Bằng Chí Cao
27 Tháng 4 2017 · Đã chỉnh sửa · ·
Cô Trang giới thiệu
Ôn tập: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm, Đặng Trần
Côn, Đoàn Thị Điểm dịch)
Đề 1: Cảm nhận đoạn thơ sau:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương “
(Trích Chinh phụ ngâm, Đoàn Thị Điểm dịch)
Đề 2: Cảm nhận của anh/ chị về 8 câu cuối bài ” Tình cảnh lẻ loi của người chinh
phụ”
“Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”
(Trích Chinh phụ ngâm- Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm dịch)
GỢI Ý – HƯỚNG DẪN
ĐỀ 1:
1. Nêu hoàn cảnh sáng tác “Chinh Phụ Ngâm”
+Vào đầu thời Lê Hiển Tông, có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra chống lại
triều đình Đây là thời kì vô cùng rối ren của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra
liên miên, hết Lê-Mạc đánh nhau đến Trịnh-Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm
hai nửa. Ngai vàng của nhà Lê mục ruỗng. Nông dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở
khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh loạn li nồi da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa
chồng.
+Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán, do tác giả Đặng Trần Côn sáng tác vào
khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra
đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch xuất
hiện, trong đó bản dịch sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được coi là hoàn hảo
hơn cả.
2. Nội dung chính của đoạn trích:
Đoạn trích miêu tả những cung bậc sắc thái tình cảm của người chinh phụ sau khi
tiễn chồng ra mặt trận :Nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh lẻ loi; cảm giác
về thời gian chờ đợi; cố tìm cách giải khuây nhưng không được.
3. Đọc hiểu chi tiết: Các em có thể tham khảo gợi ý sau:
+Người chinh phụ tiễn chồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ lập được
công danh và trở về cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi tiễn đưa,
nàng sống trong tình cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo lắng cho chồng. Thấm thìa nỗi
cô đơn, nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang qua đi và cảnh lứa đôi đoàn tụ hạnh
phúc ngày càng xa vời. Người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn đến cùng cực.
Khúc ngâm thể hiện rất rõ tâm trạng cô đơn ấy.
+Đoạn thơ đã mở ra trước mắt người đọc một không gian chật hẹp,nơi thềm hiên
vắng lặng,nơi mà người chinh phụ đang cố gắng vượt qua sự cô đơn trống vắng khi
người chồng đã đi xa.Bằng cách sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình,Đặng Trần
Côn đã vẽ nên bức tranh tâm trạng đầy xúc động,thể hiện nỗi sầu của người chinh
phụ cũng như bút pháp tinh tế của ông trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.
+Trong đêm thanh vắng quạnh hiu này,chỉ có tiếng bước chân của nàng ,một mình
đối diện với chính mình .Bước chân ấy đi đi lại lại trên hiên nhưng có lẽ tâm trí
nàng đang chìm đắm trong miên man.Mỗi bước chân là 1 nỗi nhớ,mỗi bước chân
là một nỗi lo,tất cả đang làm cho tâm trạng nàng nặng trĩu lo âu và thương nhớ
người chồng đang chinh chiến ở ải xa.
+Người chinh phụ hết đi đi lại lại, rồi lại buông rèm ,cuốn rèm không biết bao
nhiêu lần…Đây là những động tác,cử chỉ và hành động được lặp lại nhiều lần mà
không hề có mục đích của người chinh phụ
Đúng như nhan đề của tác phẩm,đoạn thơ là tâm trạng cô đơn trống vắng của
người chinh phụ.Sau khi tiễn chồng ra trận nàng trở về trong nỗi chờ mong khắc
khoải .Nàng dường như quên hết mọi thứ xung quanh. Cái cô đơn ,khắc khoải ở
trong tâm trí đã len lỏi, gậm nhấm nàng để rồi nó hiện thành hình hài qua dáng vẻ
thơ thơ,thẩn thẩn như người mất hồn. Nhịp thơ chậm gợi cảm giác như thời gian
ngưng đọng.Giữa không gian tịch mịch,tiếng bước chân như gieo vào lòng người
âm thanh lẻ loi, cô độc .Dáng vẻ ủ ê,ngao ngán,bề ngoài gầy gò khắc sâu nỗi đau
trong tim.nàng thật bơ bơ,lạc lõng,lại đáng thương quá đỗi. Nàng biết làm gì đây
khi ngày lại tiếp ngày,đêm lại tàn đêm trong nỗi nhớ mong vô vọng.
