BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------
TRẦN THỊ THÚY
DI CHÚC BẰNG VĂN BẢN CÓ CÔNG CHỨNG,
CHỨNG THỰC
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------
TRẦN THỊ THÚY
DI CHÚC BẰNG VĂN BẢN CÓ CÔNG CHỨNG,
CHỨNG THỰC
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Đăng Hiếu
HÀ NỘI – NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn
Trần Thị Thúy
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật dân sự
BLDS
Ủy ban nhân dân
UBND
Tòa án nhân dân
TAND
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI CHÚC VÀ DI CHÚC BẰNG
VĂN BẢN CÓ CÔNG CHỨNG, CHỨNG THỰC ................................................6
1.1.Di chúc ..................................................................................................................6
1.1.1.Khái niệm ...........................................................................................................6
1.1.2. Đặc điểm của di chúc ........................................................................................7
1.1.3. Hình thức của di chúc .....................................................................................10
1.1.4. Nội dung của di chúc.......................................................................................11
1.2. Khái niệm công chứng, chứng thực và hoạt động công chứng, chứng thực di
chúc
..................................................................................................................14
1.2.1. Khái niệm công chứng, chứng thực ................................................................14
1.2.2. Hoạt động công chứng, chứng thực di chúc ...................................................17
1.2.3. Lược sử quy định của pháp luật về hoạt động công chứng, chứng thực di
chúc. ..........................................................................................................................21
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH LIÊN QUAN ĐẾN
DI CHÚC BẰNG VĂN BẢN CÓ CÔNG CHỨNG, CHỨNG THỰC ...............32
2.1.Thẩm quyền công chứng, chứng thực di chúc ....................................................32
2.2.Người không được công chứng, chứng thực di chúc ..........................................33
2.3.Trình tự thủ tục công chứng, chứng thực di chúc ...............................................34
2.3.1.Trình tự, thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc UBND
cấp xã
...............................................................................................................34
2.3.2. Di chúc bằng văn bản do công chứng viên lập tại chỗ ở của người lập di chúc.
...................................................................................................................................39
2.3.3. Thủ tục công chứng, chứng thực việc sửa đổi, bổ sung, thay thế một phần
hoặc toàn bộ di chúc ..................................................................................................40
2.3.4. Công chứng, chứng thực di chúc miệng. ........................................................40
CHƢƠNG 3. NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN DI CHÚC
BẰNG VĂN BẢN CÓ CÔNG CHỨNG, CHỨNG THỰC VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN .............................................................................................44
3.1. Những vấn đề thực tiễn liên quan đến di chúc bằng văn bản có công chứng,
chứng thực .................................................................................................................44
3.1.1. Về người lập di chúc .......................................................................................47
3.1.2. Về trình tự, thủ tục công chứng, chứng thực di chúc ......................................48
3.1.3. Về nội dung thể hiện trong di chúc. ................................................................60
3.2. Một số kiến nghị liên quan đến di chúc bằng văn bản có công chứng, chứng
thực ............................................................................................................................71
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thừa kế từ lâu đã luôn là một chế định được ghi nhận và bảo hộ, ngay từ khi
xã hội loài người mới hình thành và nhất là giai đoạn có sự xuất hiện tư hữu về tư
liệu sản xuất. Theo đó việc một cá nhân để lại di sản của mình sau khi chết cho các
thành viên khác trong gia đình hoặc trong gia tộc, bộ lạc của mình là vấn đề thường
xuyên diễn ra. Cho đến ngày nay, quan hệ thừa kế vẫn là quan hệ pháp luật phổ biến
trong xã hội. Đặc biệt là khi nền kinh tế xã hội càng phát triển thì số lượng và giá trị
tài sản của cá nhân ngày càng tăng lên đa dạng và phong phú hơn dẫn đến xảy ra
các tranh chấp về di sản thừa kế cũng tăng lên đáng kể. Nhìn một cách khái quát,
thừa kế luôn luôn chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong pháp luật dân sự của
mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013
đều ghi nhận “quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”
(khoản 2 Điều 32 Hiến pháp năm 2013). Trên tinh thần đó, pháp luật dân sự ở nước
ta qua các thời kỳ đều quy định cụ thể về chế định thừa kế, và một trong những nội
dung được quan tâm nhất trong chế định này chính là thừa kế theo di chúc. Di chúc
là hình thức văn bản nhằm bảo đảm cho người có tài sản thực hiện ý nguyện chuyển
giao tài sản của mình cho người khác sau khi chết một cách chủ động. Quyền để lại
thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn được pháp
luật nhiều nước trên thế giới quan tâm theo dõi và bảo hộ. Việt Nam là một đất
nước có nền văn hóa theo tư tưởng á đông, do việc coi trọng những phong tục tập
quán, tình cảm cha con, vợ chồng anh em, đã khiến cho không ít người bỏ qua việc
đảm bảo thi hành quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế. Bên cạnh đó cũng có
những trường hợp đã lập di chúc nhưng bản di chúc đó lại không phù hợp theo qui
định của pháp luật, khiến những người thừa kế lại phải giải quyết tranh chấp thông
qua pháp luật, làm mất đi tình cảm, hòa khí vốn có. Do vậy việc hiểu được các quy
định về thừa kế nói chung và quy định về di chúc nói riêng là cần thiết đối với công
dân, có ý nghĩa rất lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh
vực thừa kế. Pháp luật dân sự đã đáp ứng được các yêu cầu bức thiết của xã hội đặt
ra trong giai đoạn hiện nay về việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo di
chúc. Tuy nhiên, các quy định về thừa kế theo di chúc ít nhiều vẫn còn nhiều điểm
gây tranh luận cả về lý luận lẫn thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó dẫn đến những
tranh chấp xảy ra xoay quanh vấn đề thừa kế theo di chúc là không ít trong xã hội
2
hiện nay. Những khó khăn thường được thể hiện trong việc xác định phải có những
điều kiện gì thì di chúc mới được coi là hợp pháp, điều kiện của người lập di chúc, ý
chí của người lập di chúc, nội dung của di chúc và hình thức của di chúc.Trong thực
tiễn thực hiện quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc có
nhiều bất cập như khi chấp hành hay áp dụng pháp luật về thừa kế có nhiều cách
hiểu khác nhau, dẫn tới việc nhầm lẫn, hiểu sai và áp dụng sai hoặc không đầy đủ
các quy phạm đó. Do dó, việc tìm hiểu các quy định của pháp luật về di chúc là điều
cần thiết nhằm hạn chế những vướng mắc, tranh chấp có thể xảy ra, từ đó đảm bảo
tôn trọng ý nguyện của người lập di chúc đồng thời đảm bảo được quyền hưởng
thừa kế của những người thừa kế theo di chúc.
