BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA THỦY SẢN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
KHẢO SÁT MỘT SỐ YẾU TỐ NHẰM NÂNG CAO
TỶ LỆ SỐNG CÁ TRA GIỐNG
Sinh viên thực hiện: PHAN THÀNH THUẬN
Ngành: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Niên khóa: 2006 – 2010
Tháng 7/2010
KHẢO SÁT MỘT SỐ YẾU TỐ NHẮM NÂNG CAO
TỶ LỆ SỐNG CÁ TRA GIỐNG
Tác giả
PHAN THÀNH THUẬN
Khóa luận được đệ trình để đáp ứng yêu cầu cấp bằng Kỹ sư
Ngành Nuôi Trồng Thủy Sản
Giáo viên hướng dẫn:
Ths. Phạm Văn Nhỏ
Tháng 7 năm 2010
i
CẢM TẠ
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn:
Ban Giám Hiệu Trường Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh.
Quý thầy cô đã tận tình giảng dạy cho chúng tôi trong suốt thời gian học ở
trường.
Ban Chủ Nhiệm và quý thầy cô trong Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Nông
Lâm Tp. Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện cho chúng tôi
hoàn tất tốt khóa học.
Đặc biệt, tôi xin gởi lời biết ơn sâu sắc đến thầy Phạm Văn Nhỏ đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Gia đình, các anh, chị, các bạn sinh viên trong và ngoài lớp đã giúp đỡ và động
viên tôi thực hiện đề tài.
Xin cảm ơn Ban Giám Đốc Công ty TNHH GreenFeed Việt Nam đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này.
Chân thành cảm ơn anh Nguyễn Tấn Lành, anh Nguyễn Nhựt Thanh và toàn thể
các anh đang làm việc và công tác tại trại cá giống Ô Môn, Cần Thơ đã giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Cảm ơn các bạn sinh viên trong và ngoài lớp đã động viên và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình thực hiện đề tài.
Trong quá trình thực hiện đề tài, do thời gian hạn chế nên không tránh khỏi
những thiếu sót. Tác giả xin đón nhận mọi đánh giá và góp ý từ quý thầy cô và bạn đọc
để nội dung đề tài được tốt và hoàn chỉnh hơn.
ii
TÓM TẮT
Đề tài “Khảo sát một số yếu tố nhằm nâng cao tỷ lệ sống cá tra giống” được
thực hiện từ 3/2010 đến 6/2010 tại trại cá giống công ty GreenFeed và các trại phụ
cận, Ô Môn, Cần Thơ.
Tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, theo dõi và ghi nhận các chỉ tiêu kĩ
thuật liên quan, kết quả ghi nhận được như sau:
Penergetic-T: Qua những chỉ tiêu theo dõi về chiều dài, trọng lượng, tỷ lệ sống
và FCR của lô thử nghiệm và đối chứng đã cho thấy Penergetic-T không thật sự có tác
dụng nâng cao tỷ lệ sống, tăng trọng lượng cá và giảm FCR.
Về sự dị hình: Tỷ lệ dị hình trung bình của cá tra bột 4,00 ± 1,24 (3,33 – 4,67%)
là không cao, có thể chấp nhận được đối với cá tra. Do đó, đây không phải là nguyên
nhân chính làm cho tỷ lệ sống của cá tra giống thấp.
Sự ăn nhau của cá tra bột trong 52 giờ đầu tiên có thể xảy ra với tỷ lệ 7,2%. Kết
hợp với sự hao hụt do sự dị hình và ăn nhau trong giai đoạn đầu là khoảng 11,2%. Như
vậy, sự dị hình và ăn nhau không thể là nguyên nhân chính làm cho tỷ lệ sống khi
ương cá tra từ bột lên cá giống thấp.
Trong quá trình ương nuôi, tỷ lệ phân đàn là rất lớn nhất là trong giai đoạn đầu
(sau 14 ngày ương). Chúng tôi nghĩ chính sự phân đàn này là nguyên nhân chính làm
tỷ lệ sống thấp khi ương cá tra.
