Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

THử NGHIệM ƯƠNG NUÔI ẤU TRÙNG TÔM CÀNG XANH (Macrobrachium rosenbergii) BẰNG CÁC NGUỒN NƯỚC MẶN KHÁC NHAU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (815.14 KB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

THử NGHIệM ƯƠNG NUÔI ẤU TRÙNG TÔM CÀNG XANH
(Macrobrachium rosenbergii) BẰNG CÁC NGUỒN NƯỚC MẶN
KHÁC NHAU

Họ và tên sinh viên: NGUYỄN TẤN LỢI
Ngành: THỦY SẢN
Niên khóa: 2006 - 2010

Tháng 7/2010


THử NGHIệM ƯƠNG NUÔI ẤU TRÙNG TÔM CÀNG XANH
(Macrobrachium rosenbergii) BẰNG CÁC NGUỒN NƯỚC MẶN
KHÁC NHAU

Tác giả

NGUYỄN TẤN LỢI

Khóa luận được đệ trình để đáp ứng yêu cầu cấp bằng Kỹ sư ngành
Nuôi trồng Thủy sản

Giáo viên hướng dẫn:
TS. ĐINH THẾ NHÂN

Tháng 7 năm 2010


ii


LỜI CẢM TẠ
Chúng tôi xin chân thành cảm tạ:
Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh.
Ban chủ nhiệm Khoa Thủy Sản, cùng quý thầy cô Khoa Thủy Sản đã tận tình giảng
dạy và truyền đạt những kiến thức quý báu cho chúng tôi trong suốt khóa học (2006 2010).
Đặc biệt, tỏ lòng biết ơn sâu sắc gởi đến thầy Đinh Thế Nhân đã tận tình hướng
dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện đề tài tốt
nghiệp.
Lời cảm ơn xin được gửi đến các bạn sinh viên Thủy Sản 32 đã động viên giúp đỡ
tôi trong suốt thời gian học tập cũng như thực hiện đề tài.
Cuối cùng lòng biết ơn chân thành con xin được gửi tới bố mẹ và gia đình đã tạo
mọi điều kiện về tinh thần cũng như vật chất để con hoàn thành tốt luận văn và trong
những năm học vừa qua.
Mặc dù chúng tôi đã hết sức cố gắng để thực hiện đề tài nhưng khả năng bản thân
còn nhiều hạn chế nên luận văn này chắc chắn không thể tránh khỏi sự thiếu sót, chúng
tôi rất mong sự đóng góp ý kiến quý báu của quí Thầy, Cô và bạn bè để bài viết này
hoàn thiện hơn.

iii


TÓM TẮT
Đề tài nghiên cứu “ Thử nghiệm ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh
(Macrobrachium rosenbergii) bằng các nguồn nước mặn khác nhau” được tiến
hành tại Trại thực nghiệm khoa Thủy Sản, trường Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ
chí Minh, thời gian từ tháng 4 đến tháng 7 năm 2010.
Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức với 6 lần lần lập lại:

1. Nước ót bổ sung 10 ppm EDTA (NO-ED)
2. Nước ót (NO)
3. Nước biển nhân tạo tạo dùng Công thức nước biển nhân tạo độ mặn 12‰ của
Valenti và Daniels (2000) (NN)
4. Nước biển tự nhiên (NB).
Kết quả:
Chỉ số LSI ngày thứ 10 của nghiệm thức NB là cao nhất 5,63.
Chỉ số LSI ngày thứ 15 của nghiệm thức NO-ED là cao nhất 9,10.
Nghiệm thức NO-ED có chu kỳ ương nuôi ngắn nhất 27,3 ngày.
Nghiệm thức NN đạt tỉ lệ sống cao nhất 40% (40 PL/L).