Hiện nay pháp luật quy định rất nhiều loại di chúc khác nhau như di chúc
miệng, di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có
người làm chứng, di chúc bằng văn bản có công chứng, di chúc bằng văn bản có
chứng thực… Trong đó, di chúc bằng văn bản có công chứng, di chúc bằng văn bản
có chứng thực là các loại hình di chúc tỏ rõ ưu thế so với các loại hình di chúc khác
khi di chúc này có sự hiện diện của cơ quan công quyền nhân danh nhà nước chứng
nhận vào bản di chúc và di chúc có giá trị chứng cứ, chứng minh. Vì thế, hình thức
di chúc bằng văn bản có công chứng, chứng thực đang dần trở nên phổ biến trong
thực tiễn cuộc sống. Trong phạm vi luận văn này, người viết tập trung đi sâu tìm
hiểu những quy định có liên quan đến di chúc bằng văn bản có công chứng và di
chúc bằng văn bản có chứng thực để có cái nhìn tổng quát và chi tiết hơn về loại
hình di chúc này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thừa kế theo di chúc vừa là vấn đề rộng và phức tạp, vừa có lịch sử hình
thành và phát triển khá phong phú. Chế định thừa kế nói chung và thừa kế theo di
chúc nói riêng được qui định trong pháp luật dân sự đã hoàn thiện hơn. Liên quan
đến chế định thừa kế theo di chúc đã có nhiều các công trình, đề tài nghiên cứu về
vấn đề này. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu như luận án “Thừa kế theo di
chúc theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam” của tác giả Phạm Văn Tuyết năm
2003, luận văn “Hình thức của di chúc theo quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành – những bất cập và kiến nghị” của tác giả Triệu Khắc Thái năm 2016, luận
văn “Một số vấn đề về thừa kế theo di chúc và thực tiễn giải quyết tranh chấp về
thừa kế theo di chúc tại TAND tỉnh Cao Bằng” của tác giả Lương Thị Hợp năm
2012, luận văn “Hiệu lực pháp luật của di chúc một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
3
của tác giả Bùi Thị Phương Tú năm 2016. Bên cạnh đó còn một số sách chuyên
khảo như quyển “Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án” của tác giả
Đỗ Văn Đại, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2013, “Thừa kế của công dân
Việt Nam từ 1945 đến nay”, Nhà xuất bản Tư Pháp 2004, sách chuyên khảo của tác
giả Phùng Trung Tập, “Luật thừa kế Việt Nam”, Nhà xuất bản Hà Nội 2007.
Bên cạnh đó, cũng đã có một số các công trình nghiên cứu về thủ tục công
chứng nói chung cũng như công chứng các vấn đề liên quan đến thừa kế như luận
văn“Quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng” của tác giả Nguyễn Hoàng
Việt năm 2014, luận văn “Giá trị của công chứng đối với hiệu lực của giao dịch
dân sự” của tác giả Hoàng Khánh Phương năm 2012, luận văn “Các quy định của
pháp luật về thừa kế có liên quan đến thủ tục công chứng – Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” của tác giả Vũ Huy Thành năm 2016, sách chuyên khảo “Một số vấn
đề cần lưu ý khi công chứng các văn bản liên quan tới chế định thừa kế” của tác giả
Tuấn Đạo Thanh năm 2014, bài viết “Nên công chứng các việc thừa kế như thế
nào” của tác giả Nguyễn Phương Hoa đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 10
năm 1999, bài viết “Những khó khăn, vướng mắc trong việc lập di chúc và chứng
nhận di chúc” của tác giả Thái Công Khanh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số
13 tháng 7/2010, bài viết “Di chúc có công chứng, chứng thực” của tác giả Đỗ Văn
Đại – Nguyễn Hồ Bích Hằng đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 1 năm 2013.
Tuy vậy, hiện vẫn chưa có công trình nào đi sâu, nghiên cứu toàn diện và
tổng hợp về loại hình di chúc có công chứng và di chúc có chứng thực. Do vậy, có
thể khẳng định “Di chúc bằng văn bản có công chứng, chứng thực” là đề tài đầu
tiên nghiên cứu cụ thể, đi sâu về loại hình di chúc này.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về di chúc nói chung và đặc
biệt là đối với loại hình di chúc bằng văn bản có công chứng và di chúc bằng văn
bản có chứng thực. Cùng với đó là việc tìm hiểu trình tự, thủ tục công chứng, chứng
thực di chúc theo quy định của pháp luật, tìm ra những vướng mắc trong quy định
của pháp luật cũng như trong thực tiễn áp dụng, từ đó đề xuất những giải pháp
nhằm hạn chế và khắc phục những vướng mắc đó.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở quy định của BLDS 2015, Luật công chứng
2014, cùng các văn bản liên quan đến công chứng, chứng thực, có sự so sánh đối
4
chiếu với các văn bản pháp luật về dân sự, về công chứng, chứng thực trong giai
đoạn trước nhằm tìm hiểu những quy định mang tính lý luận cũng như những vấn
đề, kết quả đã thực hiện trong thực tiễn của pháp luật về di chúc.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về di
chúc và hoạt động công chứng, chứng thực di chúc. Phân tích, đánh giá thực tiễn thi
hành pháp luật về di chúc bằng văn bản có công chứng, chứng thực nhằm đưa ra
những giải pháp nâng cao những quy định về loại hình di chúc này cũng như nâng
cao hiệu quả của hoạt động công chứng, chứng thực di chúc.
Qua việc tìm hiểu, phân tích, đánh giá, kiến nghị, luận văn trả lời những câu
hỏi sau:
- Di chúc là gì? Có những loại hình thức của di chúc nào được pháp luật ghi
nhận?
- Công chứng, chứng thực là gì? Công chứng di chúc và chứng thực di chúc
khác nhau như thế nào? Giá trị pháp lý của di chúc bằng văn bản có công chứng,
chứng thực? Trình tự, thủ tục công chứng, chứng thực di chúc được quy định như
thế nào?
- Những vấn đề thực tiễn liên quan đến hoạt động công chứng, chứng thực di
chúc.
- Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hoạt cộng công
chứng, chứng thực di chúc.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp với tính
chất và yêu cầu của đề tài như: phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, so
sánh…. Kết hợp lý luận với thực tiễn để đưa ra những kết luận, đánh giá nhằm giải
quyết những nhiệm vụ đặt ra.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn:
Qua việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về di chúc và hoạt động
công chứng, chứng thực di chúc, người viết hướng tới việc:
- Làm rõ hơn những quy định của pháp luật về di chúc, thủ tục công chứng,
chứng thực di chúc;
- Thông qua đánh giá thực tiễn của hoạt động công chứng, chứng thực di chúc,
đưa ra những đề xuất cơ bản nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động công
chứng, chứng thực di chúc. Những vấn đề được làm sáng tỏ trong luận văn có thể
5
đóng góp cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về di chúc cũng như công
chứng, chứng thực ở Việt Nam.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác tìm hiểu, nghiên cứu về
di chúc, về hoạt động công chứng, chứng thực nói chung và công chứng, chứng
thực di chúc nói riêng.
7. Kết cấu luận văn:
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về di chúc và di chúc bằng văn bản có công
chứng, chứng thực.
Chương 2. Quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến di chúc bằng văn
bản có công chứng, chứng thực.
Chương 3. Những vấn đề thực tiễn liên quan đến di chúc bằng văn bản có
công chứng, chứng thực và một số kiến nghị hoàn thiện.
6
CHƢƠNG 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI CHÚC VÀ DI CHÚC BẰNG VĂN
BẢN CÓ CÔNG CHỨNG, CHỨNG THỰC
1.1. Di chúc
1.1.1.
Khái niệm
Pháp luật dân sự quy định việc thừa kế tài sản có thể thực hiện theo luật hoặc
theo di chúc. BLDS 1995, BLDS 2005, BLDS 2015 đã kế thừa và phát triển các
quan niệm về thừa kế, thừa kế theo di chúc trong pháp luật của các nước trên thế
giới và pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ, các bộ luật đều giành riêng một chương
để quy định về thừa kế theo di chúc. Trong đó, BLDS 2015 đã giành cả chương
XXII với 25 Điều từ Điều 624 đến Điều 648 quy định về thừa kế theo di chúc trong
đó có quy định về các loại hình thức của di chúc.
Thừa kế theo di chúc bắt đầu bằng sự kiện chủ sở hữu tài sản thông qua tự do
ý chí trên cơ sở của pháp luật quyết định việc lập di chúc, định đoạt một phần hoặc
toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của mình cho một cá nhân, nhóm cá nhân hoặc tổ chức
nào đó được hưởng. Hình thức của di chúc được lựa chọn trước hết theo ý chí của
người có ý định lập. Tuy nhiên, pháp luật bên cạnh sự quy định, hướng dẫn cũng có
những sự định hướng nhất định về hình thức, cách thức lập để đảm bảo tính có hiệu
lực, áp dụng sau này của bản di chúc. Trong di chúc, ngoài việc khẳng định để lại
tài sản cho ai, người lập di chúc còn có thể ghi nhận thêm những nội dung khác như
điều kiện hưởng, thời điểm hưởng, quyền lợi cũng như trách nhiệm của những
người liên quan. Tuy cũng là một dạng giao dịch dân sự, song do đặc thù từ đời
sống văn hóa nên di chúc ít nhiều mang những hơi hướng cách thể hiện khá đặc
trưng không lẫn với bất kỳ một giao dịch nào khác.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì di chúc là “Dặn lại trước khi chết những việc
người sau cần làm và nên làm”. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Thông tư
81/TANDTC ngày 24/07/1981 của Tòa án nhân dân tối cao không trực tiếp đưa ra
định nghĩa di chúc nhưng có quy định nội hàm của di chúc tại Phần IV: Thừa kế
theo di chúc, theo đó: “Thừa kế theo di chúc là việc di chuyển di sản của một người
đã chết cho các người khác theo sự định đoạt của người đó khi còn sống”. Tới Pháp
lệnh thừa kế năm 1990, tại Điều 10 có quy định “Công dân có quyền lập di chúc để
chuyển quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình cho một hoặc nhiều
người trong hoặc ngoài các hàng thừa kế theo pháp luật, cũng như cho Nhà nước,
cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế”. Tại điều 649 BLDS năm 1995
7
và Điều 646 BLDS 2005, Điều 624 BLDS 2015 đều quy định“Di chúc là sự thể
hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.
Theo các tác giả của cuốn Bình luận khoa học BLDS 2005 tập III thì: “Di chúc là
sự bày tỏ ý chí của một người khi còn sống định đoạt tài sản của mình, để chuyển
toàn bộ hoặc một phần tài sản của người đó cho một hay nhiều người thừa kế sau
khi chết”.
Như vậy, theo cách hiểu khái quát nhất thì di chúc chính là hình thức thể
hiện ý chí cá nhân của người lập di chúc nhằm mục đích chuyển quyền sở hữu tài
sản của mình cho các cá nhân, tổ chức khác sau khi người lập di chúc chết. Có thể
khẳng định rằng di chúc vừa chứa đựng những nét đẹp văn hóa bên cạnh những giá
trị pháp lý. Thông qua di chúc, cùng với việc khẳng định để lại tài sản là gì, cho
những ai, thường là những người lớn tuổi trong gia đình sẽ dặn dò con cháu, thực
hiện nếp sống tốt đời đẹp đạo, có hiếu, hòa thuận, san sẻ, đùm bọc lẫn nhau, đôi khi
có những điều trăn trở mà người ta có thể ghi chép lại rồi dặn dò con cháu.
1.1.2. Đặc điểm của di chúc
Từ khái niệm nêu trên, có thể thấy di chúc có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, di chúc chính là sự thể hiện ý chí cá nhân của người lập di chúc. Ý
chí này được thể hiện qua việc người lập di chúc toàn quyền quyết định việc chuyển
giao tài sản của mình cho ai sau khi cá nhân đó chết. Người lập di chúc không phải
bàn bạc, thông qua hay nhận được sự đồng ý từ người thừa kế về nội dung của di
chúc. Di chúc phải được lập một cách tự nguyện, nghĩa là phải có sự thống nhất
giữa ý chí thực sự của người lập di chúc và việc thể hiện ra ngoài thông qua hình
thức cụ thể. Do đó, di chúc trong pháp luật thừa kế xuất phát từ cá nhân nhưng
không phải tất cả những gì xuất phát từ cá nhân đều là di chúc, di chúc phải là ý chí
của người lập di chúc nên nếu một văn bản được cho là di chúc của một người
nhưng không thể hiện ý chí của người này không phải là di chúc.