+Đã lâu lắm rồi “thước chẳng mách tin” không có một lá thư,cũng không có người
thân qua lại.
+Nàng lại quay về với không gian chật hẹp của căn phòng,nơi mà nàng đối diện
với bóng mình,đối diện với ngọn đèn khuya hiu hắt .Nhưng thật trớ trêu, đền dù
sao chỉ là một vật vô tri vô giác,có biết cũng như ko.câu hỏi tu từ “Đèn có
biết..chẳng biết”là một lời than thở,là nỗi khắc khoải chờ đọi và hi vọng trong nàng
day dứt không yên.Tâm trạng của người chinh phụ đã chuyển giọng tự nhiên từ lời
kể bên ngoài thành lời tự độc thoại nội tâm , da diết , dằn vặt và ngậm ngùi.nàng
quả là một người đáng thương!
Trong đêm vắng chỉ có ngọn đèn có ánh sáng ,nó càng làm nổi bật đêm tối mênh
mang và nỗi cô đơn dường như nhân lên gấp bôi trong lòng người thiếu phụ.
+Đánh giá chung:
-Về nghệ thuật,với thể thơ song thất lục bát,cách dung từ,hình ảnh ước lệ,đoạn thơ
đã thể hiện một cách tinh tế các cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô
đơn buồn khổ của người chinh phụ luôn khao khát được sống trong tình yêu và
hạnh phục lứa đôi.
-Về nội dung,đoạn trích cũng thể hiện tấm lòng thương yêu và cảm thông sâu sắc
của tác giả với khát khao hạnh phúc chính đáng của người chinh phụ.Cất lên tiếng
kêu nhân đạo,phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
ĐỀ 2 : CẢM NHẬN 8 CÂU TIẾP
– Dùng cảnh vật thiên nhiên, để miêu tả tâm trạng con người, dùng khách quan để
tả chủ quan:
+ Tiếng gà “eo óc” báo hiệu canh năm, chứng tỏ người vợ trẻ xa chồng, đã thao
thức suốt cả đêm.
+ Bóng cây hoè ngoài sân, trong vườn ngắn rồi dài, dài rồi lại ngắn: bước đi chậm
chạp của thời gian, một khắc, một giờ dài như một năm.
+ Cụ thể hoá mối sầu như niên: đằng đẵng, dằng dặc
+ Hành động: gảy, soi, đốt,… gắn liền với các đồ vật như đàn, hương, gương –
những thú vui tao nhã, những thói quen trang điểm của người chinh phụ giờ đây
thành miễn cưỡng, gượng gạo, chán chường.
(+) Đốt hương để tìm sự thanh thản mà hồn lại mê man, bấn loạn;
(+) Soi gương mà không cầm được nước mắt;
(+) Dây đàn, phín đàn chỉ nhắc cảnh chia li và nỗi chia lìa ám ảnh dây đứt, phím
chùng…
– Hình ảnh ẩn dụ tượng trưng mang tính ước lệ của thi pháp trữ tình trung đại bóng
bảy, sang trọng và cổ kính nhưng người đọc tâm trạng thật của người phụ nữ bồn,
cô đơn, lẻ loi, nhớ thương, dằn vặt khi chồng đi chinh chiến phương xa.
ĐỀ 3 :
Mở bài : các em có thể mở bài theo nhiều cách khác nhau, nhưng phải giới thiệu
được tên tác giả ( Đặng Trần Côn) , tên người dịch ( Đoàn Thị Điểm) , tên tác
phẩm, và trích dẫn đoạn thơ trong đề bài.
