định
(nguồn gốc pháp lý), thì việc thực hiện các quyền vẫn cần có pháp luật [1]. Hầu
hết những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người (các quyền tự nhiên) không
thể được bảo đảm đầy đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật, mà thông
qua đó, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền không phải chỉ tồn tại dưới
dạng những quy tắc đạo đức mà trở thành những quy tắc ứng xử chung, có hiệu
lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội. Chính vì vậy,
quyền con người gắn liền với các quan hệ pháp luật và là một phạm trù pháp lý.
Trong lĩnh vực pháp luật, vấn đề quyền con người lại là nền tảng trong
việc nghiên cứu và ban hành các quy phạm. Và trong tố tụng hình sự (TTHS)
cũng vậy, việc giải quyết vụ án hình sự không thể tách rời vấn đề bảo đảm quyền
con người. Bởi lẽ để buộc tội và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người
phải dựa trên những căn cứ luật định và phải do những người, những cơ quan có
thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định nhằm mục
đích không để lọt tội phạm song cũng không làm oan người vô tội.Mà nền tảng
của quyền con người, quyền công dân ở một số nước phát triển được thể hiện ở
TTHS thông qua nguyên tắc quyền im lặng.
1
Hiện nay thì các nhà nghiên cứu và xây dựng luật cũng chú tâm đến vấn
đề quyền im lặng trên thế giới, đặc biệt là quyền im lặng được thể hiện trong
pháp luật hoa kỳ. Vì vậy, trong phạm vi bài viết này em xin trao đổi về vấn đề
nhận được rất nhiều sự quan tâm trong thời gian qua đó là “Quyền im lặng
trong pháp luật Hoa Kỳ và những kinh nghiệm cho Việt Nam”
2
B.Nội dung
I.Một số vấn đề cơ bản về Quyền im lặng ở Hoa Kỳ
1.Nguồn gốc hình thành và khái niệm của Quyền im lặng.
1.1 Nguồn gốc hình thành quyền
Kết quả nghiên cứu công bố tại hội thảo do Liên đoàn Luật sư Việt Nam
tổ chức mới đây cho thấy, các học giả thuộc hệ thống thông luật(Common
Law) nhận định “quyền im lặng” có thể ra đời từ giữa thế kỷ 17 ở nước Anh,
như là sự phản kháng đối với Tòa án cung đình (Star Chamber) hay Tòa án
giáo hội (Court of High Commission), đặc biệt chống lại việc áp dụng cực hình
hoặc ép buộc khai báo, xét xử bí mật, không có luật sư bào chữa hoặc luật sư chỉ
có quyền bào chữa hạn chế. Quyền này dựa trên quyền “không tự buộc tội” của
bị cáo. Còn các học giả thuộc hệ thống dân luật (Civil Law) thì cho rằng quyền
im lặng bắt nguồn từ “quyền suy đoán vô tội”, nguyên tắc “ai buộc tội, người đó
phải chứng minh” của luật La Mã cổ đại.
Tuy vậy, phần đông nhiều người vẫn hiểu quyền im lặng xuất phát từ lời
cảnh báo Miranda đã trở thành án lệ theo một phán quyết ngày 13/6/1966 của
Tòa án tối cao Hoa Kỳ trong vụ Miranda kiện Arizona. Theo đó, quyền im lặng
bắt nguồn từ chính án thứ 5 (điều sửa đổi thứ 5 của Hiến pháp) của nước Mỹ,
trong đó có câu: “Không người nào lại bị bắt buộc phải làm chứng chống lại
mình”3. Nói cách khác, Hiến pháp Mỹ nhìn nhận quyền được tự bảo vệ mình
của công dân. Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã khuyến cáo cảnh sát rằng, trước khi
thẩm vấn, cảnh sát phải thông báo cho nghi phạm hình sự biết những quyền của
họ như sau: “Anh cóquyền giữ im lặng và từ chối trả lời câu hỏi. Bất cứ điều gì
anh nói cũng sẽ được dùng để chống lại anh trước tòa. Anh có quyền có luật sư
trước khi khai báo với cảnh sát và luật sư sẽ hiện diện khi cảnh sát thẩm vấn
anh. Nếu anh không thể tìm được luật sư, anh sẽ được cung cấp một luật sư
trước khi trả lời các câu hỏi. Anh có thể trả lời câu hỏi khi không có luật sư,
3
nhưng anh vẫn có quyền ngưng trả lời bất cứ lúc nào để chờ sự có mặt của luật
sư”.