iii
MỤC LỤC
Đề mục
Trang
Trang tựa
i
Cảm tạ
ii
Tóm tắt
iii
Mục lục
iv
Danh sách các hình
vii
Danh sách các bảng và đồ thị
viii
Chương 1. GIỚI THIỆU
1
1.1
Đặt vấn đề
1
1.2
Mục tiêu đề tài
2
Chương 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3
2.1
Vấn đề sản xuất giống cá tra
3
2.1.1
Lịch sử và sự phát triển
3
2.1.2
Hiện trạng sản xuất cá giống và nhu cầu cá giống hiện nay
4
2.2
Chế phẩm Penergetic-T và công dụng chính
6
2.2.1
Penergetic-T
6
2.2.2
Công dụng chính
6
2.3
Đặc điểm sinh học cá tra
7
2.3.1
Phân loại
7
2.3.2
Phân bố
7
2.3.3
Đặc điểm hình thái sinh lý
7
2.3.4
Đặc điểm dinh dưỡng
8
2.3.5
Đặc điểm sinh trưởng
8
2.3.6
Đặc điểm sinh sản
9
Chương 3. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
10
3.1
Thời gian, địa điểm và đối tượng nghiên cứu
10
3.1.1
Thời gian
10
3.1.2
Địa điểm
10
3.1.3
Đối tượng nghiên cứu
10
iv
3.2
Vật liệu nghiên cứu
10
3.3
Phương pháp nghiên cứu
11
3.3.1
Sự dị hình
11
3.3.2
Sự ăn nhau
11
3.3.3
Thử nghiệm chế phẩm Penergetic-T
12
3.3.3.1 Tăng trưởng về chiều dài
14
3.3.3.2 Tăng trưởng về trọng lượng
14
3.3.3.3 Tỷ lệ sống
14
3.3.3.4 Hệ số thức ăn (FCR)
14
3.3.4
15
Các yếu tố môi trường – bệnh
3.3.4.1 Nhiệt độ
15
3.3.4.2 pH
15
3.3.4.3 Hàm lượng Ammoniac (NH3)
15
3.3.4.4 Hàm lượng Oxy hòa tan (DO)
15
3.3.5
Nguồn nước sử dụng cho bể ấp ao ương
16
3.3.6
Thu thập số liệu và phân tích
16
Chương 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
17
4.1
Khảo sát sự dị hình
17
4.1.1
Sự dị hình
17
4.1.2
Tỷ lệ dị hình
18
4.2
Khảo sát sự ăn nhau
19
4.2.1
Kiểu dáng cá ăn nhau
19
4.2.2
Tỷ lệ ăn nhau
20
4.3
Kết quả thử nghiệm chế phẩm Penergetic-T
22
4.3.1
Các yếu tố môi trường
22
4.3.1.1 Nhiệt độ
22
4.3.1.2 Độ pH
22
4.3.1.3 Hàm lượng Ammoniac (NH3)
23
4.3.1.4 Hàm lượng Oxy hòa tan (DO)
23
4.3.2
23
Các chỉ tiêu tăng trưởng trên cá giống
4.3.2.1 Tăng trưởng chiều dài
24
v
4.3.2.2 Tăng trưởng về trọng lượng
25
4.3.3
Tỷ lệ sống
25
4.3.4
Hệ số thức ăn (FCR)
27
4.4
Kết luận chung
27
Chương 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
29
5.1
Kết luận
29
5.2
Đề nghị
30
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
vi
DANH SÁCH CÁC HÌNH
Hình
Đề mục
Trang
Hình 2.1
Hình dạng ngoài cá tra
Hình 3.1
Sơ đồ bố trí thí nghiệm về sự ăn nhau
12
Hình 3.2
Cân chế phẩm Penergetic-T để trộn thức ăn
13
Hình 4.1
Đuôi cá bị dị hình
17
Hình 4.2
Đuôi cá bình thường
17
Hình 4.3
Đuôi cá bị cong lên
18
Hình 4.4
Đuôi cá bị cong xuống
18
Hình 4.5
Cá tra bột không có đuôi
18
Hình 4.6
Cá ăn nhau theo kiểu cùng phương
20
Hình 4.7
Cá vượt đàn ăn những con nhỏ hơn
26
7
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ ĐỒ THỊ
Bảng
Đề mục
Trang
Bảng 2.1
Năng lực sản xuất cá tra giống và nhu cầu giống cá tra các tỉnh, 2009
Bảng 3.1
Bố trí ao thử nghiệm chế phẩm Penergetic-T
13
Bảng 4.1
Tỷ lệ dị hình trung bình theo thời gian sau 3 đợt quan sát (% ± SD)
19
Bảng 4.2
Chiều dài trung bình cá qua các lần đo (mm)
24
Bảng 4.3
Trọng lượng trung bình cá sau 4 tuần
25
Bảng 4.4
Tỷ lệ sống trung bình các lô thử nghiệm và đối chứng
25
Bảng 4.5
Hệ số thức ăn (FCR) của các lô thử nghiệm và đối chứng
27
Đồ thị
Đề mục
5
Trang
Đồ thị 4.1 Tỷ lệ cá ăn nhau theo mật độ sau 52 giờ quan sát
21
Đồ thị 4.2 Tỷ lệ cá ăn nhau trung bình theo thời gian sau 3 lần lặp lại thí nghiệm 21
Đồ thị 4.3 Tăng trưởng chiều dài cá lô thử nghiệm và đối chứng
viii
24
Chương 1
GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam đã phát triển
mạnh mẽ và có một vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Ngành nuôi trồng
thủy sản đã và đang đóng góp đáng kể trong tổng sản lượng thủy sản cả nước và cung
cấp một nguồn nguyên liệu lớn cho xuất khẩu thủy sản.
Trong các loài cá nuôi thì cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) là một loài cá
có giá trị kinh tế cao đã được phát triển nuôi nhanh chóng và phổ biến ở các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long, góp phần chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp, nông thôn và
ngày càng trở thành đối tượng chủ lực cho xuất khẩu. Hiện nay sản phẩm của cá tra
Việt Nam đã được xuất sang nhiều thị trường như: Mỹ, châu Âu, Nhật, các nước châu
Á và Trung Đông…
Một trong những tiền đề giúp cho nghề nuôi cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long
phát triển mạnh là nhờ chủ động được con giống, đáp ứng được nhu cầu của người
nuôi. Quá trình sinh sản nhân tạo cá tra đã thành công từ năm 1978 cho đến khoảng
những năm 1998 thì nghề nuôi cá tra mới thật sự phát triển ồ ạt và được xã hội hóa ở
mức cao. Chỉ tính riêng tại tỉnh Đồng Tháp, đến đầu năm 2010 có khoảng 300 cơ sở
sản xuất giống cá tra với tổng diện tích sản xuất khoảng 4000 ha, cung ứng 65 – 70%
cá tra giống cho toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long (Đặng Trí Quang, 2010).