Bên cạnh đó, người lập di chúc cũng toàn quyền quyết định trong việc dịch
chuyển tài sản của mình cho những người không nhất thiết phải có quan hệ huyết
thống, nuôi dưỡng hay thân thích với mình. Việc cho ai và cho bao nhiêu phần tài
sản đều phụ thuộc vào ý chí của người lập di chúc, trừ những trường hợp hạn chế do
pháp luật quy định. Di chúc là ý chí đơn phương của cá nhân, nên nó được hình
thành duy nhất bằng ý chí đơn phương của người để lại di chúc – một bên chủ thể
trong quan hệ giao dịch dân sự về thừa kế. Qua việc lập di chúc, cá nhân có ý định
làm xác lập một giao dịch dân sự về thừa kế. Theo đó họ quyết định chuyển giao
8
một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình cho người đã được họ xác định trong di
chúc mà không cần có sự đồng ý của người đó, cũng như không cần biết người đó
có nhận di sản của mình hay không.
Pháp luật quy định việc lập di chúc phải do chính cá nhân xác lập. Các chủ
thể khác như pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình không thể xác lập di chúc. Không ai
có thể ủy quyền cho một người khác để thay thế mình lập di chúc. Nhiều hệ thống
pháp luật ghi nhận nguyên tắc tuyệt đối theo đó di chúc là hành vi của cá nhân nên
di chúc chung không được chấp nhận, dù đó là di chúc chung vợ chồng. Theo quy
định của pháp luật Bỉ thì “di chúc chung không được chấp nhận”, pháp luật Italia
cũng quy định di chúc chung vô hiệu toàn bộ. Tại Li – Băng, di chúc là “hành vi cá
nhân và có thể bị hủy bỏ, văn bản không chấp nhận sử dụng di chúc chung”1. Qua
những dẫn chứng trên, có thể khẳng định đặc điểm di chúc chính là sự thể hiện ý chí
cá nhân của người lập di chúc.
Thứ hai, di chúc thể hiện sự định đoạt tài sản của người lập di chúc cho
người khác. Đây là nội dung quan trọng không thể thiếu được của một di chúc nếu
muốn được coi là một căn cứ để dịch chuyển tài sản của người chết cho những
người khác. Thông thường, một người chỉ lập di chúc trong trường hợp họ có một
khối tài sản và muốn bằng ý chí của mình để định đoạt tài sản đó cho ai trước khi
mình chết, mặt khác, cho dù trước lúc chết, người đó có một khối tài sản và cũng để
lại di chúc nhưng nếu di chúc không chứa đựng nội dung này thì cũng không làm
phát sinh việc thừa kế theo di chúc. Nghĩa là di chúc đó không có ý nghĩa gì đối với
quá trình dịch chuyển di sản. Nói cách khác, di chúc chỉ đem lại ý nghĩa về mặt vật
chất cho những người thừa kế theo di chúc đồng thời chỉ thật sự là một phương tiện
để người để lại thừa kế thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản của mình chừng
nào di chúc chứa đựng những nội dung trên. Nếu như các loại hợp đồng dân sự đều
thể hiện ý chí thỏa thuận của các bên chủ thể nhằm dịch chuyển tài sản từ người này
sang người khác khi họ đều còn sống thì di chúc lại nhằm dịch chuyển tài sản của
người đã chết sang cho người còn sống. Thực tiễn cho thấy có nhiều cá nhân để lại
lời dặn dò cho người thân trước khi chết. Tuy nhiên, những lời dặn dò không có nội
hàm nhằm dịch chuyển tài sản cho người khác không thuộc phạm vi điều chỉnh của
pháp luật dân sự. Chẳng hạn, tờ giấy viết là di chúc nhưng có nội dung người viết
1
Đỗ Văn Đại (2013), Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr.284
9
bản di chúc “không có tài sản gì, nhà tại…. là của bà Vân” không được coi là di
chúc “không có nội dung pháp lý của một di chúc”2.
Thứ ba, di chúc là loại giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực khi chính người để lại
di chúc chết. Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, cá nhân
luôn có thể thay đổi ý chí của mình vào bất kỳ thời điểm nào hoặc thậm chí là hủy
bỏ di chúc đã lập. Điều đó có nghĩa là nếu cá nhân lập di chúc còn sống thì người
thừa kế theo di chúc chưa có bất kỳ một quyền nào đối với tài sản của người lập di
chúc và họ cũng chưa chắc được nhận tài sản đó. Khoản 1 Điều 643 BLDS 2015
quy định: “di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế” mà “thời điểm mở thừa kế
là thời điểm người có tài sản chết” (Khoản 1 Điều 611 BLDS 2015). Pháp luật tôn
trọng quyền lập di chúc của cá nhân nhằm đảm bảo cho cá nhân thông qua việc định
đoạt tài sản của mình để thể hiện tình cảm, trách nhiệm của mình đối với người
khác, vì vậy, nếu sự định đoạt trong di chúc đã lập không còn phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh hiện tại thì người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung hoặc hủy
bỏ di chúc và thay thế bằng di chúc khác. Đồng thời, thêm vào đó, ý chí của cá nhân
người lập di chúc có tính khả biến, vì ý chí trước hết do tâm lý, tình cảm của người
lập di chúc chi phối và cung bậc tình cảm đối với những người được chỉ định thừa
kế theo di chúc lại rất khác nhau, do đó người lập di chúc có quyền thay đổi ý chí
của mình trong việc lập di chúc, theo đó nội dung của di chúc cũng bị thay đổi theo.