iv


MỤC LỤC
Trang
Trang tựa

ii

Lời cảm tạ

iii

Tóm tắt

iv

Mục lục


v

Danh sách các chữ viết tắt

ix

Danh sách các bảng

x

Danh sách các hình

xii

Danh sách các biểu đồ, sơ đồ

xiii

CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN

3

2.1 Phân loại

3


2.2 Đặc Điểm Sinh Học Của Tôm càng xanh

3

2.2.1 Vùng phân bố

3

2.2.2 Hình thái

4

2.2.3 Vòng đời tôm càng xanh

5

2.2.4 Chu kỳ sống

7

2.2.5 Tập tính dinh dưỡng

8

2.2.6 Đặc điểm về sinh trưởng

8

2.3 Đặc Điểm Sinh Học Của Ấu Trùng Tôm Càng Xanh


8

2.3.1 Hình thái

8

2.3.2 Yêu cầu về môi trường nuôi ấu trùng

10

2.3.3 Mật độ nuôi ấu trùng

10

2.3.4 Tập tính dinh dưỡng ấu trùng tôm càng xanh

11

2.4 Artemia

12

2.4.1 Giá trị dinh dưỡng

12
v


2.4.2 Phương pháp làm giàu Artemia


13

2.4.3 Khả năng tiêu thụ Artemia của tôm càng xanh

13

2.5 Các Mô Hình Ương Nuôi Tôm Càng Xanh

14

2.5.1 Hệ thống nước trong hở (Clear open water system)

14

2.5.2 Hệ thống nước trong kín (Clear closed water system)

14

2.5.3 Hệ thống nước xanh (Green water system)

15

2.5.4 Hệ thống nước xanh cải tiến (Modified Static green water
15

system)
2.6 Tình Hình Nghiên Cứu Trong Và Ngoài Nước Về Nước Biển
Nhân Tạo

16


2.6.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước

16

2.6.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

20

CHƯƠNG 3. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

24

3.1 Thời Gian Và Địa Điểm Nghiên Cứu

24

3.2 Vật Liệu Nhiên Cứu

24

3.2.1 Đối tượng nghiên cứu

24

3.2.2 Hệ thống thí nghiệm

24

3.2.3 Hóa Chất


24

3.2.4 Nguồn nước

24

3.2.5 Thiết bị và dụng cụ

26

3.2.6 Thức ăn

26

3.3 Bố Trí Thí Nghiệm

27

3.3.1 Phương pháp bố trí thí nghiệm

27

3.3.2 Quản lý và chăm sóc ấu trùng

28

3.3.2.1 Quản lý môi trường nuôi

28


3.3.2.2 Chăm sóc

29

3.4 Phương Pháp Thu Thập Số Liệu

29

3.4.1 Các chỉ tiêu môi trường nước

29

3.4.2 Chỉ số giai đoạn ấu trùng (LSI – Larval Stage Index)

29

3.4.3 Các chỉ tiêu về thời gian biến thái

30
vi


3.4.4 Tỉ lệ sống

30

3.5 Phương Pháp Phân Tích và Xử Lý Số Liệu

30


CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

32

4.1 Các Yếu Tố Môi Trường Thí Nghiệm

32

4.2 Chỉ Số Giai Đoạn Ấu Trùng (LSI –Larval Stage Index)

33

4.2a Chỉ số LSI ngày thứ 10

33

4.2b Chỉ số LSI ngày thứ 15

34

4.3 Thời điểm xuất hiện PL (Tp); 10% PL; 90% PL (T90) và thời
gian chuyển PL đồng loạt

37

4.4 Tỉ Lệ Sống Của Ấu Trùng Tôm Càng Xanh Thí Nghiệm

39


4.5 So Sánh Giá Thành Của Nước Biển, Nước Biển Nhân Tạo Và
Nước Ót

41

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

43

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

vii


SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT
EDTA: Ethylene diaminotetra acetic acid
FAO: Food and Agriculture Organization

viii


DANH SÁCH CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Quan hệ trọng lượng và thời gian lột xác của tôm càng xanh

5

Bảng 2.2: Thành phần dinh dưỡng của Artemia


12

Bảng 2.3: Cấp độ tiêu thụ Artemia

14

Bảng 2.4: Công thức pha chế 1m3 nước biển nhân tạo 60‰

17

Bảng 2.5: Công thức pha chế 2m3 nước biển nhân tạo (độ mặn 30‰)

17

Bảng 2.6: Công thức nước biển nhân tạo (1m3) ứng dụng vào ương ấu
trùng tôm ở Trung Quốc

19

Bảng 2.7: Một số công thức nước biển nhân tạo dùng ương nuôi ấu
trùng tôm càng xanh

20

Bảng 2.8: Thành phần hoá học trung bình các ion của nước biển theo
ppm (Vũ Đăng Độ, 1999)

21

Bảng 2.9: Thành phần hoá học các ion chính (tính theo ‰) trong nước

biển khi độ mặn 35‰ (Từ Vọng Nghi và ctv, 1986)

22

Bảng 2.10: Thành phần trung bình của các nguyên tố hoá học trong
nước biển theo % khối lượng (Từ Vọng Nghi & ctv, 1986

23

Bảng 3.1: Công thức nước biển nhân tạo độ mặn 12‰ (Valenti và
Daniels, 2000)

27

Bảng 3.2: Các nghiệm thức trong thí nghiệm

28

Bảng 4.1: Một số yếu tố môi trường trong hệ thống thí nghiệm

32

Bảng 4.2: So sánh các ion chủ yếu trong Nước biển tự nhiên (NBTN)
với Nước biển nhân tạo (NBNT) (Đơn vị: ‰)

32

Bảng 4.3: Chỉ số LSI ngày thứ 10 (TB ± SE) và tỉ lệ % giai đoạn của
ấu trùng nuôi tôm càng xanh thí nghiệm


33

Bảng 4.4: Chỉ số LSI ngày thứ 15 (TB ± SE) và tỉ lệ % của ấu trùng
tôm càng xanh thí nghiệm.

35

Bảng 4.5: Tp,T10, T90, và Ts của ấu trùng tôm càng xanh thí nghiệm

37

ix


Bảng 4.6: Tỉ lệ sống của ấu trùng tôm càng xanh thí nghiệm

39

Bảng 4.7: Một số kết quả ương ấu trùng tôm càng xanh bằng nước
biển nhân tạo

40

Bảng 4.8: Giá thành của nước biển nhân tạo 12‰

41

Bảng 4.9: Phân tích giá thành của nước ót, nước biển và so sánh với
nước biển nhân tạo


41

x


DANH SÁCH CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1: Đặc điểm các giai đoạn ấu trùng của tôm càng xanh
Hình 3.1: Hệ thống thí nghiệm

9
25

xi


DANH SÁCH CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 4.1: Chỉ số LSI ngày thứ 10 của ấu trùng tôm càng xanh thí