Tuy nhiên hiện nay các cơ sở sản xuất và ương nuôi cá tra giống đang đối diện
với một bất cập, trong khi quy trình sản xuất nhân tạo cá tra ngày càng hoàn chỉnh, tỉ
lệ thụ tinh, tỷ lệ nở tương đối cao (80 – 90%) thì tỷ lệ sống khi ương từ cá bột đến cá
giống lại rất thấp. Ương từ cá bột đến cá hương tỷ lệ hao hụt trên 80%, ương từ cá
1
hương lên cá giống tỷ lệ hao hụt 40 – 50%. Do tỷ lệ hao hụt quá lớn, nên hàng năm, để
đảm bảo đủ lượng cá giống cho nhu cầu, đồng bằng sông Cửu Long đang phải cần tới
một lượng cá bột khổng lồ khoảng vài chục tỷ con. Và để có được lượng cá bột này,
phải cần tới vài ngàn tấn cá bố mẹ. Trong khi đó, theo tính toán của các nhà khoa học,
nếu tỷ lệ cá bột, cá hương bị hao hụt không quá cao như vậy, mỗi năm, đồng bằng
sông Cửu Long chỉ cần khoảng 60 tấn cá bố mẹ. Đây quả là sự lãng phí quá lớn.
Xuất phát từ những vấn đề bất cập đã đề cập ở trên và tìm giải pháp nâng cao tỷ
lệ sống của cá tra khi ương từ cá bột lên hương, được sự phân công của khoa Thủy
sản, trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh và sự tài trợ của Công Ty Cổ
Phần GREENFEED Việt Nam, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Khảo sát một số
yếu tố nhằm nâng cao tỷ lệ sống cá tra giống” tại trại cá giống thuộc Công Ty Cổ Phần
GREENFEED Việt Nam, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
1.2 Mục tiêu đề tài
Đề tài được thực hiện với các mục tiêu:
- Tìm hiểu những đặc điểm, hình thái,… của cá tra bột
- Tìm hiểu những nguyên nhân có thể làm cho tỷ lệ sống của cá tra khi ương từ
cá bột lên cá giống thấp.
- Thử nghiệm chế phẩm Penergetic-T ảnh hưởng lên tỷ lệ sống và tăng trưởng
của cá tra khi ương từ bột lên hương.
2
Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Vấn đề sản xuất giống cá tra
2.1.1 Lịch sử và sự phát triển
Nguồn giống cá tra trước đây hoàn toàn phụ thuộc vào vớt trong tự nhiên. Hàng
năm vào khoảng đầu tháng 5 âm lịch, khi nước mưa từ thượng nguồn sông Cửu Long
(Me Kong) bắt đầu đổ về thì ngư dân vùng Tân Châu (An Giang) và Hồng Ngự (Ðồng
Tháp) dùng một loại lưới hình phễu gọi là “đáy” để vớt cá bột. Cá tra bột được chuyển
về ao để ương nuôi thành cá giống cỡ chiều dài 7 – 10 cm và được vận chuyển đi bán
cho người nuôi trong ao và bè khắp vùng Nam Bộ. Khu vực ương nuôi cá giống từ cá
bột vớt tự nhiên tập trung chủ yếu ở các địa phương như Tân Châu, Châu Đốc, Hồng
Ngự, các cù lao trên sông Tiền như Long Khánh, Phú Thuận. Trong những thập niên
60 – 70 thế kỷ 20, sản lượng cá bột vớt mỗi năm từ 500 – 800 triệu con và cá giống
ương nuôi được từ 70 – 120 triệu con. Sản lượng vớt cá bột ngày càng giảm dần do
biến động của điều kiện môi trường và sự khai thác quá mức của con người. Ðầu thập
niên 90, sản lượng cá bột vớt hàng năm chỉ đạt 150 – 200 triệu con (Vương Học Vinh,
1994). Ðồng thời khi vớt cá tra, rất nhiều cá bột của các loài cá khác cũng lọt vào
“đáy” và bị lọc ép để loại bỏ. Khối lượng các loài cá không phải là mục tiêu có thể
gấp 5 – 10 lần so với cá tra, do đó đã ảnh hưởng rất lớn đến nguồn lợi cá tự nhiên.
Chính vì cá bột vớt ngoài tự nhiên ngày càng giảm, cá không đồng cỡ, ảnh
hưởng đến các loài cá khác và làm cho người nuôi không chủ động được thời vụ nên
việc sản xuất nhân tạo giống cá tra là đời như một lẽ tất nhiên. Nghiên cứu sinh sản
nhân tạo cá tra được bắt đầu từ năm 1978. Ðến năm 1999, khi chúng ta đã chủ động và
xã hội hoá sản xuất giống nhân tạo cá tra thì nghề vớt cá tra bột hoàn toàn chấm dứt.
3
Vào năm 1999, sản lượng cá bột sản xuất nhân tạo đã cao hơn số lượng những năm
trước vớt ngoài tự nhiên.