Trong trường hợp tài sản của người quá cố đã được giao cho người thụ
hưởng trước khi người có tài sản chết thì di chúc vẫn có thể tồn tại và quyền định
đoạt chỉ chuyển giao cho người thụ hưởng sau khi người có tài sản chết. Yếu tố
quyết định sự tồn tại của di chúc dựa vào thời điểm quyền định đoạt tài sản (một
quyền năng cơ bản của chủ sở hữu) được chuyển giao cho người thụ hưởng. Nếu
việc chuyển giao quyền định đoạt chỉ được tiến hành sau khi người có tài sản chết
thì di chúc tồn tại cho dù người thụ hưởng đã nhận tài sản trước khi người có tài sản
chết. Thừa kế theo di chúc chỉ phát sinh khi người để lại di chúc chết vì khi đó di
sản của người lập di chúc mới được mang ra chia cho những người được hưởng di
sản trong di chúc. Hay nói cách khác thì đó là việc cụ thể hoá di chúc, hay thực hiện
di chúc của người để lại di sản. Người được thừa kế theo di chúc chỉ có quyền nhận
tài sản của người lập di chúc sau khi người lập di chúc chết. Người thừa kế theo di
chúc nhận di sản và làm chủ sở hữu của di sản được hưởng và thừa kế theo di chúc
2
Đỗ Văn Đại (2013), Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr.286
10
là căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản của người thừa kế. Tuy nhiên, di chúc thể
hiện ý chí chủ quan của người lập, do vậy ý định của người lập di chúc nhằm
chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết có thể không thực hiện được
do tài sản được định đoạt trong di chúc cho người thừa kế không còn vào thời điểm
mở thừa kế của người để lại di chúc đó hoặc những người thừa kế được chỉ định
thừa kế theo di chúc đã chết trước, chết cùng thời điểm với người lập di chúc hoặc
đều không có quyền hưởng, từ chối quyền hưởng di sản… thì mục đích nhằm
chuyển tài sản của người lập di chúc cho người thừa kế không đạt được. Phần của di
chúc không thể thực hiện được là phần di chúc không phát sinh hiệu lực pháp luật.
Thứ tư, di chúc tồn tại không cần sự chấp nhận của người thụ hưởng. Khác
với hợp đồng chỉ tồn tại khi có sự thống nhất ý chí của hai bên, di chúc có thể tồn
tại trên cơ sở ý chí của một chủ thể. Trong nhiều trường hợp người được chỉ định
trong di chúc biết di chúc và chấp nhận di chúc ở thời điểm người lập di chúc còn
sống nhưng việc người thụ hưởng biết, chấp nhận di chúc không quyết định sự tồn
tại của di chúc. Di chúc có thể tồn tại khi người thụ hưởng không biết di chúc trước
khi người lập di chúc chết và ngay cả khi người thụ hưởng từ chối sau khi biết di
chúc thì di chúc vẫn tồn tại (nhưng không có giá trị). Chính những điều này cho
phép khẳng định di chúc là hành vi pháp lý đơn phương nhằm chuyển tài sản cho
người thụ hưởng theo ý chí của người lập di chúc mà không cần sự chấp thuận của
người thụ hưởng.3
1.1.3. Hình thức của di chúc
Hình thức của di chúc là một yếu tố pháp lý quan trọng của di chúc, có quan
hệ biện chứng với bản chất nội dung, giá trị hiệu lực và là phương tiện để diễn đạt ý
chí của người lập di chúc, cũng như để chứng minh sự tồn tại của di chúc. Người ta
sẽ không biết đến sự tồn tại của di chúc, nếu nó không được thể hiện dưới một hình
thức xác định. Với ý nghĩa đó, hình thức của di chúc được thừa nhận và quy định
trong pháp luật của hầu hết các quốc gia. Theo đó, hình thức của di chúc là sự thể
hiện ý chí của người lập di chúc, chứa đựng nội dung mà người lập di chúc đã xác
định, đồng thời minh chứng cho sự tồn tại của di chúc.
3
Đỗ Văn Đại (2013), Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr.291.
11
Hình thức của di chúc được quy định tại Điều 62 BLDS 2015 theo đó: “Di
chúc phải được lập thành văn bản, nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì
có thể di chúc miệng”.
Mặc dù đều là phương tiện thể hiện ý chí của chủ thể tham gia giao dịch, tuy
nhiên do di chúc là một loại giao dịch dân sự đặc biệt nên hình thức của di chúc
cũng có những đặc trưng riêng so với hình thức của các giao dịch dân sự khác. Cụ
thể:
Thứ nhất, nếu như các giao dịch dân sự khác có thể được lập dưới hình thức
bằng lời nói, văn bản hay hành vi cụ thể, thậm chí có thể được lập dưới dạng các dữ
liệu thông điệp điện tử thì di chúc chỉ có thể được lập bằng một trong hai hình thức
là di chúc bằng miệng và di chúc bằng văn bản. Như vậy, di chúc không thể được
lập bằng các hình thức khác ngoài 2 hình thức trên. Theo nguyên tắc chung, di chúc
chỉ được lập dưới hình thức bằng văn bản, di chúc miệng là hình thức ngoại lệ, chỉ
được áp dụng khi không thể lập di chúc bằng văn bản do tại thời điểm lập di chúc,
người lập di chúc bị cái chết đe dọa.
Thứ hai, so với hình thức của giao dịch dân sự khác, hình thức của di chúc
được quy định chặt chẽ hơn. Hình thức di chúc bằng văn bản có 03 loại là: di chúc
bằng văn bản do người lập di chúc tự tay viết (di chúc bằng văn bản không có người
làm chứng); di chúc bằng văn bản do người lập di chúc tự tay đánh máy hoặc nhờ
người khác viết hoặc đánh máy hộ (di chúc bằng văn bản có người làm chứng), di
chúc bằng văn bản do công chứng viên, người có thẩm quyền của UBND cấp xã ghi
chép lại (di chúc bằng văn bản có công chứng, chứng thực) (và các hình thức có giá
trị như di chúc có công chứng, chứng thực). Đối với mỗi loại di chúc bằng văn bản,
pháp luật lại quy định những điều kiện và trình tự lập tương tứng, người lập di chúc
phải tuân theo đúng thể thức, trình tự mà pháp luật đã quy định tương ứng với từng
loại di chúc.
1.1.4. Nội dung của di chúc
Ngoài việc đáp ứng các yêu cầu về hình thức, di chúc phải chứa đựng được
những nội dung cơ bản theo quy định của pháp luật. Nội dung của di chúc được quy
định tại Điều 656 BLDS 1995, Điều 653 BLDS 2005 và hiện nay là Điều 631
BLDS 2015, theo đó, một bản di chúc phải gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Di chúc phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc:
12
Đây là một vấn đề đơn giản nhưng lại rất quan trọng về mặt nội dung, có ý
nghĩa thiết thực trong việc xác định tính hiệu lực của di chúc, thông qua ngày,
tháng, năm lập di chúc sẽ xác định được tại thời điểm đó người lập di chúc có đáp
ứng được yêu cầu về năng lực hành vi dân sự, có minh mẫn, sáng suốt hay không?