33

nghiệm
Biểu đồ 4.2: Tỉ lệ % các giai đoạn ấu trùng ngày thứ 10 của thí

34

nghiệm
Biểu đồ 4.3: Chỉ số LSI ngày thứ 15 của ấu trùng tôm càng xanh thí


35

nghiệm
Biểu đồ 4.4: Tỉ lệ % các giai đoạn ấu trùng ngày thứ 15 của thí

36

nghiệm
Biểu đồ 4.5: Tp; T10 và T90 của ấu trùng tôm càng xanh thí nghiệm

37

Biểu đồ 4.6: Tỉ lệ sống của ấu trùng tôm càng xanh thí nghiệm

39

xii


Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii De Man, 1879) là một trong những
đối tượng quan trọng trong nghề nuôi trồng cũng như đánh bắt thủy sản. Theo thống
kê của FAO Fishery Statistic (2007), tổng sản lượng tôm càng xanh trên thế giới năm
2005 đạt 205.033 tấn, đạt giá trị là 896.263.000 USD (trong thống kê trên không bao
gồm Việt Nam là một trong những nước có sản lượng tôm càng xanh lớn). Trong đó
Trung Quốc là nước sản xuất nhiều nhất chiếm tới 52% tổng sản lượng thế giới năm
2002.
Ở nước ta, Đồng bằng Sông Cửu Long có tiềm năng rất lớn cho nghề nuôi thủy sản

nói chung và tôm càng xanh nói riêng. Theo thống kê của Bộ Thủy sản năm 2002, cả
nước đạt khoảng 10.000 tấn, chủ yếu là các tỉnh khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long
(Nguyễn Thanh Phương, 2003). Hiện nay nghề nuôi tôm càng xanh cũng đã được phát
triển ở miền Bắc như là Thái Bình, Nam Định...
Tuy nhiên nghề nuôi tôm càng xanh hiện nay đang gặp trở ngại lớn về nguồn tôm
giống, trước đây phần lớn nguồn tôm giống dựa vào khai thác tự nhiên. Tuy nhiên
nguồn tôm này ngày càng hiếm, hiện nay phải dựa vào nguồn tôm giống nhân tạo
trong nước và nhập khẩu. Ở nước ta việc nghiên cứu và sản xuất giống tôm càng xanh
đã bắt đầu từ những năm 1980 với quy trình nước trong hở và tuần hoàn (Nguyễn Việt
Thắng, 1995). Tuy nhiên nghề sản xuất giống tôm càng xanh chỉ phát triển mạnh từ
năm 1999 khi nhu cầu phát triển ngày càng cao và nhất là thành công trong việc
nghiên cứu và phát triển mô hình nước xanh cải tiến mà Đồng bằng Sông Cửu Long từ
chỉ có một vài trại giống năm 1999, đến năm 2003 đã có 91 trại giống với sản lượng
76 triệu tôm bột một năm (Trần Ngọc Hải và ctv, 2003).
Hiện nay nghề nuôi tôm càng xanh đã phát triển rất mạnh, nhu cầu con giống càng
cao. Trong sản xuất giống tôm càng xanh thì nguồn nước ương là rất quan trọng vì cần
cả nước ngọt và nước mặn. Nguồn nước mặn thường dùng ở trong nước ta là nước
1


biển hay nước ót (nước trong ruộng muối). Hầu hết các trại sản xuất giống tôm càng
xanh ở nước ta được xây dựng ở những vùng cách xa nguồn nước mặn. Vì vậy việc
vận chuyển nước mặn chiếm một chi phí khá cao trong sản xuất và không chủ động.
Hiện nay ở nước ta phần lớn các trại sản xuất giống tôm càng xanh ở xa biển đều sử
dụng nước ót là nguồn nước mặn để pha thành nước ương ấu trùng tôm càng xanh.
Tuy nhiên việc sử dụng nước ót đôi khi không thành công do trong nguồn nước này có
thể bị nhiễm độc hay ion kim loại nặng… Theo kinh nghiệm sản xuất từ các trại giống
thủy sản, người ta hay sử dụng EDTA bổ sung vào các nguồn nước với mục đích trung
hòa các kim loại nặng hay giảm độ cứng trong nước (Tabbing và ctv, 1994). Trên thế
giới nước biển nhân tạo thương phẩm (dạng muối rắn) có thể được dùng để thay thế

nước biển tự nhiên trong những trường hợp cần thiết.
Tuy nhiên, nước biển nhân tạo thương phẩm hiện nay có giá thành khá cao, không
phù hợp để thay thế nước biển tự nhiên trong sản xuất giống thủy sản vốn sử dụng một
số lượng rất lớn. Vì vậy, việc nghiên cứu thử nghiệm một số công thức nước biển nhân
tạo có giá thành thấp có khả năng thay thế nước biển tự nhiên trong sản xuất giống
thủy sản mang một ý nghĩa thiết thực.
Từ thực tế trên và được sự phân công của Khoa Thủy Sản, trường Đại Học
Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh, tôi đã tiến hành thực hiện đề tài : “ Thử nghiệm ương
nuôi ấu trùng tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii, De Man, 1879) bằng
các nguồn nước mặn khác nhau”.
1.2 Mục tiêu của đề tài
Thử nghiệm ương ấu trùng tôm càng xanh bằng nước biển nhân tạo.
So sánh hiệu quả sử dụng nước biển, nước ót, nước ót bổ sung EDTA và nước
biển nhân tạo trong ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh.
Đánh giá khả năng sử dụng nước biển nhân tạo trong sản xuất giống tôm càng
xanh.

2


Chương 2
TỔNG QUAN
2.1 Phân loại
Tôm càng xanh thuộc giống Macrobrachium có khoảng 200 loài. Trong đó, M.
rosenbergii, M. americanum và M. carcinus có lẽ là những loài lớn nhất được biết.
Tôm càng xanh, con đực có thể đạt chiều dài (từ đầu telson đến cuối ngọn chủy) 320
mm, con cái 250 mm (Holthuis, 2000).
Theo Holthuis, 1980, tôm càng xanh có vị trí phân loại như sau:
Ngành tiết túc:


Arthropoda

Lớp giáp xác:

Crustacea

Bộ phụ giáp xác bậc cao:

Malacostraca

Bộ mười chân:

Decapoda

Bộ phụ chân bơi:

Natantia

Phân bộ:

Caridae

Họ:

Palaemonidae

Phân họ:

Palaemoninae


Giống:

Macrobrachium

Loài:

Macrobrachium rosenbergii (De Man, 1879)

2.2 Đặc Điểm Sinh Học Của Tôm càng xanh
2.2.1 Vùng phân bố
Tôm càng xanh có nguồn gốc ở Đông Nam Á sau đó được du nhập vào các
vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới trên thế giới và trở thành một đối tượng nuôi quan
trọng của ngành thủy sản (New và Singholka, 1985). Đây là một loài tôm dễ nuôi và
có giá trị kinh tế cao nên chúng đã được di giống qua nhiều nước trên thế giới. Do đó
có những nước không có tôm càng xanh phân bố tự nhiên nay cũng đã phát triển mạnh
về nuôi tôm càng xanh như Đài Loan, Trung Quốc, Pháp, Mỹ (Nguyễn Việt Thắng,
1995).
3


Tôm càng xanh phân bố trong các thủy vực nước ngọt như sông, hồ, ruộng,
đầm lầy và một số vùng nước lợ ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới, nhưng
tập trung nhất ở vùng Ấn Độ Dương và Tây Nam Thái Bình Dương (Trần Thanh
Phương và ctv, 2003).
Ở Việt Nam, tôm càng xanh phân bố tự nhiên từ Nha Trang vào tới Đồng bằng
Nam Bộ và tập trung chủ yếu ở Đồng bằng Sông Cửu Long (Động vật chỉ Việt Nam,
tôm nước ngọt, 2001). Theo Nguyễn Việt Thắng (1995), phạm vi phân bố, mật độ
quần đàn tự nhiên của phụ thuộc vào một số yếu tố môi trường mà trước hết là nhiệt
độ, độ mặn và độ pH.
2.2.2 Hình thái

Tôm càng xanh có thân tròn khác so với những loài tôm biển, tôm trưởng thành
có màu xanh dương đậm và đặc biệt là đôi càng (cặp chân ngực thứ 2) lớn màu xanh,
có nhiều gai dùng để phòng thủ và bắt mồi.
Cơ thể tôm càng xanh có thể chia làm 2 phần: phần đầu ngực (carapace) và
phần bụng.
Phần đầu ngực lớn có dạng hơi giống hình trụ bao gồm phần đầu với 5 đốt liền
nhau mang 5 đôi phụ bộ và phần ngực với 8 đốt liền nhau mang 8 đôi phụ bộ. Phần
đầu ngực có chủy phát triển nhọn và cong lên ½ bề dài tận cùng của chủy, trên mắt
chủy có từ 11 - 16 gai (2 - 3 gai sau mặt), phía dưới chủy có từ 10 - 15 gai. Chiều dài
chuỷ của cá thể khi trưởng thành con cái thường bằng hoặc ngắn hơn ở đầu ngực, còn
chủy con đực dài hơn chiều dài vỏ đầu ngực. Trên phần đầu ngực có 2 đôi râu làm
chức năng xúc giác, một đôi hàm lớn, hai đôi hàm nhỏ và ba đôi chân hàm có chức
năng giữ và nghiền mồi. Phía dưới phần đầu ngực là 5 đôi chân ngực, trong đó có 2
đôi chân mang kẹp, mà đôi chân ngực mang kẹp thứ hai luôn phát triển hơn, nhất là ở
tôm đực trưởng thành.
Phần bụng tôm càng xanh có 7 đốt. Năm đốt đầu tiên có mang đôi chân bụng
gọi là chân bơi, đốt thứ 6 gọi là đốt đuôi có đôi chân đuôi có chức năng như là bánh
lái, đốt cuối cùng nhọn và cứng, không thể cử động được gọi là telson.
Đặc điểm về kích cỡ, hình dạng, màu sắc và các gai trên đôi càng sẽ phụ thuộc
vào giai đoạn phát triển của tôm. Ở tôm đực, khi tôm còn nhỏ, đôi càng có màu trong,
sau chuyển thành vàng cam (còn gọi là càng lửa), chưa có gai hay có gai rất mịn trên
4


càng, chưa có hay rất ít lông tơ. Khi tôm lớn, đôi càng có màu xanh đậm, xuất hiện
nhiều gai nhọn và lông tơ trên càng. Quá trình thay đổi trên được thể hiện qua các giai
đoạn khác nhau bao gồm: tôm nhỏ, tôm càng lửa nhạt, tôm càng lửa đậm, tôm càng
lửa đậm chuyển tiếp càng xanh, tôm càng xanh nhạt, tôm càng đậm và tôm già.
2.2.3 Vòng đời tôm càng xanh
Quá trình tăng trưởng và phát triển, tất cả các loài tôm (cũng như các loài giáp

xác khác) đều phải lột bỏ lớp vỏ cứng bền ngoài theo một thời gian nhất định, quá
trình này gọi là lột xác, cùng với quá trình lột xác là sự lớn lên về kích thước và trọng
lượng, thời gian lột xác phụ thuộc vào tuổi và dinh dưỡng.
Bảng 2.1: Quan hệ trọng lượng và thời gian lột xác của tôm càng xanh.
Trọng lượng cá thể (gam)

Thời gian lột xác (ngày)