2.1.2 Hiện trạng sản xuất cá giống và nhu cầu giống cá tra hiện nay
Nhu cầu giống cá tra mỗi năm cần từ 1,8 tỷ đến 2,0 tỷ con. Hiện nay toàn vùng
ĐBSCL có 116 trại sinh sản cá bột hoạt động (thời gian cao điểm tới 235 trại), với
khoảng 4.000 hộ ương cá giống trên diện tích hơn 2.250 ha, năng lực sản xuất được
hơn 1,8 tỷ cá giống, về cơ bản đáp ứng đủ cho nhu cầu nuôi. Việc sản xuất cá giống
tập trung nhiều nhất ở Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, Tiền Giang.
Hiện trạng sản xuất giống cá tra đang phát triển theo quy luật cung – cầu và quy
luật giá trị, nhưng chưa được quản lý chặt chẽ mà mang tính tự phát, vì lợi nhuận trước
mắt. Khi cá nguyên liệu tiêu thụ được giá, diện tích nuôi tăng lên, giống trở nên khan
hiếm sẽ bị đẩy giá lên cao. Khi đó xảy ra tình trạng sản xuất giống chạy theo số lượng
mà không chú ý đến chất lượng. Hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh như tăng giá
giống, xuất bán giống cỡ nhỏ, buôn bán dịch vụ giống lòng vòng làm cho con giống
yếu đi không đảm bảo chất lượng. Nhiều cơ sở ương dưỡng, dịch vụ giống mới được
hình thành một cách vội vàng không đảm bảo điều kiện sản xuất, kinh doanh theo quy
định. Khi cá nguyên liệu bị hạ giá, khó tiêu thụ thì các trại sinh sản cá bột thường
không chú ý tới nuôi dưỡng đàn cá bố mẹ, cho ăn cầm chừng, thậm chí cắt giảm lượng
thức ăn, cá phát dục kém. Nhưng nếu ngay sau đó cá nguyên liệu tiêu thụ được giá
cao, nhu cầu giống tăng lên thì đàn cá bố mẹ bị bỏ đói đó lại được sử dụng ngay để
sinh sản, lạm dụng thuốc kích dục tố liều cao để ép cho cá đẻ nhiều lần trong năm,
trứng non, nhỏ, phát triển không đều nên cá bột rất yếu, tỷ lệ ương lên giống đạt rất
thấp.
4
Bảng 2.1: Năng lực sản xuất cá tra giống và nhu cầu giống cá tra của các tỉnh,
2009
Cơ sở sản xuất giống
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Địa phương
Trại SX cá bột
Cơ sở ương cá giống
12
1
2
88
3
2
2
2
1
3
116
642 ha (2072 hộ)
40 ha (30 hộ)
400 ha (150 hộ)
790 ha (chưa thống kê)
16 ha (19 hộ)
6 ha (2 hộ)
2 ha (3 hộ)
300 ha (1300 hộ)
30 ha (21 hộ)
25 ha (60 hộ)
2.251 ha (3.657 hộ)
An Giang
Bến Tre
Cần Thơ
Đồng Tháp
Hậu Giang
Kiên Giang
Sóc Trăng
Tiền Giang
Trà Vinh
Vĩnh Long
Tổng cộng
Sản lượng cá
giống (triệu con)
Nhu
SX
cầu
được
400
280
120
40
300
400
410
700
90
35
30
1-2
70
2-3
60
300
13
20
150
50
1.643
1.830
(Dương Tiến Thể, 2009)
Khảo sát về tình hình sản xuất giống cá tra hiện nay cho thấy có 3 mô hình sản
xuất giống chủ yếu sau:
- Trại sinh sản cá bột sau đó ương thành cá giống bán cho người nuôi.
- Trại sinh sản cá bột cung cấp cho các cơ sở ương giống là chính.
- Cơ sở ương chỉ mua cá bột ương thành cá giống và dịch vụ giống.
Đối với các trại sinh sản cá bột, phần lớn sử dụng đàn bố mẹ tuyển chọn từ cá
thịt, phẩm giống đã thoái hoá, cỡ cá nhỏ. Để giảm chi phí mà vẫn thu được sản lượng
cá bột cao, nhiều trại giống đã giảm khối lượng đàn cá bố mẹ, giảm lượng thức ăn nuôi
dưỡng nhưng tăng cường độ sinh sản 5 – 6 lứa/năm.
Đối với cơ sở ương cá giống, nhiều nơi có quy mô nhỏ, nguồn nước cho ao
ương bị động, sử dụng thức ăn tự chế với cả những loại tươi sống làm nước nhanh bẩn,
ô nhiễm tiềm ẩn các loại bệnh và ký sinh trùng. Trong khi nguồn cá bột chất lượng
thấp, lại được ương trong điều kiện môi trường không đảm bảo, tỷ lệ hao hụt rất lớn,
từ cá bột lên cá hương hao tới 70 – 80%, từ cá hương lên giống hao tới 40 – 50%. Với
sức sinh sản thực tế từ 150.000 – 180.000 trứng/kg cá cái, tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ nở trung
bình là 80% và 90%, suy ra 1 kg cá cái sẽ thu được khoảng 108.000 – 130.000 cá bột.
5
Để sản xuất được 1,8 tỷ cá giống thì phải có tới 12 tỷ cá bột, nghĩa là cần tới 1.000 tấn
cá bố mẹ (Dương Tiến Thể, 2009).