1.2 Khái niệm Quyền im lặng
Theo từ điểm tiếng việt định nghĩa thì quyền là : Điều mà pháp luật hoặc
xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi. Còn im lặng là
không phát ra tiếng động, tiếng nói, dù đang có hoạt động không. Không có một
hành động gì, trước sự việc đáng lẽ phải có thái độ, phải có phản ứng.
Còn theo luật học thì Quyền im lặng là một quyền hợp pháp được công
nhận, một cách rõ ràng hoặc theo quy ước, trong nhiều hệ thống pháp luật trên
thế giới.
Thuật ngữ "Quyền im lặng" (hay gọi là cảnh báo Miranda - Miranda
warning) bắt nguồn từ Hoa Kỳ. Có nhiều sự diễn giải về nguyên tắc này nhưng
tựu trung lại bằng một câu "Không người nào bị bắt buộc phải làm chứng chống
lại mình". Theo nguyên tắc này, người bị bắt giữ, trước khi thẩm vấn, phải được
cho biết rõ ràng rằng người ấy có quyền giữ im lặng; bất cứ điều gì người ấy nói
sẽ được dùng để chống lại người ấy ở tòa án. Người bị buộc tội chỉ có thể khai
báo khi có mặt của luật sư. Luật pháp công nhận quyền này căn bản phán xử dựa
trên chứng cứ.Các chuyên gia cho rằng, quyền im lặng là một phương tiện quan
trọng để hạn chế bức cung, nhục hình - nguyên nhân dẫn đến oan sai trong tố
tụng hình sự. Theo quyền này, một công dân được mặc định là vô tội cho đến
khi các cơ quan pháp luật chứng minh được người đó có tội. Quyền có luật sư
bào chữa và quyền im lặng là 2 trong số các quyền cơ bản của con người.
Như vậy ta có thể hiểu Quyền im lặng là quyền của nghi phạm,người bị
kháng cáo trong một vụ án có quyền im lặng, không phải đưa ra lời khai chống
lại chính mình hay tự buộc mình có tội.
4
2.Căn cứ của quyền im lặng ở Hoa Kỳ
Quyền im lặng là một trong những quyền đã được ghi nhận từ lâu
trong pháp luật Hoa Kỳ và là một quyền cơ bản trong Hiến pháp. Quyền im lặng
được quy định tại Tu chính án 5 Hiến pháp Hoa kỳ ( phê chuẩn ngày 15 tháng 12
năm 1791). Ngoài ra còn được quy định cụ thể tại các đạo luật khác và Tại án lệ
Miranda và Arizona (1966).
3. Phạm vi áp dụng quyền im lặng tại Hoa Kỳ
Qua nghiên cứu pháp luật ở Hoa Kỳ thì ta có nhận thấy quyền im lặng là
một quyền Hiến pháp cơ bản và nó không chỉ được áp dụng trong tất cả các giai
đoạn tố tụng ở Hoa Kỳ. Mà quyền im lặng còn được áp dụng trong các thủ tục
phi hình sự ví dụ như: TTDS, TTHC hoặc thủ tục lập pháp.
Tại tố tụng hình sự thì quyền im lặng được chia ra làm các quyền nhỏ và
tương ứng với mỗi quyền thì sẽ có phạm vi tác động khác nhau: Tại phiên tòa, bị
cáo có một quyền im lặng tuyệt đối. Năm 1965, Tòa án Tối cao đã quy định rằng
sự im lặng của bị cáo tại phiên tòa không thể bị xem như là bằng chứng có tội
hoặc bị sử dụng theo hướng bất lợi đối với bị cáo.
Còn trong các giai đoạn tố tụng trước phiên tòa, nghi phạm cũng có quyền
được giữ sự im lặng tuyệt đối. Năm 1966, phán quyết Miranda đã quy định rằng
nghi phạm phải được cảnh báo về quyền im lặng của họ và nếu họ quyết định
thực hiện quyền của mình thì sẽ không có cuộc thẩm vấn nào được diễn ra. Nói
cách khác, bị cáo và nghi phạm được trao cho quyền được giữ sự im lặng tuyệt
đối mà không cần đưa ra bất kỳ lý do nào cho việc thực hiện quyền của mình.