2,0 - 5,8

9,0

6,0 - 10,0

13,5

11,0 - 15,0

17,0

16,0 - 20,0

18,5

21,0 - 25,0

20,0

26,0 - 35,0


22,0

36,0 - 60,0

23 - 24

Trên 60,0

25 - 40

Vòng đời của tôm càng có 4 giai đoạn bao gồm: trứng, ấu trùng, hậu ấu trùng
và tôm trưởng thành. Tôm càng xanh trưởng thành sống chủ yếu ở nước ngọt. Khi
thành thục, tôm bắt cặp, đẻ trứng và trứng dính vào các chân bụng của tôm mẹ. Tôm
trứng di cư ra vùng cửa sông nước lợ (có độ mặn 6 - 18‰) để nở. Đặc điểm các giai
đoạn như sau:
Giai đoạn trứng:
Khi tôm cái đã thành thục và lột xác, tôm đực sẽ gắn tinh nang vào phần dưới
carapace của con cái, giữa các đôi chân ngực và gần lỗ sinh dục cái. Khi con cái đẻ thì
trứng được thụ tinh ngay và được tôm cái ấp ở các chân bụng. Khi trứng mới đẻ, có
đường kính khoảng 1/4 mm, có màu vàng sáng chuyển dần sang màu vàng cam, đến
ngày thứ 12 màu da cam của trứng nhạt dần và ngả màu xám xanh nhạt, từ màu xám
5


xanh nhạt chuyển dần sang xanh đậm, trước khi nở khoảng 2, 3 ngày thì trứng ngả
sang màu xám đen (màu đen là mắt của ấu trùng còn nằm trong trứng). Nhờ đó dựa
vào màu sắc của trứng có thể dự đoán được ngày ấu trùng nở. Sau khoảng 20 ngày từ
khi đẻ thì trứng sẽ nở ra ấu trùng.
Giai đoạn ấu trùng:
Trứng nở ra ấu trùng ở dạng sống trôi nổi trong môi trường nước. Theo Uno và

Soo (1969) ấu trùng trải qua 11 lần lột xác tương đương với 11 giai đoạn biến thái
khác nhau trong khoảng thời gian 25 - 30 ngày trước khi biến thái trở thành dạng PL.
Mỗi giai đoạn có hình thái và kích thước khác nhau. Do ấu trùng của tôm càng xanh
cần phải sống trong môi trường nước lợ, có độ mặn từ 8 - 15‰. Vì vậy, khi tôm cái
mang trứng, đang sống trong môi trường nước ngọt, chúng di cư xuôi dòng theo sông
đến các vùng nước lợ để cho trứng nở và ấu trùng phát triển. Nếu tôm không ra được
vùng nước lợ thì ấu trùng mới nở sẽ chết sau 1 - 2 ngày. Ấu trùng tôm càng xanh sống
lơ lửng trong môi trường nước và tìm ăn các loại động vật phiêu sinh trong nước.
Giai đoạn hậu ấu trùng - Postlarvae (tôm bột, PL):
Đến giai đoạn này, PL có hình dạng và tập tính sống giống tôm trưởng thành.
Chúng bắt đầu sống đáy, di chuyển chủ yếu bằng cách bò hơn là bơi lội tự do, khi
chúng bơi thường theo kiểu mặt lưng ở phía trên và tiến về phía trước. Chúng có thể
lẩn tránh nhanh nhẹn bằng cách co các cơ bụng lại. Các PL có khả năng chịu đựng
được sự dao động lớn của nồng độ muối và chúng có khả năng bơi ngược dòng nước.
Lúc này, từ vùng nước lợ, tôm bơi ngược dòng sông để kiếm ăn và dần dần di cư lên
vùng nước ngọt. Tôm con trong giai đoạn này có thể được bắt để nuôi trong ao hồ,
ruộng lúa và được gọi là tôm long hay tôm chấu.
Giai đoạn trưởng thành:
Tôm thích nơi có nền đáy sạch, ít bùn, có nước chảy và thay đổi thưởng xuyên.
Ở các sông rạch có nước chảy mạnh, tôm thường bám vào cây cỏ, bụi rậm để nghỉ
hoặc kiếm ăn.
Sống trong vùng nước ngọt sau 7 - 8 tháng, tôm bắt đầu thành thục, chúng sẽ
giao vĩ và đẻ trứng, cứ như thế, vòng đời được tiếp tục.

6


2.2.4 Chu kỳ sống
Có 4 pha khác nhau trong chu kỳ sống của tôm cành xanh (FAO, 1985). Chu kỳ
sống của tôm càng xanh có thể tóm tắt như sau:

Tôm càng xanh thường sống trong vùng nước ngọt, chúng sinh trưởng, thành
thục, phát dục, giao vĩ, và đẻ trứng ở đó. Tuy nhiên, khi ôm và ấp trứng chúng có xu
thế bơi xuôi dòng ra vùng nước lợ, cửa sông ven biển. Ở đó, ấu trùng được nở ra và
sống trôi nổi theo kiểu phù du (Ling, 1969); Uno và Kwon, 1969). Theo Ling (1969),
ở phạm vi nhiệt độ từ 25 - 300C, thời gian ấp trứng là 19 - 23 ngày. Theo Nguyễn Việt
Thắng và ctv (1995), với nhiệt độ 26 - 300C, thời gian ấp trứng là 17 - 23 ngày. Quá
trình nở của trứng thường hoàn tất trong vòng một hoặc hai đêm. Ấu trùng sống phù
du, bơi lội tích cực, đuôi hướng về phía trước, bụng ngửa lên trên. Sau 11 lần lột xác
và qua 12 giai đoạn biến thái, ấu trùng chuyển thành hậu ấu trùng. Thời gian cho các
giai đoạn biến thái từ 17 - 35 ngày phụ thuộc vào các yếu tố như chất lượng nước,
nhiệt độ, dinh dưỡng. Kể từ lúc này trở đi, chúng có hình dạng giống tôm càng xanh
trưởng thành thu nhỏ và chủ yếu di chuyển bằng cách bò nhiều hơn là bơi lội tự do.
Sau đó, tôm con di cư ngược dòng vào vùng nước ngọt và sống ở đó (FAO, 1985).
Theo Stephenson và Knight (1980, 1982), nhiệt độ thấp có thể làm cho tôm di cư sớm
hơn. Nhiệt độ thích hợp cho hậu ấu trùng và tôm giống là 29 - 320C (Diaz - Herrara và
Buckle - Ramizer, 1990).
2.2.5 Tập tính dinh dưỡng
Tôm càng xanh trưởng thành là loài ăn tầng đáy và ăn tạp nghiêng về động vật,
thức ăn tự nhiên của chúng là các loại nguyên sinh động vật, giun nhiều tơ, giáp xác,
côn trùng, nhuyễn thể, các mảnh cá vụn, các loài tảo, mùn bã hữu cơ.
Tôm càng xanh xác định thức ăn bằng mùi và màu sắc. Tôm tìm thức ăn bằng
cơ quan xúc giác (râu), khi tìm được thức ăn, chúng dùng chân ngực thứ nhất kẹp gắp
thức ăn đưa vào miệng. Chúng rất háu ăn và ăn liên tục.
Tôm thường bắt mồi nhiều vào buổi chiều tối và sáng sớm, tôm thường bò trên
mặt đáy ao, dùng càng nhỏ đưa mồi vào miệng. Đặc tính của tôm càng xanh có tính
tranh giành thức ăn cao nếu không đủ thức ăn, chúng hay ăn thịt lẫn nhau khi lột xác,
con vỏ cứng sẽ ăn thịt con vỏ mềm mới lột, nếu thức ăn và dinh dưỡng không đầy đủ
thì tỷ lệ hao hụt rất cao do hiện tượng này, đây là đặc tính cố hữu của loài.
7