Việc sử dụng con giống chất lượng thấp dẫn đến kết quả cá nuôi phát triển
không đồng đều, tỷ lệ cá thịt vàng cao, tỷ lệ thịt phi-lê thấp, khả năng kháng bệnh rất
kém trong quá trình nuôi phải sử dụng nhiều thuốc trị bệnh, tiêu tốn thức ăn nhiều, cá
phân đàn, hao hụt lớn, giá thành cá nguyên liệu cao ảnh hưởng tới tiêu thụ và còn tác
động xấu tới môi trường. Theo phản ánh của người nuôi cá tra cho biết, tỷ lệ hao hụt
cá nuôi tới 30%, nhiều hộ mới thả giống được 20 – 30 ngày mà lượng cá bị chết đến
gần 15%. Mức độ tiêu tốn giống bình quân tới 2.000 con giống/tấn cá nguyên liệu
(Dương Tiến Thể, 2009). Hầu như tất cả các vùng nuôi đều đã xuất hiện những loại
bệnh phổ biến trên cá tra như xuất huyết, trắng mang, trắng gan, và nhất là căn bệnh
nguy hiểm gan thận mủ.
2.2 Chế phẩm Penergetic-T và công dụng chính
2.2.1 Chế phẩm Penergetic-T
Penergetic-T là tên thương mại một sản phẩm của tập đoàn Behn Meyer (Thụy
Sĩ).
Penegetic-T có ưu điểm là vừa kích thích và duy trì sự phát triển của vi sinh vật
có lợi trong hệ thống tiêu hóa của cá đồng thời tiêu diệt sự tồn tại của những vi khuẩn
có hại. Ngăn chặn tức thì mầm bệnh và làm giảm hao hụt nhất là với cá con.
Penergetic-T hoạt động như một kháng sinh giúp tiêu diệt mầm bệnh nhanh
chóng, hồi phục nhanh sức khỏe cho vật nuôi.
2.2.2 Công dụng chính
Với công thức đặc biệt Penergetic T được sử dụng để phòng ngừa và đặc trị
bệnh gan thận mủ, trắng gan, xuất huyết, viêm ruột và bệnh nhiễm trùng máu do vi
khuẩn Aeromonas, Edwardsiella ictaluri và Salmonella.
Penergetic nhân đôi khả năng trị bệnh thông qua việc hình thành nên hệ vi sinh
vật có lợi trong hệ tiêu hóa của cá nhằm chống lại những vi khuẩn gây bệnh, kích thích
hệ miễn dịch hoạt động hiệu quả và đồng thời cũng là một loại dược liệu tiêu diệt mầm
bệnh mà không gây hậu quả nào lên khả năng tăng trưởng của cá.
6
Penergetic là liệu pháp mới thay thế kháng sinh hoàn toàn, ức chế đến hơn 70
loài vi khuẩn gây bệnh và ngăn ngừa các bệnh do virus gây ra, đặc biệt không gây lờn
thuốc.
Tăng cường dược lực của kháng sinh dùng phối hợp.
2.3 Đặc điểm sinh học cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)
2.3.1 Phân loại
Theo Sauvage, 1878; Tayson và Chavalit, 1991, cá tra được xác lập hệ thống
phân loại như sau:
Ngành động vật có xương sống: Verterbrata
Lớp cá xương: Osteichthyes
Bộ cá nheo: Siluriformes
Họ cá tra: Pangasiidae
Giống cá tra dầu: Pangasianodon
Loài cá tra: Pangasianodon hypophthalmus Sauvage, 1878
Tên tiếng Anh: Tra Catfish
Tên tiếng Việt: Cá tra
Hình 2.1: Hình dạng ngoài cá tra
2.3.2 Phân bố
Cá tra phân bố ở lưu vực sông Mekong, có mặt ở cả 4 nước Việt Nam, Lào,
Campuchia và Thái Lan. Ở Thái Lan còn gặp cá tra ở lưu vực sông Mekong và Chao
7
Phraya. Ở nước ta những năm trước đây khi chưa có cá sinh sản nhân tạo, cá bột và cá
tra giống được vớt chủ yếu ở sông Tiền và sông Hậu. Cá trưởng thành chỉ thấy trong
ao nuôi, rất ít gặp trong tự nhiên của địa phận Việt Nam, do cá có tập tính di cư ngược
dòng sông Mekong để sinh sống và tìm nơi sinh sản tự nhiên. Khảo sát chu kỳ di cư
của cá tra ở địa phận Campuchia cho thấy cá di cư ngược dòng từ tháng 10 đến tháng 5
và từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm cá di cư xuôi dòng về vùng hạ lưu.
2.3.3 Đặc điểm hình thái sinh lý
Cá tra là cá da trơn, thân dài, lưng xám đen, bụng có màu hơi bạc, miệng rộng,
có hai đôi râu dài. Cá tra sống chủ yếu trong nước ngọt, tuy nhiên cá có thể sống được
ở vùng nước lợ có độ mặn 7 – 10‰, có thể chịu được nước phèn với pH > 5, dễ chết ở
nhiệt độ dưới 150C nhưng chịu nóng tới 390C. Cá có cơ quan hô hấp phụ và còn có thể
hô hấp bằng bóng khí nên có thể sống được trong môi trường nước có hàm lượng oxy
hòa tan thấp.