Hơn nữa, trường hợp người lập di chúc để lại nhiều bản di chúc thì ngày, tháng,
năm trong di chúc sẽ cho phép xác định di chúc nào là di chúc thể hiện ý nguyện
sau cùng của người đó và xác định bản di chúc nào có hiệu lực để người thừa kế căn
cứ vào đó khai nhận di sản. Bên cạnh đó, thời gian lập di chúc còn là căn cứ để xác
định di chúc đó có bị coi là vi phạm các quy định của pháp luật hiện hành vào thời
điểm mà di chúc được lập hay không.
- Di chúc phải ghi rõ họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc:
Di chúc là ý chí của chủ thể duy nhất là người lập di chúc trong một giao
dịch dân sự đơn phương nên trong di chúc cần phải xác định rõ họ, tên của người có
ý chí đó. Mặt khác, địa điểm mở thừa kế, nơi đăng ký từ chối nhận di sản, thẩm
quyền giải quyết của Tòa án khi có tranh chấ đều được xác định thông qua nơi cư
trú của người lâp di chúc. Vì vậy, trong di chúc phải xác định rõ nơi cư trú của
người lập di chúc là một việc hết sức cần thiết.
- Di chúc phải nêu rõ họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
Nếu người thừa kế theo pháp luật luôn ổn định trong một phạm vi đã xác
định vì đó là những người cụ thể có một trong ba mối quan hệ về hôn nhân, nuôi
dưỡng, huyết thông với người để lại thừa kế thì phạm vi những người thừa kế theo
di chúc không thẻ xác định được vì họ là người được xác định theo ý chí của người
lập di chúc. Người thừa kế theo di chúc có thể là một cá nhân bất kỳ có thể nằm
trong diện những người thừa kế theo pháp luật nhưng cũng có thể nằm ngoài diện
đó, có thể là cơ quan, tổ chức bất kỳ. Vì vậy, khi định đoạt tài sản của mình, người
lập di chúc định cho ai, tổ chức nào hưởng di sản của mình sau khi chết thì phải
được xác định rõ trong di chúc, nếu không xác định được người được hưởng gì sản
thì không có căn cứ để thi hành bản di chúc đó. Đối với trường hợp trong di chúc
không xác định rõ họ, tên của người mà người lập di chúc muốn để lại di sản nhưng
thông qua các yếu tố khác có thể xác định được người đó là ai thì họ vẫn là người
được hưởng di sản theo di chúc, ví dụ ông A để lại di chúc để lại thừa kế cho cháu
13
nội là con của B mặc dù lúc lập di chúc thì con của B chưa được sinh ra, chưa có họ
tên.
- Di chúc phải ghi rõ di sản và nơi có di sản:
Người lập di chúc chỉ được định đoạt những tài sản thuộc sở hữu của mình
cho những người thừa kế. Hay nói cách khác, di sản thừa kế chỉ là những tài sản
thuộc quyền sở hữu của người chết. Vì vậy, việc ghi rõ di sản trong di chúc nhằm
qua đó để xác định người lập di chúc có những tài sản gì, những tài sản đó được
phân định như thế nào. Ngoài việc ghi rõ di sản, người lập di chúc cần xác định rõ
trong di chúc về nơi có di sản để sau khi mình chết, những người thừa kế dựa vào
đó dễ dàng xác định được địa điểm tồn tại của di sản. Hơn nữa, trong những trường
hợp không thể xác định được nơi cư trú thì việc ghi rõ nơi có di sản là cơ sở để việc
xác định địa điểm mở thừa kế được dễ dàng.
Ngoài các nội dung chủ yếu nêu trên, di chúc có thể có các nội dung khác
như việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ, lời căn dặn
con cháu…
Bên cạnh đó, pháp luật quy định di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng
ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có
chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc để đề phòng người khác thêm, bớt số
trang, giả mạo hoặc thay thế từng trang của di chúc.Trường hợp di chúc có sự tẩy
xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên
bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa. Để di chúc của mình được cụ thể rõ ràng, tránh
được sự tranh cãi giữa những người thừa kế về sau này, người lập di chúc không
nên dùng ký hiệu hoặc dùng chữ viết tắt để biểu đạt ý chí của mình. Trong trường
hợp người để lại di sản lập di chúc tại Công chứng nhà nước hoặc UBND xã,
phường, thị trấn thì hướng dẫn cho người lập di chúc không viết tắt, viết bằng ký
hiệu là công việc cần phải làm của người có thẩm quyền chứng nhận, chứng thực di
chúc.
Như vậy, thì di chúc do người lập di chúc tự viết, nhờ người làm chứng hay
công chứng hoặc chứng thực thì đều phải đáp ứng các yêu cầu về nội dung của di
chúc theo quy định của BLDS để đảm bảo cho di chúc đó hợp pháp và được công
nhận.
14
1.2.
Khái niệm công chứng, chứng thực và hoạt động công chứng,
chứng thực di chúc
1.2.1.Khái niệm công chứng, chứng thực
Ở Việt Nam, quá trình phát triển của hoạt động chứng thực luôn gắn liền với
quá trình phát triển của hoạt động công chứng. Trong một thời gian dài, hai hoạt
động này luôn được điều chỉnh chung trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật.
Chế định về công chứng ở Việt Nam đã có quá trình hình thành và phát triển
gần 30 năm và liên tục đã có những bước đổi mới để theo kịp sự phát triển của nền
kinh tế thị trường. Ở Việt Nam có rất nhiều quan niệm khác nhau về công chứng.
Hiểu một cách đơn giản nhất, công chứng chính là việc công quyền đứng ra làm
chứng. Nói cách khác, thay vì để cá nhân tự đứng ra làm chứng cho nhau trong các
giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại … thì Nhà nước, bằng việc đào tạo, bổ nhiệm
đã trao cho một số cá nhân (hoặc tổ chức) nhất định một phần quyền năng để những
người này thay mặt Nhà nước, đứng ra làm chứng (hoặc chứng kiến) các giao dịch
dân sự, kinh tế, thương mại… đó. Quan điểm trên đã được học giả Đào Duy Anh
thể hiện khi đưa ra định nghĩa như sau về công chứng “Công chứng có nghĩa là lấy
quyền công ra mà làm chứng”4
Theo Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/02/1991 của Hội đồng bộ trưởng về tổ
chức và hoạt động của công chứng Nhà nước, công chứng nhà nước được xác định
như sau:
Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và
giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây
gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và giấy tờ đã được công
chứng có giá trị chứng cứ (Điều 1).