2.2.6 Đặc điểm về sinh trưởng
Giống như các loài giáp xác khác, tôm càng xanh không sinh trưởng liên tục mà
kích thước chỉ tăng nhanh sau mỗi lần lột xác. Sinh trưởng của tôm đực và tôm cái gần
như tương đương nhau cho tới khi đạt kích cỡ 35 - 40 g, sau đó chúng khác nhau rõ
theo giới tính, tôm đực sinh trưởng nhanh hơn tôm cái và đạt khối lượng có thể gấp đôi
con cái trong cùng một thời gian nuôi. Tôm đực lớn nhanh hơn tôm cái đặc biệt là giai
đoạn sau, do tôm cái có mang trứng làm nhiệm vụ duy trì nòi giống (New, 2000). Chu
kỳ lột xác tùy thuộc vào nhiều yếu tố như kích cỡ tôm, nhiệt độ, thức ăn, giới tính và
điều kiện sinh lý của chúng. Sự tăng trưởng còn phụ thuộc vào giai đoạn của tôm, tôm
nhỏ có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn tôm lớn. Tôm được bổ sung thức ăn động vật sẽ
lớn nhanh và chậm thành thục hơn so với tôm ăn thức ăn công nghiệp hoàn toàn. Theo
Nguyễn Thanh Phương (2003) trong điều kiện nuôi, tôm có thể đạt 35 - 40 g sau 6
tháng nuôi và 70 - 100 g sau 8 tháng nuôi.
2.3 Đặc Điểm Sinh Học Của Ấu Trùng Tôm Càng Xanh
2.3.1 Hình thái
Ấu trùng mới nở ra sống phù du, có tính hướng quang mạnh và cần nước lợ (6 16‰) để sống và phát triển (George, 1969). Ấu trùng sẽ chết sau 3 - 4 ngày nếu không
được sống trong nước lợ. Ấu trùng bơi lội chủ động, bụng ngửa và đuôi ở phía trước.
Ấu trùng có tính hướng quang mạnh, chúng bơi lội gần sát mặt nước thành từng đám.
Ấu trùng ăn liên tục thức ăn bao gồm các loại động vật phù du, giun nhỏ, ấu trùng các
động vật thủy sinh. Sự phát triển của ấu trùng tôm càng xanh trải qua 11 lần lột xác và
biến thái thành hậu ấu trùng. Đặc điểm các giai đoạn tôm càng xanh được trình bày
như Hình 2.3, theo Uno và Soo (1969; trích bởi Nguyễn Thanh Phương (2003).

8


Hình 2.1: Đặc điểm các giai đoạn ấu trùng của tôm càng xanh

Giai đoạn 1: Mắt chưa có


Giai đoạn 2: Mắt có

Giai đoạn 3: Xuất hiện

cuống

cuống

chân đuôi

Giai đoạn 4: Có hai răng

Giai đoạn 5: Telson hẹp

Giai đoạn 6: Mầm chân

trên chuỷ, chân đuôi có 2

và kéo dài ra

bụng xuất hiện

Giai đoạn 7: Chân bụng

Giai đoạn 8: Chân bụng

Giai đoạn 9: Nhánh trong

có 2 nhánh, chưa có lông


có lông tơ

của chân bụng có nhánh

nhánh,có lông tơ

phụ trong



Giai đoạn 10: Có 3-4

Giai đoạn 11: Răng xuất

Postlarvae: Răng xuất

răng trên chủy

hiện hết nửa trên chủy

hiện cả trên và dưới chủy,
có tập tính như tôm lớn

9


2.3.2 Yêu cầu về môi trường nuôi ấu trùng
Một trong những yếu tố môi trường quan trọng nhất trong ương nuôi ấu trùng là
độ mặn. Để sản xuất giống nhân tạo nhiều tác giả đã chọn vị trí có độ mặn ít biến

