ĐỀ SỐ
14
BỘ ĐỀ THI THPT QUỐC GIA THEO CHUẨN CẤU TRÚC ĐỀ THI CỦA BỘ
GD&ĐT
Môn: Ngữ Văn
Thời gian làm bài: 120 phút.
Đề thi gồm 02
trang
BỨC TRANH MÀU XANH
I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm)
Đọc văn bản sau:
Tường nhà tôi thường treo nhiều tranh
Đẹp nhất vẫn là bức tranh màu xanh
Cửa sổ
Khói trắng dăng dăng ngang tầm thành phố
Dãy núi lam sương, cánh đồng biếc mạ...
Và rung rinh vài nhánh cây, chùm quà
Cùng với những gì gọi là cuộc đời
Tất cả dẵm trên nền vĩnh cửu: bầu trời
Bức tranh màu xanh tôi thường say ngắm nhất
Mỗi tia sáng làm đổi thay màu sắc
Mỗi hạt mưa, làn sương, cánh chim
Đã khảm vào tôi từ thuở biết nhìn
Và phác trong tôi bao đường nét bình yên
Rồi một sáng tôi nghe lời bức tranh đằm thắm:
“Anh không thể chỉ đắm say đứng ngắm
Anh phải là một nét vẽ dẫu đơn sơ”.
(Bức tranh của tôi, Nguyễn Duy, )
Trả lời các câu hỏi sau:
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản?
Câu 2. Với nhà thơ, bức tranh nào là đẹp nhất? Bức tranh ấy được vẽ lên bởi những màu sắc và hình ảnh
nào?
Câu 3. Theo anh/ chị, vì sao tác giả chọn bức tranh đó là bức tranh đẹp nhất?
Câu 4. Nêu ý nghĩa của bức tranh màu xanh ấy đối với anh/ chị?
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm)
Bàn luận về ý kiến: “Anh không thể chỉ đắm say đứng ngắm/Anh phải là một nét vẽ dẫu đơn sơ".
Câu 2 (5 điểm)
Cảm nhận về vẻ đẹp của hai đoạn thơ dưới đây:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Trang 1/5
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Tây Tiến - Quang Dũng)
“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
(Đất Nước - trích trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm)
Trang 2/7
HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1
Văn bản được viết theo phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
Câu 2
Theo nhà thơ, bức tranh đẹp nhất chính là bức tranh màu xanh - cửa sổ.
Bức tranh ấy được vẽ lên bởi màu chủ đạo là màu xanh của nền trời, các hình ảnh thiên
nhiên hiện lên trong đó cũng rất phong phú:
+ Khói trắng dăng dăng ngang tầm thành phố
+ Dãy núi lam sương, cánh đồng biếc mạ...
+ Rung rinh vài nhánh cây, chùm quả
+ Mỗi tia sáng làm đổi thay màu sắc
+ Mỗi hạt mưa, làn sương, cánh chim
Câu 3
Bức tranh màu xanh đó đẹp nhất trong quan niệm của tác giả bởi lẽ nó“Đã khảm vào tôi
từ thuở biết nhìn/ Và phác trong tôi bao đường nét bình yên”, bức tranh chứa trong nó
những nét vẽ đơn sơ, chân thực, sinh động, khiến tác giả say ngắm và ngẫm suy.
Câu 4
- Về hình thức: 5-7 dòng, diễn đạt mạch lạc.
- Về nội dung: Nêu suy nghĩ của bản thân về bức tranh màu xanh đặc biệt: trân trọng cuộc
sống, tha thiết với cuộc sống muôn màu,...
Sau đây là một ví dụ:
Có khi nào bạn dành một phút giây ngắm nhìn ra bên ngoài khung cửa sổ - bức tranh sinh
động và chân thực nhất? Khi ấy, bạn sẽ thấy những điều diệu kì của một bức tranh cổ tích.
Một bức tranh giàu sắc màu và đường nét, có sức mạnh thay đổi tâm trạng của mỗi người.
Với riêng tôi, bức tranh ấy thú vị ở những điều thú vị nho nhỏ mang đậm hương vị của
cuộc sống: một con mèo nhảy hụt khỏi mái nhà bổ nhào, một bông hoa đang độ rực rỡ,...
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm)
Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:
• Xác định đúng vấn đề nghị luận.
• Nêu được quan điểm cá nhân và bàn luận một cách thuyết phục, hợp lí.
• Đảm bảo bố cục: mở - thân - kết, độ dài 200 chữ.
• Lời văn mạch lạc, lôi cuốn, đàm bảo chính tả và quy tắc ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
Có nhiều hướng trình bày ý kiến, sau đây chỉ là một gợi ý:
Câu
Nêu vấn đề
Nội dung
+ Vấn đề
+ Giải thích
Đoạn văn
+ "Anh không thể chỉ đắm say đứng ngắm/ Anh phải là một
nét vẽ dẫu đơn sơ”.
+ Khi anh đứng ngắm, anh chỉ là khán giả bên ngoài, là kẻ
thụ hưởng.