Đến Nghị định số 31/CP ngày 19/05/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt
động công chứng nhà nước, công chứng nhà nước được xác định:
Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ
theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công
4
Tuấn Đạo Thanh (2012), Pháp luật công chứng – Những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nhà xuất bản Tư Pháp, Hà Nội, tr.7.
15
dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung
là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa…(Điều 1).
Chỉ đến khi Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về
công chứng, chứng thực ra đời, khái niệm công chứng mới được tách bạch với khái
niệm chứng thực. Khái niệm công chứng ở Nghị định này đã được xác định khoa
học hơn, tiệm cận gần hơn với quan niệm chung của thế giới về công chứng. Theo
Nghị định này: “Công chứng là việc Phòng Công chứng chứng nhận tính xác thực
của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân
sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch)
và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này” (khoản 1 Điều 2).
Cùng với việc xác định khái niệm công chứng như trên, Nghị định
75/2000/NĐ-CP đã xác định khái niệm chứng thực là “Chứng thực là việc Ủy ban
nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký
của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo
quy định của Nghị định này” (khoản 2 điều 2). Việc tách biệt công chứng và chứng
thực như vậy vừa đáp ứng được yêu cầu về cải cách hành chính, vừa tạo điều kiện
để chuyển tổ chức công chứng sang chế độ dịch vụ công.
Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày
18/05/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực
chữ ký, đã chính thức khẳng định hoạt động chứng thực là hoạt động độc lập, thuộc
chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước (Phòng Tư pháp cấp huyện,
UBND cấp xã). Tuy nhiên các quy định về chứng thực hợp đồng, giao dịch trong đó
có chứng thực di chúc thì vẫn áp dụng theo quy định tại Nghị định 75/2000/NĐ-CP.
Thực hiện chủ trương tách bạch hoạt động công chứng và hoạt động chứng
thực theo Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020; nhằm tạo điều kiện cho công tác công chứng,
chứng thực ở Việt Nam phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, phục vụ tốt hơn
nhu cầu của cá nhân, tổ chức, ngày 29/11/2006, Quốc hội đã thông qua Luật Công
chứng. Luật công chứng 2006 ra đời đã đánh dấu sự thay đổi lớn trong quan điểm
về hoạt động công chứng ở nước ta. Tại Điều 2 Luật công chứng 2006, Luật công
chứng đầu tiên của nước ta, các nhà làm luật đã đưa ra khái niệm về công chứng,
theo đó: “Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp
pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn
16
bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự
nguyện yêu cầu công chứng”.
Qua 8 năm triển khai thực hiện, Luật công chứng 2006 đã đạt được kết quả
đáng khích lệ, góp phần tích cực vào việc thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt
động công chứng, thực hiện cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Tuy nhiên,
trong quá trình triển khai thực hiện cho thấy một số quy định của Luật và xác văn
bản hướng dẫn thi hành đã bất cập, không còn phù hợp với tình hình thực tiễn.
Ngày 20/06/2014, Quốc hội đã ban hành Luật công chứng số 53/2014/QH13 có
hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015 thay thế cho Luật Công chứng 2006. Trên cơ sở
những bất cập cần phải hoàn thiện của luật cũ, Luật Công chứng 2014 đã có những
quy định mới thể hiện quan điểm đổi mới của Nhà nước ta về hoạt động công
chứng. Khái niệm công chứng lại tiếp tục được thay đổi khi Luật công chứng 2014
được ban hành, khoản 1 Điều 2 quy định:
Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng
chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác
bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp,
không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang
tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản
dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức
tự nguyện yêu cầu công chứng.
Ngày 16/02/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về cấp
bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, chứng thực
hợp đồng, giao dịch thay thế Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, quy định về chứng thực
hợp đồng, giao dịch của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP và một số văn bản pháp luật
khác. Sự ra đời của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP đã phân biệt rõ rệt sự khác biệt
giữa công chứng và chứng thực hợp đồng, giao dịch. Nghị định 23/2015/NĐ-CP
quy định rõ các loại hình chứng thực gồm chứng thực bản sao từ bản chính, chứng
thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch, theo đó:
2. “Chứng thực bản sao từ bản chính” là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
theo quy định tại Nghị định này căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao
là đúng với bản chính.
3. “Chứng thực chữ ký” là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định
tại Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của
người yêu cầu chứng thực.
17
4. “Chứng thực hợp đồng, giao dịch” là việc cơ quan có thẩm quyền theo quy
định tại Nghị định này chứng thực về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng,
giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ
của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. (Điều 2).
Căn cứ vào các nội dung trên, có thể đưa ra khái niệm về công chứng, chứng
thực di chúc cụ thể như sau: “Công chứng di chúc là việc công chứng viên của một
tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của di chúc
bằng văn bản khi người lập di chúc tự nguyện yêu cầu công chứng hoặc theo quy
định của pháp luật phải công chứng”, trong khi “Chứng thực di chúc là việc cơ
quan có thẩm quyền chứng thực về thời gian, địa điểm lập di chúc, năng lực hành vi
dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc”.
1.2.2. Hoạt động công chứng, chứng thực di chúc
Xuất phát từ các khái niệm về công chứng, chứng thực di chúc thì về bản
chất công chứng hay chứng thực di chúc đều là sự chứng nhận, hay xác nhận tính có
thực của di chúc, người lập di chúc có năng lực hành vi dân sự và đã tự nguyện lập
di chúc.Tuy nhiên hai hoạt động này có những điểm khác biệt cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về cơ quan thực hiện: hoạt động công chứng di chúc
được thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng gồm các Phòng công chứng do
nhà nước thành lập và các Văn phòng công chứng do các cá nhân thành lập; trong
khi hoạt động chứng thực di chúc được thực hiện tại UBND xã, phường, thị trấn
(gọi chung là UBND cấp xã);
Thứ hai, về người thực hiện: việc công chứng do Công chứng viên thực hiện.