2.3.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Cá tra khi tiêu hết noãn hoàng thì thích ăn mồi tươi sống, vì vậy chúng rất dễ ăn
nhau trong bể ấp. Ngoài ra, khi khảo sát cá bột vớt trên sông còn thấy trong dạ dày của
chúng có rất nhiều phần cơ thể và mắt cá con của các loài cá khác.
Dạ dày của cá phình to hình chữ U và co giãn được, ruột cá tra ngắn, không gấp
khúc lên nhau mà dính vào màng treo ruột ngay dưới bóng khí và tuyến sinh dục. Dạ
dày to và ruột ngắn là đặc điểm của cá ăn thiên về động vật. Ngay khi vừa tiêu hết
noãn hoàng cá thể hiện tính ăn thịt và ăn lẫn nhau, do đó cần nhanh chóng chuyển cá
ra ao ương.
Trong quá trình ương nuôi thành cá giống trong ao, chúng ăn các loại phù du
động vật vừa cỡ miệng của chúng và các loại thức ăn nhân tạo. Khi cá lớn thể hiện tính
ăn rộng, ăn đáy và ăn tạp thiên về động vật nhưng dễ chuyển đổi loại thức ăn.
Trong điều kiện thiếu thức ăn, cá có thể sử dụng các loại thức ăn bắt buộc khác
như mùn bã hữu cơ, phiêu sinh động vật. Trong ao nuôi cá tra có khả năng thích nghi
với nhiều loại thức ăn khác như cám, rau, động vật đáy.
2.3.5 Đặc điểm sinh trưởng
8
Cá tra có tốc độ sinh trưởng tương đối nhanh, cá ương sau 2 tháng có kích
thước 10 – 12 cm/con. Sau 1 năm tuổi có trong lượng 1 – 1,5 kg/con. Khi còn nhỏ, cá
tăng nhanh về chiều dài, từ khi đạt trọng lượng khoảng 2,5 kg/con trở lên thì cá bắt
đầu tăng về trọng lượng nhiều hơn so với tăng về chiều dài. Cỡ cá trên 10 tuổi tăng
trọng rất chậm, cá có thể sống trên 20 năm tuổi.
Mức độ tăng trưởng của cá nhanh hay chậm còn tuỳ thuộc vào điều kiện môi
trường và quá trình chăm sóc, nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi và chăm sóc tốt thì cá
lớn nhanh và ngược lại.
2.3.6 Đặc điểm sinh sản
Tuổi thành thục của cá tra đực là 2 tuổi và cá tra cái 3 tuổi, trọng lượng cá thành
thục lần đầu từ 2,5 – 3 kg. Trong tự nhiên chỉ gặp cá thành thục trên sông ở địa phận
của Campuchia và Thái Lan.
Cá tra không có cơ quan sinh dục phụ (sinh dục thứ cấp), nên nếu chỉ nhìn hình
dáng bên ngoài thì khó phân biệt được cá đực, cái. Ở thời kỳ thành thục, tuyến sinh
dục ở cá đực phát triển lớn gọi là buồng tinh hay tinh sào, ở cá cái gọi là buồng trứng
hay noãn sào.
Mùa vụ thành thục của cá trong tự nhiên bắt đầu từ tháng 5 – 6 dương lịch, cá
có tập tính di cư đẻ tự nhiên trên những khúc sông có điều kiện sinh thái phù hợp
thuộc địa phận Campuchia và Thái Lan, không đẻ tự nhiên ở phần sông của Việt Nam.
Cá đẻ trứng dính vào giá thể, sau 24 giờ thì trứng nở thành cá bột và trôi về hạ
nguồn.
Trong sinh sản nhân tạo, ta có thể nuôi thành thục sớm và cho đẻ sớm hơn trong
tự nhiên (từ tháng 3 dương lịch hàng năm), cá tra có thể tái phát dục 1 – 2 lần trong
một năm. Sức sinh sản tuyệt đối của cá tra từ 200 ngàn đến vài triệu trứng.
9
Chương 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian, địa điểm và đối tượng nghiên cứu
3.1.1 Thời gian
Đề tài được thực hiện từ tháng 3 năm 2010 đến tháng 6 năm 2010
3.1.2 Địa điểm
Đề tài được nghiên cứu tại trại cá tra giống công ty GreenFeed và các trại phụ
cận, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
3.1.3 Đối tượng nghiên cứu
Cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)
3.2 Vật liệu nghiên cứu
- Nguồn cá tra bố mẹ
- Trứng và cá bột cá tra trong các đợt sinh sản từ nguồn cá bố mẹ ở trên.
- Cá tra ở giai đoạn hương và giống.
- Thuốc Penergetic-T của công ty Behn Meyer (Thụy Sĩ)
- Ao ương cá hương:
+) 4 ao đất ở trại CT1: (B3, B4, C3, D4) mỗi ao có diện tích 7000 m2. Trong đó,
ao C3 và B4 dùng để thử nghiệm và ao B3, D4 dùng để đối chứng
+) 3 ao đất ở trại CT2: (A1, A2, A3), mỗi ao có diện tích 1700 m2. Ao A1 và A2
dùng thử nghiệm và ao A3 dùng đối chứng
- Thức ăn dành cho cá tra và basa của công ty GreenFeed.
10
- Nhiệt kế thủy ngân, test pH, test NH3, test DO.