+ Anh hãy là một nét vẽ, hãy tham gia làm nên vẻ đẹp của
bức tranh ấy
Trang 3/7
Luận bàn
Vì sao cần tham gia vào + Bức tranh cửa sổ ấy vẽ những điều chân thực, đó chính là
bức tranh ấy?
bức tranh thiên nhiên chân thực, bức tranh cuộc sống đa sắc
màu.
+ Mỗi người góp một nét vẽ, mỗi người biết cống hiến.
Bức tranh mới đa dạng và sinh động.
+ Tác giả nhắc nhở mọi người cần nhìn nhận lại bản thân, để
tham gia tích cực, đóng góp sức mình - dù bé nhỏ - cho tập
thể.
"Một nốt trầm xao xuyến/ Tan biến trong hòa ca
Khi đó, họ sẽ cảm nhận được giá trị của bản thân, tự hào và
lạc quan hơn trong cuộc sống.
+ Phê phán những người chỉ biết đứng ngoài, bàng quan với
cuộc sống, tách mình khỏi thiên nhiên.
Phản biện
Sao không phấn đấu là Nhưng vì sao lại chỉ là một nét vẽ đơn sơ. cần nỗ lực hết sức
một nét vẽ đậm màu?
mình để nét vẽ chính mình là nét vẽ sắc màu rực rỡ hơn.
Giải pháp
+ Nhận thức
+ Giữ thái độ tích cực hòa mình vào dòng chảy của xã hội.
+ Hành động
+ Coi mình là một sợi tơ của cái tổ thiên nhiên kì vĩ, hòa
mình vào thiên nhiên, trân trọng từng phút giây cuộc sống.
Bài học cho bản thân
Là thanh niên, chúng ta càng cần có tinh thần hòa nhập, cống
hiến.
Liện hệ
Câu 2 (5 điểm)
Yêu cầu chung: 0,5 điểm
Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài
viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.
Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung: 4,5 điểm
ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ
- Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: Đất Nước, Tây Tiến
- Dạng bài: So sánh
- Yêu cầu: Phân tích những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của từng đoạn thơ, nêu được nét tương
đồng và khác biệt của hai bài thơ cũng như quan niệm của tác giả.
TIẾN TRÌNH LÀM BÀI
KIẾN THỨC
HỆ THỐNG Ý
PHÂN TÍCH CHI TIẾT
CHUNG
Khái quát vài
nét về tác giả tác phẩm
- Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng
thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta. Thơ
ông hiện niềm say mê lý tưởng, ý thức cao về vai trò và trách nhiệm
của tuổi trẻ về đất nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thấm đẫm chất
triết luận xuất phát từ vốn tri thức uyên bác và bề sâu văn hoá trong
mối liên tưởng vừa sắc sảo triết lý lại vừa huyền ảo thấp thoáng bóng
dáng văn hoá cổ xưa của hồn dân tộc.
0,5 điểm
Trang 4/7
- Đất Nước được trích từ phần đầu chương V của bản trường ca Mặt
đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm - bản trường ca được sáng
tác tại chiến khu Trị - Thiên năm 1971 và gửi ra Bắc in lần đầu năm
1974.
- Quang Dũng (1921-1988) người làng Phượng Trì, Đan Phượng, Hà
Tây nhung chủ yếu sống ở Hà Nội. Ông là một nghệ sĩ đa tài: thơ ca,
nhạc, họa nhưng thành công hơn cả vẫn là thơ ca. Ông là một trong
số những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam từ sau
Cách mạng tháng Tám.
Bài thơ Tây Tiến được đánh giá là một kiệt tác trong sự nghiệp sáng
tác của Quang Dũng nói riêng và trong thơ ca thời kì chống pháp nói
chung.
TRỌNG
TÂM
Đất nước
- Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã gợi nhắc về cả bề dày lịch sử bốn
nghìn năm. Cha ông ta đã làm nên lịch sử oanh liệt bằng sự tiếp nối
không ngừng nghỉ. Họ là biết bao người con gái con trai cần cù làm
lụng chăm lo cho cuộc sống, vun vén cho gia đình khi đất nước hoà
bình, nhưng họ đã sẵn sàng dâng hiến tuổi xanh, hiến dâng thân mình
khi tổ quốc kêu gọi. Họ đã làm một cuộc chạy tiếp sức đầy nhọc
nhằn, gian khó để dựng xây và bảo vệ, vun đắp và gìn giữ Đất Nước
cho chúng ta hôm nay.
- Nhà thơ khéo léo nhân mạnh vào vai trò, sức mạnh của lớp người
trẻ tuôổi (“giống ta lứa tuổi”) để thức tỉnh tuổi trẻ đất nước tự nguyện
xả thân cứu nước, giữ nước. Đất Nước này được làm nên tư máu
xương, từ sự hi sinh giản dị, bình tâm của những con người đã “ra đi
không tiếc đời mình”.