Thân bài :
Ý 1 : Khái quát về hoàn cảnh sáng tác bài thơ, vị trí đoạn thơ cần phân tích
Ý 2: Cảm nhận về đoạn thơ
Kết bài : Nhận xét, đánh giá về giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, có thể
bàn bạc mở rộng vấn đề, liên hệ tới số phận của người phụ nữ xưa và nay để bài
viết thêm sâu sắc.
Sau đây là bài viết tham khảo
Bài làm : Cuộc nội chiến giữa các tập đoàn phong kiến ở nước ta cuối thế khỉ
XVIII đi qua để lại những đau thương mất mát không gì bù đắp được. Văn học thời
kì này tập trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi
đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm”
của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ.
Nhiều bản dịch xuất hiện, trong đó bản dịch sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm
được coi là hoàn hảo hơn cả. Tác phẩm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh
phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là đề cao quyền sống cùng khao khát tình yêu và
hạnh phúc lứa đôi của con người. Đoạn trích dưới đây là một trong những đoạn
tiêu biểu của bản ngâm khúc : ( trích dẫn đoạn thơ trong đề bài )
Nếu như ở 16 câu đầu người chinh phụ một mình trong căn phòng quạnh vắng với
tâm trạng cô đơn, lẻ loi, nỗi trống trải trong lòng thì đến 8 câu cuối, nỗi nhớ và nỗi
khát khao hạnh phúc lứa đôi bỗng trào dâng trong lòng và trở nên khắc khoải hơn
bao giờ hết. Mượn gió đông để gửi yêu thương cho chồng . Đó là ước muốn , là
khát khao được biết tin tức về chồng mình:
“Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.”
Tác giả sử dụng câu hỏi tu từ, kết hợp với điển cố ( non Yên) để diễn tả nỗi nhớ
của nhân vật. “Lòng này” là sự thương nhớ khôn nguôi, vì đã trải qua nhiều đợi
chờ .Gió đông là gió mùa xuân.Trong cô đơn, người chinh phụ chỉ biết hỏi gió,nhờ
gió đưa tin tới người chồng yêu thương nơi chiến địa xa xôi,nguy hiểm,nơi non
Yên nghìn trùng. Non yên,một địa danh cách xa Thiểm Tây, Trung Quốc hơn hai
ngàn dặm về phía bắc , nơi chiến trận đầy gian khổ .Nàng hỏi gió,nhờ gió
nhưng”có tiện”hay không? Nàng mong gió hãy mang nỗi nhớ của nàng nói với
người chồng ngoài biên cương .Sự cô đơn trong lòng người chinh phụ ngày càng
khắc khoải .Làm sao tới được non Yên,nơi người chồng đang “nằm vùng cát
trắng,ngủ cồn rêu xanh”?. Cùng với những từ ngữ trang trọng “gửi nghìn vàng ,
xin” đã giúp người đọc thấy được không gian , nỗi nhớ được mở ra thật mênh
mông , vô tận , khắc sâu nỗi cô đơn , hiu quạnh . Thế nhưng hiện thực thật phũ
phàng , đau xót :
“Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”
Việc sử dụng từ láy ‘thăm thẳm’ đã nói lên được nỗi nhớ da diết của người chinh
phụ .Mỗi nhớ thương ấy đè nặng trong lòng,triền miên theo thời gian, “đằng đẵng”
không thể nguôi ngoai. Nỗi nhớ ấy được cụ thể hóa bằng độ dài của không gian
“đường lên bằng trời”. Có thể nói,dịch giả Đoàn Thị Điểm đã có một cách nói rất
sâu sắc để cực tả nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ.Nỗi nhớ thương
ấy,tiếng lòng thiết tha ấy lại được diễn tả qua âm điệu triền miên của vần thơ song
thất lục bát với thủ pháp nghệ thuật liên hoàn-điệp ngữ.Cả một trời thương nhớ
mênh mông.Nỗi buồn triền miên,dằng dặc vô tận .