động, thông thường trong khoảng 12 - 15‰ (Ling, 1969; Fujimura, 1974; New và
Singholka, 1985). Độ mặn 12‰ sẽ được duy trì trong suốt quá trình nuôi ấu trùng
(Aquacop, 1984; New và Singholka, 1985; Nguyễn Việt Thắng, 1991).
Đối với các chỉ tiêu khác như nhiệt độ, pH, ôxygen hòa tan nhiều tác giả cũng
thống nhất với nhau như sau:
 Độ mặn: 12‰
 Nhiệt độ: 26 - 310C.
 pH: 7 - 8,5.
 Hàm lượng ôxygen hòa tan: 6 - 9 mg/L.
(Ling, 1969; Fujimura, 1974; Liao và Chao, Sandifer và ctv, 1977; Suharto và
ctv, 1982; New, 1982; Aquacop, 1984; Melecha, 1983).
Đối với một số sản phẩm có nguồn gốc từ nitrogen như ammonia (NH3),
-

ammonium (NH4 - N), nitrite (NO2 - - N), nitrate (NO3 - - N) trong đó NH3, NH4- - N
và NO2 - - N là một trong những sản phẩm tồn tại chính trong bể ương ấu trùng do sự
phân hủy từ các loại thức ăn cho ấu trùng nên < 0,1 ppm và 1 ppm.
2.3.3 Mật độ nuôi ấu trùng
Mỗi điều kiện môi trường nước chỉ đáp ứng một sinh khối sinh vật sống nhất
định. Nếu lượng sinh vật phát triển quá nhiều thì sẽ vượt ra ngoài sự đáp ứng của thủy
vực nên sự phát triển của sinh vật sẽ không được tối ưu, giảm dần và tỷ lệ sống của
sinh vật sẽ bị giảm. Trong sản xuất giống tôm càng xanh cũng vậy tùy theo từng hình
thức ương khác nhau mà mật độ ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh phải khác nhau để
đảm bảo sự phát triển và tỷ lệ sống của ấu trùng tôm càng xanh.
Theo Nguyễn Việt Thắng (1993), quy trình nước trong hở đạt tỷ lệ sống từ 10,5
- 66,6% với mật độ từ 50 - 250 ấu trùng/lít. Đây là quy trình có thể ương với mật độ
cao nhất nhờ sự ổn định của chất lượng nước do thay nước thường xuyên.
Quy trình nước trong kín thì mật độ ương của ấu trùng thông thường là từ 50 150 ấu trùng/lít. Tỷ lệ sống của mô hình này có thể đạt từ 15,2 - 66,2%.
10



Quy trình nước trong kín thì mật độ ương nuôi ấu trùng thấp nhất đặc biệt là mô
hình nước xanh cải tiến. Mật độ ương thông thường của hình thức nuôi này là từ 30 100 ấu trùng/lít.
Theo Nguyễn Thanh Phương (2003), quy trình nước trong kín đạt tỷ lệ sống từ
27,4 - 52,5% với mật độ từ 30 - 120 ấu trùng/lít, quy trình nước xanh cải tiến đạt tỷ lệ
sống từ 32,3 - 92,3 với mật độ từ 30 - 120 ấu trùng/lít.
Thông thường số postlarvae có thể sản xuất được khác nhau từ 19 PL/lít (Ling,
1969), 11 PL/lít (Fujimura, 1970), tại Malaysia là 30 PL/lít (Malecha, 1983) tại Hawai
là 10 - 20 PL/lít (Singholka, 1995). Tại Thái Lan, các trại sản xuất giống thành công có
thể đạt từ 17 - 50 PL/lít (Ang, 1996; trích dẫn bởi Nguyễn Quốc Hưng, 2002).
2.3.4 Tập tính dinh dưỡng ấu trùng tôm càng xanh
Đối với ấu trùng giáp xác, thức ăn tự nhiên ban đầu của chúng chủ yếu là thực
vật phiêu sinh hoặc thực vật phiêu sinh kết hợp với động vật phiêu sinh. Tuy nhiên giai
đoạn đầu của ấu trùng tôm càng xanh không sử dụng thực vật phiêu sinh mà sử dụng
động vật phiêu sinh là chủ yếu. Ưu điểm của chúng là có kích thước nhỏ, sống môi
trường nước, phù hợp cho tập tính bắt mồi thụ động của ấu trùng và không làm ô
nhiễm môi trường nước. Muốn sản xuất với quy mô lớn thì việc nghiên cứu, sử dụng
thức ăn tươi sống vẫn còn là chiếm lược quan trọng. Bên cạnh đó cũng từng bước
nghiên cứu việc áp dụng thức ăn nhân tạo vào quá trình sản xuất giống. Đến giai đoạn
VII, tôm chuyển sang ăn tạp. Từ giai đoạn này ta có thể bổ sung thức ăn công nghiệp
hoặc thức ăn tự chế do sự bắt mồi của tôm không có sự chọn lọc nhưng trong quá trình
tiêu hóa thì có sự chọn lọc (Nguyễn Việt Thắng, 1993).
Ở giai đoạn đầu, ấu trùng tôm không bắt mồi chủ động mặc dù thị giác của
chúng tốt (Daniel W.H, D’ Abramo L.R. và Paserval L.D, 1992) mà chúng hầu như
bắt mồi do sự ngẫu nhiên. Thức ăn tươi sống di chuyển liên tục trong cột nước nên tạo
cơ hội tốt cho ấu trùng bắt gặp thức ăn. Kích thước thức ăn tươi sống cũng là vấn đề
rất quan trọng. Từ giai đoạn I - III ấu trùng chỉ có thể ăn ấu trùng Artemia mới nở có
kích thước khoảng 500 µm. Moina cũng có thể bổ sung vào nhưng phải sau giai đoạn
IV (Ang và Alam, 1995). Sau giai đoạn VII, ấu trùng có khả năng sử dụng thức ăn
ngoài. Do đó, ngoài Artemia cần cung cấp thêm những nhân tố vi lượng cần thiết cho