- Các vật dụng, máy móc và trang thiết bị khác của công ty GreenFeed tại trại
cá giống Ô Môn, Cần Thơ.
3.3 Phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu những nguyên nhân làm cho tỉ lệ sống của cá tra khi ương từ cá bột
lên cá giống thấp chúng tôi đặt ra các giả thiết khác nhau và tiến hành bố trí khảo sát
những giả thiết đó. Theo chúng tôi, những nguyên nhân có thể là:
3.3.1 Sự dị hình
Cá bột bị dị hình có thể sống hoặc chết trong một thời gian ngắn, hoặc sống đến
kích thước thương phẩm. Dù sao đây cũng có thể là một nguyên nhân làm cho tỷ lệ
sống thấp khi ương cá tra giống.
Từ khi cá bột vừa mới nở đến khi xuất bán hoặc thả xuống ao ương, chúng tôi
tiến hành quan sát sự dị hình của cá. Vì trong giai đoạn này cá bột còn tương đối nhỏ
nên chúng tôi chỉ quan sát được sự dị hình xảy ra ở hình dạng bên ngoài của cá.
Tiến hành quan sát 3 đợt và mỗi đợt chúng tôi quan sát ở 3 bể ấp composite,
mỗi bể có thể tích 2 m3. Mỗi lần quan sát thu 100 cá bột mỗi mẫu ở mỗi bể. Quan sát ở
các khoảng thời gian 3 giờ, 6 giờ, 12 giờ và 24 giờ sau khi cá nở. Những cá thể có biểu
hiện dị hình sẽ được tách riêng vào đĩa petri sau đó đem vào phòng kĩ thuật để quan sát
lại dưới kính hiển vi để phép xác định được chính xác.
Tỷ lệ dị hình được tính theo công thức sau:
Tổng số cá dị hình quan sát được
Tỷ lệ dị hình (%) =
*100
Tổng số cá quan sát
3.3.2 Sự ăn nhau
Cá tra bột sau khi tiêu hết noãn hoàng thể hiện tính ăn thịt và dễ ăn lẫn nhau
trong bể ấp hoặc ngoài ao ương. Sự ăn nhau có thể xảy ra nhiều hay ít nhưng dẫu sao
11
đây cũng có thể là một trong những nguyên nhân làm cho tỷ lệ sống khi ương cá tra
giống thấp.
Để quan sát sự ăn nhau của cá bột chúng tôi tiến hành bố trí thí nghiệm cho cá
bột (sau khi nở 20 giờ) vào trong 12 bể bằng nhựa có thể tích 4 lít. Thí nghiệm được
lặp lại 3 đợt với các lô cá khác nhau. Mật độ cá ở các bể thí nghiệm như sau: bể 1 thả
100 cá bột, bể 2 thả 200 cá bột, bể 3 thả 300 cá bột, bể 4 thả 400 cá bột, bể 5 thả 500
cá bột và bể đối chứng thả 2 con (tương đương với mật độ ương 500 con/m3 nước của
công ty và người nuôi tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long). Tương tự mật độ như
trên cho 6 bể còn lại nhưng có bổ sung thêm thức ăn tự nhiên (Moina) được vớt từ ao
ương. Tất cả các bể trên không có bố trí sục khí và được theo dõi trong thời gian 52
giờ sau khi cá nở.
Sơ đồ bố trí thí nghiệm:
0,5
con/l
25
con/l
50
con/l
75
con/l
100
con/l
125
con/l
0,5 con/l
+
Moina
25 con/l
+
Moina
50 con/l
+
Moina
75 con/l
+
Moina
100 con/l
+
Moina
125 con/l
+
Moina
Hình 3.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm về sự ăn nhau
3.3.3 Thử nghiệm chế phẩm Penergetic-T
Ngoại trừ sự dị hình và ăn nhau, các nguyên nhân khác như môi trường và bệnh
tật cũng có thể gây chết cá tra giống trong quá trình ương. Để tìm hiểu thêm những
nguyên nhân làm cho tỷ lệ sống cá tra giống khi ương thấp, chúng tôi thử nghiệm chế
12
phẩm Penergetic-T vì qua tìm hiểu thông tin chúng tôi thấy Penergetic-T có tác dụng
nâng cao tỷ lệ sống khi ương cá tra giống, nâng cao hệ thống miễn dịch cơ thể cá và
tăng sức đề kháng với những bệnh do virus gây ra.
Trong điều kiện sản xuất của công ty, chúng tôi tiến hành thử nghiệm chế phẩm
Penergetic-T được 4 ao và 3 ao đối chứng. Thời gian thử nghiệm là 28 ngày.
Sơ đồ bố trí thử nghiệm:
Bảng 3.1: Bố trí ao thử nghiệm chế phẩm Penergetic-T
Ao
A1
A2
B4
C3
Lô thử nghiệm
Diện tích (m2)
2.000
2.000
7.000
7.000
Ao
A3
B3
B4
Lô đối chứng
Diện tích (m2)
2.000
7.000
7.000
Việc thử nghiệm chế phẩm Penergetic-T được chúng tôi tiến hành sau khi cá
thả ương được 4 ngày, vì trong 3 ngày đầu cá tra bột sẽ dinh dưỡng bằng noãn hoàng
cùng với thức ăn tự nhiên được gây nuôi trong ao. Penergetic-T được chúng tôi trộn
vào thức ăn công nghiệp cho cá ăn với liều 0,2 g/kg thức ăn. Vì liều tương đối thấp
nên để đảm bảo chính xác lượng thuốc trộn chúng tôi cân thuốc bằng cân điện tử 2 số
lẻ.
