BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TRỊNH THỊ THU HẢI
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ
HƯỚNG HOÀN THIỆN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TRỊNH THỊ THU HẢI
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ
HƯỚNG HOÀN THIỆN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ
Mã số: 60380103
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Thị Hải Yến
Hà Nội - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
Tác giả luận văn
Trịnh Thị Thu Hải
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
SHTT
: Sở hữu trí tuệ
SHCN
: Sở hữu công nghiệp
BLDS
: Bộ luật dân sự
BLTTDS
: Bộ luật Tố tụng dân sự
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ .. 6
1.1. Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ ........................................................... 6
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của quyền sở hữu trí tuệ............................. 6
1.1.2. Phân loại quyền sở hữu trí tuệ ......................................................... 9
1.2. Khái quát về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ...... 11
1.2.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ....... 11
1.2.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ ............................................................................................................ 12
1.2.3. . Ý nghĩa của bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ .................................................................................................. 14
1.3. Quy định Pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ ........................................................................................... 16
1.3.1. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong một
số Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên ...................................... 16
1.3.2. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong quy
định của pháp luật Việt Nam .................................................................... 20
Chương 2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ......................................... 22
2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ...................................................................................... 22
2.2. Xác định thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ .......................... 41
2.2.1 Xác định thiệt hại về vật chất .......................................................... 42
2.2.2. Xác định thiệt hại về tinh thần ........................................................ 50
2.2.3. Căn cứ xác định mức bồi thường do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ . 51
2.2.4. Sự tương thích giữa Pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam và pháp luật quốc tế ............................. 58
Chương 3. THỰC TIỄN BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN ...................... 61
3.1. Tình hình thực thi pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ...................................................................................... 61
3.2. Đánh giá tình hình thực thi pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ............................................................................ 74
3.2.1. Mặt tích cực ................................................................................... 74
3.2.2. Mặt hạn chế .................................................................................... 77
3.3. Hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ .................................................................................. 87
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 94
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh gay gắt hiện nay, tài
sản trí tuệ ngày càng trở nên có giá trị và là một công cụ chiến lược để phát
triển đối với mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên, không giống tài sản hữu hình, tài
sản trí tuệ mang bản chất vô hình, không thể nắm giữ và có thể di chuyển tự
do sau khi được công bố công khai mà không bị phát hiện. Do đó, việc chiếm
đoạt, sử dụng trái phép quyền sở hữu trí tuệ của người khác có thể mang lại
lợi nhuận lớn, đồng thời khó bị phát hiện, xử lý, khiến cho tình trạng sản xuất,
buôn bán hàng hóa giả mạo, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể diễn ra
phổ biến không chỉ trong mỗi quốc gia mà còn lan sang quốc gia khác, gây
thiệt hại cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Vấn đề bảo hộ, thực thi quyền sở
hữu trí tuệ không chỉ là vấn đề riêng của mỗi quốc gia mà còn là vấn đề chung
mang tính toàn cầu.
Việt Nam trên con đường phát triển đất nước cũng không nằm ngoài quy
luật của thế giới. Tuy nhiên, biện pháp được áp dụng để bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ ở Việt Nam chủ yếu là biện pháp hành chính. Trong khi đó, trên thế
giới hiện nay, biện pháp dân sự mới được coi là cơ chế bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ phổ biến và hữu hiệu nhất. Ngay ở hệ thống pháp luật của Việt Nam,
chúng ta cũng có thể nhận thấy biện pháp dân sự đã thể hiện được những ưu
thế riêng so với biện pháp hành chính và biện pháp hình sự. Nếu như biện
pháp hành chính và biện pháp hình sự chỉ có ý nghĩa ngăn chặn hành vi xâm
phạm, áp dụng các chế tài hành chính hay hình sự nhằm răn đe, giáo dục các
đối tượng vi phạm thì trong biện pháp dân sự, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ
bên cạnh quyền yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm còn có quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại đối với những thiệt hại thực tế do hành vi xâm phạm gây ra
cả về vật chất lẫn tinh thần.
1
Đây chính là biện pháp bồi thường thiệt hại, một trong những biện pháp
dân sự về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, biện pháp này rất ít được áp
dụng trong thực tế. Lần đầu tiên, những quy định riêng về bồi thường thiệt hại
do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ
2005. Còn trước đó, quy định về bồi thường thiệt hại liên quan đến sở hữu trí
tuệ được áp dụng theo Bộ luật dân sự. Chính vì vậy, việc tìm hiểu những quy
định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam đối với vấn đề bồi thường thiệt hại
do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cũng như việc áp dụng, thực hiện
các quy định này trong thực tiễn đều rất cần thiết. Từ đó có thể đưa ra những
hướng hoàn thiện nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của biện pháp bồi thường
thiệt hại trong thực tế.