Sau khi hỏi “gió đông”để bày tỏ niềm thương nỗi nhớ chồng , cuối cùng đọng lại
trong nàng là nỗi đau , sự tủi thân:
“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu ,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
Ý của câu như muốn nói lên sự xa cách nghìn trùng , với biển trời rộng lớn , xa
“thăm thẳm” không hiểu cho “nỗi nhớ chàng”của người vợ trẻ.Nỗi nhớ “đau đáu”
trong lòng.Đau đáu nghĩa là áy náy,lo lắng,day dứt khôn nguôi.Có thể nói qua cặp
từ láy:”đằng đẵng” và “đau đáu”,dịch giả đã thành công trong việc miêu tả những
thương nhớ, đau buồn,lo lắng của người chinh phụ một cách cụ thể,tinh tế,sống
động.Tâm trạng ấy được miêu tả trong quá trình phát triển mang tính bi kịch đáng
thương.Ở hai câu cuối,nhà thơ lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm cảnh :
“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”
Giống như tâm sự Thúy Kiều trong Truyện Kiều: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu –
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”, người chinh phụ có lúc thấy cảnh vật vô
hồn, thê lương nhưng có khi lại cảm nhận cả khoảng không gian và cảnh vật như
đang hối thúc, giục giã, đổi thay, không tìm thấy đâu sự hô ứng, đồng cảm giữa
tình người với thiên nhiên . Niềm thương nỗi nhớ cứ kéo dài từ ngày này sang
ngày nọ . Nhìn cành cây ướt dẫm sương đêm mà lòng nàng lạnh lẽo . Nghe tiếng
trùng kêu rả rich thâu canh như tiếng đẫm sương đêm mà thêm nhói lòng, buồn
nhớ. Âm thanh ấy,cảnh sắc ấy vừa lạnh lẽo vừa buồn,càng khơi gợi trong lòng
người vợ trẻ,cô đơn biết bao thương nhớ,lo lắng,buồn rầu.
Bằng những hình ảnh ẩn dụ cho nỗibuồn chất chứa , sự mòn héo của cảnh vật . 8
câu thơ cuối đã diễn tả nỗi nhớ da diết , nhớ tới thầm đau của người chinh phụ .Nỗi
đau được chuyểntừ lòng người sang cảnh vật . Hàng loạt những hình ảnh ẩn dụ , từ
ngữ gợi tả lại càng xoáy mạnh vào nỗi đau trong lòng người chinh phụ . Qua đó
người đọc cũng cảm nhận được 1 cách sâu sắc niềm thương cảm , thấu hiểu của tác
giả đối với nỗi đau của người phụ nữ có chồng ra trận .
Với thể thơ song thất lục bát , cách dùng từ , hình ảnh ước lệ , điệp từ điệp ngữ ,
nghệ thuật miêu tả nội tâm , đoạn thơ đã thể hiện 1 cách tinh tế những cung bậc sắc
thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ ở nàng khao khát được sống
trong hạnh phúc , tình yêu lứa đôi . Đoạn trích còn thể hiện tấm lòng yêu thương ,
cảm thong sâu sắc của tác giả với những khát khao hạnh phúc chính đáng của
người thiếu phụ , cất lên tiếng kêu nhân đạo , phản đối chiến tranh phi nghĩa
Đoạn trích cũng như toàn tác phẫm ‘chinh phụ ngâm’ là tiếng kêu thương tâm của
người phụ nữ nhớ chồng nơi chinh chiến . Trạng thái tình cảm của người chinh phụ
một mặt có ý nghĩa tố cáo những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao nhiêu
người trai ra trận để biết bao chinh phụ héo hon tựa cửa chờ chồng, mặt khác lên
tiếng nói tình cảm và sự ý thức về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi của
người phụ nữ ngay giữa cuộc đời trần thế này . Tác phẩm đã khẳng định những giá
trị nhân văn cao cả mà khúc ngâm đã đem lại, đánh dấu bước trưởng thành vượt
bậc của giai đoạn văn chương thế kỷ XVIII trong quá trình phát triển của nền văn
học dân tộc.
(Theo Thutrang.edu.vn)