Hình 3.2: Cân chế phẩm Penergetic-T để trộn vào thức ăn
13
Penergetic-T sẽ được hòa tan vào nước trước, sau đó mới được trộn vào thức
ăn. Mỗi lần cho ăn thì trộn thuốc.
Đối với thức ăn dạng bột (40% đạm), để thuốc Penergetic-T được thấm đều vào
thức ăn chúng tôi hòa tan thuốc vào nước (250 ml nước/ kg thức ăn) và dùng bình áp
lực để phun trộn thuốc vào thức ăn.
Đối với thức ăn dạng mảnh (35 – 40% đạm) Penergetic-T có thể được hòa tan
vào nước (2,5 kg nước/10 kg thức ăn) chung với các loại thuốc kháng sinh, dinh dưỡng
khác để trộn vào thức ăn.
Sau 4 tuần thử nghiệm, chúng tôi sẽ tiến hành đánh giá các chỉ tiêu:
3.3.3.1 Tăng trưởng về chiều dài
Định kỳ 7 ngày bắt ngẫu nhiên 30 cá thể ở lô thử nghiệm và lô đối chứng để đo
chiều dài. Đơn vị đo là (cm).
3.3.3.2. Tăng tưởng về trọng lượng
Sau 4 tuần thử nghiệm, chúng tôi tiến hành kéo cá các ao thử nghiệm và đối
chứng. Khi kéo chúng tôi xác định được trọng lượng mẫu cũng như trọng lượng đàn
cá.
3.3.3.3 Tỷ lệ sống
Tỷ lệ sống của bảy ao nuôi thí nghiệm được xác định khi kết thúc thí nghiệm và
được tính theo công thức sau:
Số cá thu được
Tỷ lệ sống (%) =
*100
Số cá thả ban đầu
3.3.3.4 Hệ số thức ăn (FCR)
Hệ số thức ăn (FCR) ở bảy ao nuôi thí nghiệm được xác định khi kết thúc thí
nghiệm và được tính theo công thức sau:
Tổng trọng lượng thức ăn sử dụng trong thời gian thí nghiệm (kg)
FCR =
Tổng trọng lượng cá thu được (kg) – Tổng trọng lượng cá ban đầu (kg)
14
3.3.4 Các yếu tố môi trường – bệnh
Môi trường nước là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong sự sinh
trưởng và phát triển của cá nói chung và cá tra nối riêng. Cũng giống như con người
cần không khí trong lành để hít thở thì cá cần môi trường nước sạch để phục vụ cho
hoạt động sống của chúng.
Hằng ngày chúng tôi tiến hành theo dõi các chỉ tiêu môi trường: nhiệt độ, pH,
hàm lượng ammoniac, oxy hòa tan của ao nuôi. Đồng thời bắt mẫu cá để quan sát sự
xuất hiện của bệnh, thời gian cá mắc bệnh, kết thúc quá trình thử nghiệm sẽ tiến hành
đánh giá sự hao hụt do bệnh gây ra.
3.3.4.1 Nhiệt độ
Đối với ao ương cá hương mỗi ngày chúng tôi đo nhiệt độ 2 lần vào 7 giờ sáng
và 5 giờ chiều. Dùng nhiệt kế ngâm trực tiếp vào ao nuôi và đo ở vị trí cách tầng mặt
50cm.
Đối vơi bể ấp cá bột thì chúng tôi đo thường xuyên, cách 4 giờ đo 1 lần.
3.3.4.2 pH
Ao ương cá hương: mỗi ngày đo 2 lần vào lúc 7 giờ sáng và 5 giờ chiều.
Bể ấp: Đo thường xuyên, cách 4 giờ đo 1 lần.
Dụng cụ đo: test pH
3.3.4.3 Hàm lượng Ammoniac (NH3)
Ao ương cá hương: mỗi ngày đo 2 lần vào lúc 7 giờ sáng và 5 giờ chiều.
Bể ấp: Đo thường xuyên, cách 4 giờ đo 1 lần.
Đơn vị tính: mg/lít
Dụng cụ đo: test NH3
3.3.4.4 Hàm lượng Oxy hòa tan (DO)
Ao ương cá hương: mỗi ngày đo 2 lần vào lúc 7 giờ sáng và 5 giờ chiều.
Bể ấp: Đo thường xuyên, cách 4 giờ đo 1 lần.
15
Đơn vị tính: mg/lít
Dụng cụ đo: test DO
3.3.5. Nguồn nước sử dụng cho ấp trứng, ao ương
Nguồn nước sử dụng là nước sông, được đưa vào ao lắng và được lọc kỹ trước
khi đưa vào sử dụng.
3.3.6 Thu thập số liệu và phân tích
Thông tin và số liệu được thu thập thông qua việc ghi lại kết quả của các thí
nghiệm đã trực tiếp làm.
Dùng phần mềm Microsoft Excel để xử lý số liệu và vẽ đồ thị.
Số liệu được phân tích, xử lý thống kê bằng phần mềm Minitab.
16