Do đó, việc lựa chọn đề tài “Pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ và hướng hoàn thiện” làm đề tài luận văn Thạc
sỹ luật học mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay tại Việt Nam có một số công trình nghiên cứu liên quan đến
vấn đề bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ như:
Năm 2011, đề tài “Bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam”, khóa luận tốt nghiệp của
tác giả Đinh Thị Thúy Vân, trường Đại học Luật Hà Nội. Đề tài tập trung vào
các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề bồi thường thiệt hại
do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Năm 2012, đề tài “Bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, khóa luận tốt nghiệp của tác
giả Ngô Thị Thu Huyền, trường Đại học Luật Hà Nội. Đề tài nghiên cứu các
vấn đề lý luận về quyền sở hữu trí tuệ, xác định thiệt hại do xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ, nguyên tắc bồi thường và thực tiễn xử lý thông qua hoạt động
của tòa án.
2
Năm 2014, đề tài “Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả theo
pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hường, Khoa
Luật Đại học quốc gia Hà Nội. Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp
luật và đánh giá việc áp dụng pháp luật về trách nhiệm dân sự, trong đó có vấn
đề bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm trong lĩnh vực quyền tác giả.
Ngoài ra còn một số bài nghiên cứu liên quan về vấn đề này như: “Một
số vấn đề về chế định bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ,
Trương Hồng Quang – nghiên cứu viên, Viện khoa học pháp lý, Bộ tư pháp”;
“Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về
bồi thường thiệt hại trong vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, do cán bộ
phòng pháp chế và chính sách - Cục sở hữu trí tuệ thực hiện”; “Bồi thường
thiệt hại do giảm sút thu nhập, lợi nhuận khi có hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ - Tạp chí khoa học pháp lý số 2/2015, trang 27-35), trường Đại học
luật thành phố Hồ Chí Minh”; “Bồi thường thiệt hại do tổn thất cơ hội kinh
doanh khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ - Tạp chí khoa học pháp
lý, số 4/2016, trang 18-28”. Các bài viết tập trung nghiên cứu những nội dung
cụ thể, những thiệt hại cụ thể do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, dẫn
đến việc phải bồi thường thiệt hại do các hành vi đó.
Có thể nói, vấn đề bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
có đối tượng và phạm vi nghiên cứu rất rộng, nội dung phức tạp. Do đó, mặc
dù đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề này nhưng đây là vấn
đề vẫn cần tiếp tục được chuyên sâu hơn nữa, đặc biệt là từ thực tiễn thực thi
các quy định sẽ cho thấy những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật, từ đó
tìm ra phương hướng, làm cơ sở để góp phần hoàn thiện các quy định của
pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi của đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu quy định của
pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí
3
tuệ, đồng thời đưa ra dẫn chứng cho việc áp dụng quy định trong thực tế
thông qua vụ việc cụ thể, đã được giải quyết tại Tòa án, từ đó chỉ ra
những mặt tích cực, hạn chế trong việc thực thi quy định pháp luật, đồng
thời đề xuất hướng hoàn thiện các quy định về bồi thường thiệt hại do
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Việc phân tích, đánh giá các quy định pháp luật là công việc cần
thiết, nghiên cứu thực trạng thực thi để từ đó đề xuất một số giải pháp
nâng cao hiệu quả của biện pháp bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài, tác giả sử dụng ba phương pháp nghiên cứu chính, bao
gồm: phân tích, tổng hợp, so sánh. Trong đó phương pháp phân tích và tổng
hợp được sử dụng chủ yếu.
Phương pháp phân tích được sử dụng chủ yếu để phân tích các vấn đề
lý luận quy định của pháp luật, tìm ra mối liên hệ từ quy định của pháp
luật đến thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở đó, phương pháp tổng hợp giúp xác
định, đưa ra những đánh giá, kết luận về những yếu tố, sự kiện liên quan
đến vấn đề nghiên cứu. Phương pháp so sánh được sử dụng chủ yếu để đặt
trong mối liên hệ giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trên
thế giới.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Luận văn làm rõ được quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Để đạt được mục đích trên, luận văn phân tích một số vấn đề lý luận, quy
định pháp luật liên quan làm cơ sở để tác giả nghiên cứu thực trạng thực hiện
quy định pháp luật. Từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi
quyền sở hữu trí tuệ.
4
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cơ cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ và Bồi thường thiệt hại do
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
Chương 2: Pháp luậtViệt Nam về bồi thường thiệt hại do xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ
Chương 3: Thực tiễn bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ và hướng hoàn thiện
5
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1.1.
Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của quyền sở hữu trí tuệ
Khái niệm “quyền sở hữu trí tuệ” liên quan chặt chẽ đến khái niệm “trí
tuệ”, “tài sản trí tuệ”.