Tuy nhiên, đối với quyền im lặng của người làm chứng, thì đây chỉ là một quyền
tương đối. Có nghĩa là, người làm chứng không thể giữ im lặng hoàn toàn, mà
họ có nghĩa vụ phải trả lời các câu hỏi từ cơ quan có thẩm quyền. Để có thể viện
dẫn quyền im lặng, người làm chứng có nghĩa vụ chứng minh rằng việc trả lời
một câu hỏi cụ thể nào đó có thể dẫn đến hệ quả là họ có thể bị truy tố từ thông
tin có trong câu trả lời. Như vậy, so sánh với bị cáo và nghi phạm, người làm
chứng được trao quyền im lặng một cách hạn chế hơn.
5
Cần lưu ý là, trong các thủ tục tố tụng phi hình sự, các Tòa án thường từ
chối một sự im lặng tuyệt đối. Người nào viện dẫn quyền im lặng từ Tu chính án
thứ 5 phải chứng minh cơ sở hợp lý cho sự im lặng của mình, nghĩa là câu trả lời
của họ có khả năng buộc họ phải chịu các trách nhiệm hình sự sau này. Tóm lại,
quyền im lặng là một quyền con người cơ bản, được quy định trong Hiến pháp
Hoa Kỳ. Nội dung và phạm vi tác động của quyền này khác nhau tùy thuộc vào
hoàn cảnh pháp lý mà nó được vận dụng.
II. Các quy định về quyền im lặng trong pháp luật hoa kỳ
1.Nội dung của quyền im lặng trong pháp luật hoa kỳ
Tại Tu chính án 5 Hiến pháp Hoa kỳ ( phê chuẩn ngày 15 tháng 12 năm
1791) quy định: "Không người nào bị buộc phải trả lời về một tội có mức án tử
hình hoặc một trọng tội nào khác, nếu không có một cáo tội trạng hay tố cáo
trạng do một đại bồi thẩm đoàn đưa ra, ngoại trừ trong các trường hợp xảy ra
trong lục quân, hải quân, hoặc trong hàng ngũ dân quân, khi đang thi hành công
vụ trong thời chiến hoặc khi có nguy hiểm cho quần chúng; và không người nào
phải bị xử hai lần cho cùng một tội có thể đưa đến tử hình hoặc giam cầm; và
trong bất kỳ vụ án hình sự nào cũng không phải bị ép buộc làm nhân chứng
chống lại chính mình, và không thể bị tước đoạt sinh mạng, tự do, hoặc tài sản,
nếu không qua một quá trình xét xử theo đúng thủ tục quy định của pháp luật;
không một tài sản tư hữu nào bị trưng dụng cho mục đích công cộng nếu không
được bồi thường thỏa đáng".
Như vậy ta có thể hiểu quyền im lặng trong tố tụng hình sự, bao gồm ba
quyền riêng biệt của ba chủ thể khác nhau:
a)
Quyền im lặng của bị cáo, có chức năng bảo vệ bị cáo trước sự đòi
hỏi của phía công tố buộc bị cáo phải đứng lên bục nhân chứng trong vụ án của
chính mình
b)
Quyền im lặng của người làm chứng, theo đó người làm chứng có
quyền từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào nếu câu trả lời có thể dẫn đến một sự
truy tố hình sự
6
c)
Quyền im lặng của nghi phạm ngăn chặn các cơ quan công quyền
sử dụng các lời khai, lời nhận tội được thu thập không tự nguyện trong giai
đoạn trước phiên tòa.
Việc sử dụng "Quyền im lặng" bao gồm và từ chối trả lời mọi câu hỏi, vì
mọi lời nói của một người đều có thể bị đem ra làm bằng chứng chống lại bản
thân anh ta. Ngoài ra theo Tu chính án 5 còn bắt công tố viên ngoài lợi khai bị
cáo còn phải có bằng chứngkhác để chứng minh bị cáo có tội.