ấu trùng (Ling, 1969) thông qua con đường thức ăn thay thế. Tuy nhiên, thành phần
11


thức ăn chế biến rất khác nhau tùy tác giả, đa số các thức ăn chế biến gồm có trứng,
mực tươi, cá, thịt nhuyễn thể, dầu mực, vitamin C,… Thức ăn chế biến thường được
sử dụng vào ban ngày nhằm dễ quản lý.
2.4 Artemia
Artemia được sử dụng trong thủy sản như là một nguồn thức ăn tự nhiên quan
trọng trong sản xuất giống, nhất là trong sản xuất giống tôm càng xanh. Theo Alam và
Ang (1995), Artemia được xem là nguồn thức ăn duy nhất trong những ngày đầu của
ấu trùng tôm càng xanh (từ giai đoạn II - III). Mặc dù Artemia được biết đến hàng thế
kỉ nay nhưng vai trò của chúng đối với ngành nuôi trồng thủy sản đặc biệt là ương ấu
trùng tôm cá chỉ được biết rõ từ những năm 1930 do Seale (1933) và Rollefen (1939)
công bố.
2.4.1 Giá trị dinh dưỡng
Thời điểm giàu dinh dưỡng nhất là lúc mới nở (giai đoạn Instar I). Lúc này
chúng có màu cam, kích thước nhỏ (khoảng 400 - 500 µm), kém bơi lội, năng lượng
dự trữ nhiều nên sử dụng rất thích hợp cho tính bắt mồi của ấu trùng tôm trong những
ngày đầu. Giá trị dinh dưỡng của nauplius Artemia sẽ bị giảm dần theo thời gian.
Artemia giai đoạn Instar II năng lượng bị giảm 20 - 30%, ít acid amine tự do hơn và
trọng lượng khô cá thể ít hơn so với lúc Artemia mới nở. Ngoài ra Artemia ở Instar II
trong suốt khó thấy hơn, bơi nhanh hơn và làm giảm sự thu nạp năng lượng của ấu
trùng tôm càng xanh ở nỗ lực săn mồi. Vì vậy cần phải thu hoạch càng sớm càng tốt
sau khi chúng nở (Leger và ctv, 1986; trích bởi FAO 1996).
Bảng 2.2: Thành phần dinh dưỡng của Artemia (Nguồn: Léger và ctv, 1986)
Thành phần

Nauplius


Con trưởng thành

Protein

52,2 ± 8,8

56,4 ± 5,6

Lipid

18,9 ± 4,5

11,8 ± 5,0

Carbonhydrate

14,8 ± 4,8

12,1 ± 4,4

9,7 ± 4,6

17,4 ± 6,3

Tro

Ấu trùng Artemia có hàm lượng protein cao (45% trọng lượng khô), thành phần
các acid amin khá cân đối cho giáp xác cũng như có hàm lượng lipid cao. Tuy nhiên,
thành phần các acid béo lại thiếu cân đối, với hàm lượng DHA chỉ chiếm 0,1% trong
12



khi EPA chiếm đến 10,5% trọng lượng khô của ấu trùng Artemia (Nguyễn Thị Thanh
Hiền, 2004).
2.4.2 Phương pháp làm giàu Artemia
Như đã nói ở trên mặc dù ấu trùng Artemia có hàm lượng protein cao, thành
phần các acid amine khá cân đối cho giáp xác. Nhưng hàm lượng lipid, acid béo lại
thiếu cân đối với hàm lượng DHA (docosahexaenoic acid, 22:6n:3) chỉ chiếm 0,1%
trong khi EPA (eicosapentaenoic acid, 22:5n:3) chiếm đến 10,5% trọng lượng khô của
ấu trùng Artemia (Nguyễn Thị Thanh Hiền, 2004). Điều này gợi ý cho ta nên làm giàu
hóa ấu trùng Artemia với DHA trước khi cho ấu trùng ăn.
Nguyên tắc chung được áp dụng là khi Artemia lột xác sang giai đoạn Instar II
(khoảng 8 giờ sau khi nở) chúng có tính ăn không chọn lọc khi nhặt những chất có
dạng hạt (FAO, 1996). Tập tính này đã tạo điều kiện rất lớn trong việc bổ sung chất
dinh dưỡng (như DHA, Vitamin C …) hay các chất cần thiết khác (kháng sinh, chất
tăng cường miễn dịch…) vào ấu trùng tôm cá qua làm giàu Artemia.
Theo Léger và ctv (1996), các nhà nghiên cứu Anh, Pháp, Nhật và Bỉ đã phát
triển các sản phẩm làm giàu khác gồm có các tảo đơn bào, nấm men và các chất nhũ
tương (trích bởi FAO, 1996).
Ưu điểm của Artemia làm giàu dinh dưỡng là thành phần dinh dưỡng trong cơ
thể chúng đã được cải thiện. Chẳng hạn, sau khi làm giàu dinh dưỡng trong môi trường
thức ăn dầu cá, Artemia không những chứa cao hơn về acid béo cần thiết EPA mà còn
cả DHA. Các loại này thường không thấy nhiều trong nauplius Artemia.
2.4.3 Khả năng tiêu thụ Artemia của tôm càng xanh
Barros và Valenti (2003) (trích bởi Hoàng Thị Thủy Tiên, 2004) có nghiên cứu
về sự tiêu thụ Artemia của ấu trùng tôm càng xanh ở các giai đoạn khác nhau. Kết quả
cho thấy ấu trùng tôm càng xanh có mức tiêu thụ Artemia ở 4 mức độ khác nhau tùy
thuộc vào giai đoạn phát triển của ấu trùng.

13



×