Công chứng viên là cá nhân đáp ứng được các tiêu chuẩn của pháp luật quy định và
được Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm và cấp phép hành nghề công chứng tại khu
vực nhất định. Một trong những nhiệm vụ chính của công chứng viên khi hành nghề
là bảo đảm tính xác thực, hợp pháp cho các hợp đồng, giao dịch dân sự bằng văn
bản. Trong khi đó, việc chứng thực di chúc do là Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp
xã thực hiện (khoản 9 Điều 2 Nghị định 23/2015/NĐ-CP). Trong khi công chứng
viên phải là người có bằng cử nhân luật, có thời gian công tác pháp luật từ 5 năm
trở lên, tốt nghiệp khoá đào tạo nghề công chứng, đã qua một thời gian tập sự hành
nghề công chứng là 12 tháng ... thì đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã ký
chứng thực lại không có quy định nào cụ thể về tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ
chứng thực.
18
-
Thứ ba, về trách nhiệm của người thực hiện công chứng, chứng
thực.
Người thực hiện chứng thực chịu trách nhiệm về thời gian, địa điểm
lập di chúc; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc điểm chỉ của
người lập di chúc, không chịu trách nhiệm về nội dụng của di chúc được chứng
thực, trừ trường hợp người thực hiện chứng thực biết rõ ràng là di chúc đó trái pháp
luật, người chịu trách nhiệm về nội dung, tính hợp pháp của di chúc lại là người yêu
cầu chứng thực theo tinh thần quy định tại khoản 2 Điều 35 Nghị định 23/2015/NĐCP.
Trong khi đó, công chứng viên phải chịu trách nhiệm về tính xác
thực, hợp pháp của di chúc được công chứng nghĩa là chịu trách nhiệm về mặt nội
dung, về toàn bộ di chúc được công chứng và họ phải chịu trách nhiệm cá nhân cả
đời về việc mà họ đã công chứng. Trong khi người yêu cầu công chứng phải chịu
trách nhiệm cho hành vi cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật, sử dụng giấy tờ văn
bản giả mạo, sửa chữa, tẩy xóa còn việc kiểm soát nội dung văn bản có trái pháp
luật, trái đạo đức xã hội hay không là trách nhiệm của công chứng viên.
Như vậy, rõ ràng hoạt động công chứng mang tính pháp lý cao hơn.
Nhiệm vụ của công chứng viên là phải chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của
di chúc. Xác thực là tính từ chỉ sự đúng với sự thật. Các vấn đề cần xác thực trong
văn bản công chứng là: người yêu cầu công chứng, nội dung công chứng, ý định của
người yêu cầu công chứng. Xác thực về người yêu cầu công chứng là yêu cầu quan
trọng nhất, ảnh hưởng trực tiếp tới xác thực nói chung của hoạt động công chứng.
Khi đã nhận dạng đúng được người lập di chúc, công chứng viên còn phải xác định,
kiểm tra trạng thái tâm lý, khả năng nhận thức của họ. Công chứng viên yêu cầu
người lập di chúc tự đọc dự thảo văn bản công chứng, hay đọc và giải thích cho
người lập di chúc nghe, hiểu về quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan của mình,
những hậu quả pháp lý mà họ có thể phải gặp phải nếu như có những vi phạm pháp
luật. Công chứng viên phải xác định được người lập di chúc đã ở trong trạng thái
tinh thần minh mẫn, không bị bất cứ sự ép buộc nào và ý thức, hiểu được những
việc làm của mình. Bằng nghiệp vụ của mình, công chứng viên phải kiểm tra tính
xác thực về ý định xác lập di chúc, xác định nội dung di chúc đã đúng với ý chí,
nguyện vọng của người lập di chúc hay chưa. Song song với tính xác thực thì công
chứng viên còn phải đảm bảo tính hợp pháp của văn bản công chứng. Văn bản công
chứng luôn phải thỏa mãn đồng thời cả hai tính chất xác thực và hợp pháp. Một
19
giao dịch dân sự được coi là hợp pháp phải đáp ứng trọn vẹn hai yếu tố: hợp pháp
về hình thức và hợp pháp về nội dung. Về hình thức, phải xét tới tính hợp pháp của
giấy tờ, tài liệu mà người yêu cầu công chứng cần cung cấp khi lập di chúc, đó phải
là giấy tờ thật, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, không rách nát, còn
giá trị sử dụng. Bên cạnh đó, hình thức của di chúc phải tuân theo quy định của
pháp luật. Khi đã đảm bảo được tính hợp pháp về mặt hình thức của di chúc cần
công chứng, công chứng viên cần phải xem xét tới tính hợp pháp về nội dung của di
chúc đó. Để đảm bảo nội dung trong di chúc là hợp pháp, công chứng viên phải rà
soát từng nội dung cụ thể trong di chúc, xem xét, đánh giá nội dung di chúc thể hiện
trong đó đã đúng với quy định pháp luật hay chưa, có điều nào vi phạm điều cấm
của pháp luật, trái đạo đức xã hội hay không. Trong trường hợp công chứng viên
xem xét thấy có mục đích và nội dung vi phạm các điều cấm của pháp luật hay trái
đạo đức xã hội thì công chứng viên có quyền từ chối công chứng. Trường hợp di
chúc có những điểm chưa hợp lý, chưa phù hợp với quy đinh của pháp luật thì công
chứng viên có thể tư vấn, giải thích cho người lập di chúc để chỉnh sửa lại nội dung.
Nhiệm vụ của công chứng viên là vẫn giữ được nguyên tắc tôn trọng ý chí của
người lập di chúc nhưng có nhiệm vụ hướng người lập di chúc tới những nội dung
phù hợp với các quy định của pháp luật cũng như đạo đức xã hội. Trong khi đó,
khía cạnh này không được đề cập đối với người có thẩm quyền chứng thực di chúc.
chứng thực.
Thứ tư, về giá trị pháp lý của di chúc có công chứng và di chúc có
Xuất phát từ quy định của pháp luật về giá trị pháp lý của văn bản
công chứng và giá trị của văn bản chứng thực, theo đó, giá trị pháp lý của văn bản
công chứng là “có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp
bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia
hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác” đồng thời văn bản công chứng “có giá trị
chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng
không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu”(Điều 5 Luật
công chứng 2014).
Trong khi đó văn bản chứng thực“có giá trị chứng cứ chứng minh về
thời gian, địa điểm các bên đã ký kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự,
ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao
dịch” (khoản 4 Điều 3 Nghị định 23/2015/NĐ-CP).