2. Điều kiện áp dụng quyền im lặng
Theo pháp luật Hoa Kỳ để có thể được bảo vệ bởi Tu chính án thứ 5, một
hành vi phải có mang tính chất lời khai, tính chất tự buộc tội và tính chất bị
cưỡng ép. Nói cách khác, muốn sử dụng quyền im lặng bảo vệ thì hành vi đó
phải đáp ứng được ba thành tố: tính chất lời khai, tính chất tự buộc tội và tính
chất bị cưỡng ép
Thứ nhất, tính chất lời khai chưa được Tòa án tối cao của Hoa Kỳ đưa ra
một khái niệm cụ thể cũng như giải thích nó. Ở đây dựa trên thực tế những phán
quyết của Tòa án có liên quan đến quyền im lặng thì ta có thể tạm hiểu là tính
chất lời khai có thể bao gồm lời khai và những hành vi khác có thể tiết lộ suy
nghĩ của một người. Hay ta có thể hiểu quyền im lặng không chỉ bảo vệ lời khai
mà còn bảo vệ cả hành vi.
Một ví dụ về hành vi mang tính chất lời khai thuộc về án lệ United States
và Hubbell, theo đó một lệnh yêu cầu Hubbell phải cung cấp tất cả các văn bản
có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến nguồn tiền hoặc các vật có gì trị khác
được nhận hoặc cung cấp bởi Hubbell. Để có thể thực hiện được lệnh này,
Hubbell phải thực hiện việc suy nghĩ để xác định được tài liệu nào có liên quan
đến nguồn tiền hoặc vật có giá trị. Vì vậy, hành vi yêu cầu cung cấp tài liệu
trong trường hợp này là một hành vi mang tính chất lời khai.
7
Ngoài ra ta có thể thấy những hành vi khác không tiết lộ sự suy nghĩ
không thuộc phạm vi bảo vệ của quyền im lặng ví dụ như yêu cầu viết chữ, thực
hiện một hành vi mang tính phản xạ, hoặc yêu cầu đứng ra để người khác nhận
dạng, cung cấp mẫu máu, mẫu DNA, hoặc mẫu nước tiểu… không thuộc pham
vi bảo vệ của tu chính án thứ 5.
Thứ hai , tính chất tự buộc tội có nghĩa là hành vi đó khiến cho chủ thể
thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt. Năm 1968 và
1983, Tòa án Tối cao đã ghi nhận rằng, yếu tố quan trọng nhất của quyền im
lặng chính là liệu người thực hiện lời khai có phải chịu một trách nhiệm hình sự
thực chất, hiện hữu hay không. Quan trọng hơn, năm 1951, Tòa án Tối cao quy
định rằng, quyền im lặng không chỉ bảo vệ trực tiếp đến các lời khai có thể dẫn
đến trách nhiệm hình sự, mà còn bảo vệ đến các chứng cứ khác có thể dẫn đến
trách nhiệm hình sự có nguồn gốc từ lời khai đó.
Thứ ba, tính chất cưỡng ép, cơ sở để đánh giá tính chất cưỡng ép chính là
“có hay không ý chí tự do của người cho lời khai”. Sự cưỡng ép có thể có nguồn
gốc từ các thủ tục pháp lý chính thức như lệnh của thẩm phán, hoặc từ các sức
ép không chính thức. Đối với sức ép không chính thức, sự cưỡng ép có thể xuất
phát từ việc đe dọa, tra tấn hoặc từ sự hứa hẹn. Đặc biệt là, ý niệm về cưỡng ép
trong Tu chính án thứ 5 chỉ giới hạn ở cưỡng ép của Nhà nước, sự cưỡng ép tư
nhân không thuộc phạm vi điều chỉnh của quyền im lặng. Tuy nhiên, trên thực
tế, đôi khi hành vi của tư nhân lại đại diện cho quyền lực nhà nước, do đó nếu có
một sự gắn kết chặt chẽ giữa quyền lực nhà nước và hành vi của tư nhân thì
hành vi của tư nhân có thể được xem xét như là hành vi của Nhà nước.
Tóm lại, để có thể thực hiện quyền im lặng, ba tính chất lời khai, tự buộc tội và
cưỡng ép phải được đáp ứng.
3. Cảnh báo Miranda
Trong lịch sử phát triển của quyền im lặng, án lệ Miranda đóng một vai
trò quan trọng trong quá trình phát triển của quyền này. Trong suốt thời gian
8
trước án lệ Miranda, các Tòa án Hoa Kỳ thường đánh giá lời khai của nghi phạm
được thu thập trong phòng thẩm vấn của cảnh sát dựa trên trình tự tố tụng công
bằng của Tu chính án thứ 14 nhưng án lệ Miranda 1966 đã chuyển trọng tâm của
các tiêu chuẩn đánh giá lời khai sang quyền im lặng tại Tu chính án thứ 5.