4,0 điểm
- Viết về lịch sử Đất Nước, tác giả không nhắc về những sự kiện lịch
sử trọng đại, những người anh hùng nổi tiếng lưu danh sử sách mà
ông viết về những người anh hùng vô danh mà vĩ đại vô cùng. Ngòi
bút của ông thật tinh tế, khéo léo gợi những suy tư sâu xa trong lòng
người đọc. Khi ông viết về công lao, vai trò to lớn của nhân dân đối
với lịch sử Đất Nước thì câu thơ kéo ra rất dài. Nhưng khi viết về sự
hi sinh thì câu thơ co ngắn lại; “Họ đã sống và chết/ Giản dị và bình
tâm”. Những từ ngữ “giản dị”, “bình tâm” và những từ đối lập ‘sống
- chết” cho thấy nhân dân đã tự nguyện hi sinh cho sự sống bất tận
của Đất Nước. Các thế hệ nhân dân đã hi sinh nhẹ nhàng, thanh thản.
Họ thật cao cả, vĩ đại, phi thường - “Không ai nhớ mặt đặt tên/
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Nhà thơ đã đặt những cái vĩnh hằng
bên cạnh cái giản dị, vô danh để khẳng định, ngợi ca nhân dân, vai
trò của nhân dân đối với Đất Nước. Qua đó, nhà thơ đã thể hiện niềm
kính trọng, biết ơn đối với Nhân Dân.
Tây tiến
- Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái
chết: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “Áo bào thay chiếu anh về
đất”. Đó là những hình ảnh để nói lên sự thật khốc liệt của chiến
tranh. Những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa
Trang 5/7
xôi, là những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến
cả mảnh chiếu che thân.
- Thế nhưng hình ảnh những nấm mồ đã bị mờ đi trước lí tưởng quên
mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến: “Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh”. Chiến trường là chốn tử địa, đi dễ khó về, đời xanh là
cuộc đời đang độ tươi đẹp nhất, vậy mà đi chẳng tiếc, đó chính là vẻ
đẹp sáng ngời của lý tưởng, xua tan đi cái buồn thương, biến bi thành
sự hùng tráng. Và hình ảnh anh lính gục ngã, chẳng có manh chiếu
liệm, thì nay, họ hoá những anh hùng, được bọc trong tấm áo bào
sang trọng mà về với đất.
- Có thể nói những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này mang
dáng vẻ của những anh hùng chinh phu thuở xưa một đi không trở
lại. Họ chết vì lý tưởng lớn, là cái chết đầy vinh quang, cái chết của
vị chiến tướng xưa, khoác lên mình tấm chiến bào hiển hách, rạng
ngời công trạng, chết vì thanh xuân của dân tộc, cái chết ấy là cái
chết lớn, cái chết đáng được cả đất nước ngợi ca.
Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ
miêu tả thật trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu
sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn
người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng. Họ ra đi, nhưng
tráng chí thì còn sống mãi, đó là tinh thần của những bậc trượng phu,
ra đi vì nghĩa lớn, như vị đại tướng quân Trần Quốc Tuấn từng viết:
”Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong
da ngựa, ta cũng vui lòng”
Tương đồng và
khác biệt
Tương đồng:
- Hai đoạn thơ đều nói tới sự hi sinh thầm lặng của những người anh
hùng vô đanh để “làm nên Đất Nước muôn đời”
- Hai đoạn thơ đều được viết ra bởi sự yêu thương, trân trọng, biết ơn
của các tác giả - những người đang sống trong những giai đoạn lịch
sử gian khổ mà hào hùng.
Khác biệt:
- Đoạn thơ trong bài Tây Tiến được viết trong những năm đầu của
thời kì kháng chiến chống Pháp với nỗi nhớ của nhà thơ về đồng đội,
bằng kí ức về một thời oanh liệt của người trong cuộc. Đoạn thơ
được viết bằng cảm xúc mãnh liệt chân thành, sự kết hợp bút pháp tả
thực và lãng mạn.
- Đoạn thơ trong bài Đất Nước được viết trong năm cuối của thời kì
kháng chiến chống Mĩ. Trong cuộc kháng chiến, chúng ta có nhiều
thắng lợi vẻ vang nhưng vận nước vẫn rất mong manh. Lúc này cần
sự đóng góp của tất cả mọi lực lượng. Bài thơ, đoạn thơ này nhằm
thức tỉnh tuổi trẻ về trách nhiệm đối với Đất Nước - cũng là một cách
kêu gọi tinh thần đấu tranh của tuổi trẻ.
- Đoạn thơ trong bài Tây Tiến được viết bằng thể thơ thất ngôn, có sử
dụng nhiều từ Hán Việt trang trọng với giọng điệu thơ dứt khoát,
Trang 6/7
mạnh mẽ, âm hưởng hào hùng để tô đậm hiện thực khốc liệt của
chiến tranh và khẳng định sự bất tử của người chiến sĩ vô danh.
- Đoạn thơ trong Đất Nước được viết bằng thể thơ tự do, giọng điệu
tâm tình trò chuyện, từ ngữ giản dị, gần gũi nhằm khẳng định vai trò
to lớn của nhân dân vô danh.
Trang 7/7