Tại án lệ Miranda và Arizona (1966), để giải quyết vụ án, Tòa án Tối cao phải
trả lời một câu hỏi pháp lý rằng liệu quyền im lặng ở Tu chính án thứ 5 có phạm
vi tác động đến các cuộc thẩm vấn nghi phạm của cảnh sát hay không.
Cuối cùng, với tỷ lệ 5 - 4, câu trả lời của Tòa án tối cao là có.
Như vậy lời cảnh báo Miranda đã trở án lệ theo một phán quyết năm 1966
của Tòa án tối cao Hòa Kỳ trong vụ Miranda kiện Arizona.Theo đó "Anh
có quyền giữ im lặng và từ chối trả lời câu hỏi. Bất cứ điều gì anh nói cũng sẽ
được dùng để chống lại anh trước tòa. Anh có quyền có luật sư trước khi khai
báo với cảnh sát và luật sư sẽ hiện diện khi cảnh sát thẩm vấn anh. Nếu anh
không thể tìm được luật sư, anh sẽ được cung cấp một luật sư trước khi trả lời
các câu hỏi. Anh có thể trả lời câu hỏi khi không có luật sư, nhưng anh vẫn có
quyền ngưng trả lời bất cứ lúc nào để chờ sự có mặt của luật sư." .
Lời cảnh báo Miranda thường được thông báo ngay sau khi nghi phạm bị
bắt giữ. Cảnh sát sẽ phải lập tức dừng việc thẩm vấn một người nếu : Sau khi
người đó được cung cấp Lời cảnh báo Miranda
+ Nghi phạm nói rõ rằng anh ta không muốn trả lời, nói chuyện hoặc
+ Nghi phạm nói rõ rằng anh ta muốn nói chuyện với một luật sư.
Quyền im lặng không chỉ dừng lại ở phòng thẩm vấn mà còn có cả tại tòa
án, bồi thẩm đoàn và công tố viên không được phép suy diễn việc bị cáo sử dụng
Quyền im lặng có nghĩa là bị cáo có tội, quyền im lặng còn có thể được nhân
chứng sử dụng. Tuy nhiên nếu bị cáo quyết định đứng lên làm chứng và đưa ra
các lời khai thì người đó không còn quyền từ chối trả lời các câu hỏi có liên
quan đến lời khai đó.
9
Tóm lại, cảnh báo Miranda là một đảm bảo pháp lý mang tính thủ tục mà
cảnh sát phải đáp ứng trước mỗi cuộc thẩm vấn nghi can nhằm đảm bảo nghi
can có thể biết và sử dụng quyền im lặng tại Tu chính án thứ 5.
4.Nguyên tắc “fruit of poisonous tree” (tạm dịch: quả trên cây
độc)
Nguyên tắc “Fruit of the poisonous tree” được hiểu là một nguyên tắc
đánh giá chứng cứ. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện chứng cứ không được
thu thập một cách hợp pháp đều không có giá trị pháp lý để sử dụng tại Tòa.
Mỗi sự vi phạm sẽ có những sự vận dụng khác nhau tùy theo nguồn gốc của sự
vi phạm. Trong đó sự vi phạm về quyền im lặng sẽ xẩy hai trường hợp mà lời
khai bị cưỡng ép cần phải phân biệt.
Trường hợp thứ nhất, lời khai được giả định là cưỡng ép trong sự liên hệ
với cảnh báo Miranda. Tòa án Tối cao ghi nhận rằng, trong trường hợp người
thẩm vấn không thực hiện cảnh báo Miranda nhưng nghi phạm lại tự nguyện cho
lời khai và thông tin từ lời khai đó dẫn đến các chứng cứ vật lý khác thì các
chứng cứ vật lý đó được chấp nhận tại Tòa. Tòa án Tối cao cho rằng, cảnh báo
Miranda là một đảm bảo pháp lý nhằm chống lại sự vi phạm quyền im lặng của
Tu chính án thứ 5, do đó, cảnh báo Miranda không có tác động gì đến giá trị
pháp lý của các chứng cứ vật lý, là hệ quả của các lời khai tự nguyện. Như vậy,
mặc dù bất kỳ lời khai nào được đưa ra trong quá trình thẩm vấn mà không có
cảnh báo Miranda đều được mặc định đương nhiên là kết quả của sự cưỡng ép
nhưng lời khai được mặc định là không tự nguyện đó có thể dẫn đến các chứng
cứ vật lý được chấp nhận tại Tòa.
Thứ hai, lời khai được xem là cưỡng ép do sự tác động của các sự ép buộc
chính thức, như lệnh của người có thẩm quyền, hoặc phi chính thức, như đe dọa,
tra tấn, hoặc dụ dỗ. Tòa án Hoa Kỳ thường loại trừ tất cả chứng cứ vật lý nào
được thu thập dựa trên thông tin của lời khai bị cưỡng ép trong trường hợp này.
10
5.Đánh giá lời khai
Pháp luật Hoa Kỳ hiện hành quy định lời khai của người bị buộc tội có thể
được chấp nhận tài tòa án thì cần trải qua thủ tục Due Process Voluntariness Test
(Tạm dịch: Trình tự công bằng kiểm tra tính tự nguyện), hay còn được gọi là
Test of Totality of the Circumstances (Tạm dịch: Kiểm tra toàn bộ hoàn
cảnh).Thủ tục này bao gồm 2 giai đoạn trong đó sẽ xem xét đến hoàn cảnh
khách quan của cuộc thẩm vấn và tính cách cá nhân của người bị thẩm vấn.
Giai đoạn một là: Kiểm tra người bị thẩm vấn có biết về quyền im lặng
của mình hay không (need be knowing)
Trong giai đoạn này sẽ kiểm tra xem cảnh báo Miranda nêu trước mỗi
cuộc thẩm vấn không .Cảnh báo này đơn giản là giúp người bị thẩm vấn biết rõ
về quyền im lặng của họ. Quan trọng hơn, cảnh báo này chỉ ra rằng, người tiến
hành thẩm vấn hiểu rõ và sẵn sàng đáp ứng sự im lặng của người bị thẩm vấn.
Nếu một cuộc thẩm vấn bắt đầu mà không có cảnh báo Miranda, bất kỳ lời khai
nào được đưa ra đương nhiên được xem như là kết quả của sự cưỡng ép và do
đó, không thể được chấp nhận và sử dụng tại phiên tòa như là chứng cứ.
Đối với giai đoạn này , “need be knowing”,việc nêu cảnh báo Miranda về
quyền im lặng trước mỗi cuộc thẩm vấn là yêu cầu duy nhất để lời khai vượt qua
giai đoạn này..
Ở giai đoạn hai sẽ kiểm tra tính chất tự nguyện (voluntary) được Tòa án
Hoa Kỳ áp dụng dựa trên các tiêu chuẩn định tính, có thể thay đổi theo từng vụ
án cụ thể, để xem xét khía cạnh khách quan và khía cạnh chủ quan của cuộc
thẩm vấn từ đó giúp thẩm phán xác định đượclời khai có xuất phát từ ý chí tự do
không.
Khía cạnh khách quan (objective standards), nghĩa là Tòa án sẽ xem xét
đến cách thức mà cuộc thẩm vấn được thực hiện, thời gian, địa điểm và các yếu
tố khác. Tại án lệ Bram và United States, Tòa án tối cao đã quy định rằng, một
11
lời khai tự nguyện phải không được thu thập bởi bất kỳ sự uy hiếp hoặc xâm
phạm nào về thể chất, tinh thần hoặc bởi lời hứa hẹn nào. Một số ví dụ cụ thể,
như tại án lệ và , Tòa án xác định rằng, việc tra tấn tinh thần cùng sự đe dọa sử
dụng bạo lực cấu thành sự cưỡng ép, từ đó đã loại trừ lời khai của nghi phạm.
Hoặc tại án lệ và , Tòa án tuyên bố cuộc thẩm vấn kéo dài liên tục 36 giờ đã tạo
ra áp lực về mặt tinh thần cho người bị thẩm vấn, từ đó lời khai được thu thập từ
cuộc thảm vấn đó đã bị loại trừ.
Khía cạnh chủ quan (subjective standards), bao gồm tất cả các đặc điểm
về thể chất, tinh thần của người bị thẩm vấn, ví dụ như tuổi tác, thể trạng, mức
độ ổn định tâm thần hoặc các vấn đề bệnh lý khác. Ví dụ, tại án lệ Gallegos và
Colorado, Tòa án xác định rằng lời khai của nghi phạm 14 tuổi là không hợp
pháp bởi cuộc thẩm vấn tuy không ảnh hướng lớn đến người thành niên nhưng
có thể tác động đến não bộ trẻ tuổi của nghi phạm. Một ví dụ khác, tại án lệ
Spano và New York, Tòa án đã loại trừ lời khai của nghi phạm Spano vì tâm lý
không ổn định của nghi phạm đã bị ảnh hưởng bởi chiến thuật thẩm vấn của
cảnh sát.
Tóm lại, tính tự nguyện đóng vai trò chủ yếu trong việc đánh giá lời khai
của người bị buộc tội tại Hoa Kỳ. Tự nguyện đây ta có thể hiểu là sự tự do trong
y chí của người phạm tội khi đưa ra lời khai.
III.Một số kinh nghiệm cho Việt Nam
Một số kinh nghiệm sau có thể được cân nhắc áp dụng cho chế định
quyền im lặng tại Việt Nam:
Thứ nhất, cần mở rộng phạm vi tác động của quyền im lặng đến các chủ
thể khác tham gia vào TTHS vì hiện nay Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ
quy định người bị buộc tội có quyền im lặng, gồm bốn chủ thể: Người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, đối với chủ thể tham gia tố tụng
không bị buộc tội như người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, hoặc
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thì không được luật trao cho quyền im
12
lặng và đều có nghĩa vụ phải khai báo trung thực về các tình tiết liên quan đến
vụ án. Việc Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không trao quyền im lặng cho các
chủ thể này có khả năng khiến họ bị buộc phải đưa ra lời khai tự buộc tội trong
một số trường hợp, từ đó xâm phạm giá trị cốt lỗi được bảo vệ bởi quyền im
lặng là sự tự do ý chí cá nhân.Việc mở rộng này nhằm đảm bảo những người
tham gia tố tụng sẽ đưa ra lời khai trong một vụ án mà không phải đối mặt với
nguy cơ bị chính các lời khai đó chống lại chính mình trong một vụ án khác, từ
đó đảm bảo quyền im lặng của họ.
Thứ hai, cho thêm đối tượng của quyền im lặng là các hành vi tự buộc tội
chứ không chỉ riêng là lời khai. Căn cứ theo phân tích câu từ, phạm vi tác động
của quyền im lặng theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ bao gồm lời khai
chống lại mình và lời nhận tội (gọi chung là lời khai). Theo quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015, bên cạnh lời khai, việc buộc tội còn dựa trên các
chứng cứ khác gồm: Vật chứng; dữ liệu điện tử; kết luận giám định, định giá tài
sản; biên bản trong hoạt động tố tụng; kết quả ủy thác tư pháp và các tài liệu, đồ
vật khác. Như vậy, nếu căn cứ theo cách tiếp cận của Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015, một người hoàn toàn có thể bị buộc phải thực hiện một số hành vi để
tạo lập các chứng cứ đó. Túc là họ có thể sẽ bị thực hiện những hành vi buộc tội
mình chính vì thế nên mở rộng thêm cả những hành vi thể hiện sự suy nghĩ thì
cũng được bảo vệ bởi quyền im lăng.
13
C. Kết bài
Trong cuộc sống hiện nay, vai trò của quyền im lặng trong khoa học pháp
lý cũng như thực tiễn thì không thể nào phủ nhận được, có thể xem đây là
một quyền tiến bộ trong việc đảm bảo quyền con người nhưng nếu áp dụng một
cách rập khuôn quyền im lặng vào luật tố tụng hình sự Việt Nam thì sẽ gây
không ít tai hại, bởi cái gì cũng có hai mặt của nó.Dưới góc độ nhìn nhận của cá
nhân,em nghĩ quyền im lặng cần được ghi nhận nhưng có những điều chỉnh,
thay đổi phù hợp với pháp luật Luật nước ta chứ không thể áp dụng rập khuôn
theo các nước khác vì mỗi nước có những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau.
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Giáo trình tư pháp hình sự so sánh, TR. Đại học kiểm sát Hà Nội
2. Võ Minh Kỳ, Quyền im lặng trong pháp luật Hoa Kỳ và một số kinh
nghiệm cho Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần
Thơ, />ItemID=203
3. Lê Kiên, Tranh luận sôi nổi về quyền im lặng, Báo điện tử Tuổi Trẻ,
ngày 28/5/2015, />
14