Xét về ngữ nghĩa thì“Trí tuệ là một tổ hợp bao gồm khả năng khái quát
hóa thông tin (biến thông tin thành tri thức), năng lực suy luận, tưởng tượng,
sáng tạo v Trên thực tế qua nghiên cứu các
vụ án cho thấy, đa số các vụ án giải quyết tranh chấp tại Tòa án thường bị kéo
dài. Xuất phát từ tính đặc thù của các tranh chấp sở hữu trí tuệ là loại việc
15
/>
85
tương đối phức tạp, đòi hỏi trong quá trình giải quyết các Tòa án thường phải
trưng cầu ý kiến của các cơ quan chức năng có liên quan đến kết luận đối với
hành vi xâm phạm, nên trong nhiều trường hợp Tòa án phải gia hạn thời hạn
chuẩn bị xét xử, thậm chí nhiều vụ án phải xét xử lại sơ thẩm, phúc thẩm
nhiều lần. Nhiều trường hợp Tòa án phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết
vụ án vì lý do chờ kết quả của cơ quan chuyên môn.
Pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là lĩnh vực còn tương đối mới
mẻ ở Việt Nam và do tính phức tạp và đa dạng của các tranh chấp về quyền
sở hữu trí tuệ nên một số Thẩm phán gặp không ít khó khăn trong việc giải
quyết những vụ án này (đặc biệt là các vụ án tranh chấp về quyền tác giả,
nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp…). Bên cạnh đó, việc nhìn nhận, đánh
giá về các hành vi xâm phạm về quyền sở hữu trí tuệ của cơ quan chức năng
nhiều khi không thống nhất quan điểm; cùng một vụ việc nhưng mỗi cơ quan
kết luận khác nhau, gây khó khăn cho Tòa án. Và cũng chính vì sự thiếu
thống nhất về quan điểm giữa các cơ quan chức năng dẫn đến trường hợp sau
khi có phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm, các bên đương sự viện dẫn các ý
kiến đối lập với loại ý kiến được tham khảo để ra phán quyết để có đơn kháng
cáo hoặc đề nghị xem xét thủ tục giám đốc thẩm, gây ra khiếu kiện kéo dài.
Hành vi xâm phạm quyền tác giả hiện đang diễn ra rất phổ biến, đã xảy
ra nhiều vụ khiếu kiện, thế nhưng có nhiều người là chủ sở hữu quyền tác giả
vẫn không biết có thể làm gì để xử lý hành vi này.
Hiện nay, hành vi xâm phạm quyền tác giả phổ biến nhất là tự ý đăng tải
trực tiếp các bộ phim truyện, ca nhạc, hình ảnh, bài viết là tác phẩm của người
khác lên website để cho những người sử dụng mạng truy cập xem trực tiếp;
hoặc lưu trữ lại bằng các dịch vụ, công cụ lưu trữ trên mạng, sau đó chia sẻ lại
cho người sử dụng mạng để họ có thể tải về máy tính cá nhân. Căn cứ Điều 28
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, các hành vi nêu trên đã xâm phạm quyền tác giả.
86
3.3.
Hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ
Hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp tại tòa án, Tòa án cần
đóng vai trò trung tâm trong đảm bảo thực thi và giải quyết tranh chấp
quyền SHTT.
Theo Khoản 2 Điều 30 và Khoản 1 Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự 2015,
tranh chấp xảy ra trong quá trình khai thác và sử dụng đối tượng SHTT vì
mục đích lợi nhuận là tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền
giải quyết sơ thẩm tại tòa án nhân dân cấp tỉnh. Kháng cáo bản án sơ thẩm đối
với tranh chấp quyền SHTT được giải quyết theo trình tự chung dành cho các
kháng cáo các bản án dân sự tại Tòa án nhân dân cấp cao.
Theo quy định tại Điều 202 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, khi khởi kiện vụ án
dân sự, chủ sở hữu đối tượng SHTT có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền
buộc bị đơn chấm dứt hành vi vi phạm; xin lỗi cải chính công khai; tiêu hủy
hàng hóa phương tiện vi phạm và bồi thường thiệt hại vật chất và tinh thần
theo mức độ mà họ có thể chứng minh được. Ngoài ra, khi khởi kiện hoặc
trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết tranh chấp, chủ sở hữu đối tượng
SHTT có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
một số trường hợp.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc liệu áp dụng trình tự như quy định Luật tố
tụng dân sự trong giải quyết tranh chấp quyền SHTT (đặc biệt là khi giải
quyết các tranh chấp liên quan đến đối tượng đặc thù như sáng chế, xác định
hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến đối tượng SHTT được bảo
hộ) là rất hạn chế. Nguyên nhân được cho là trong khi các đại diện chủ thể
quyền lại cho rằng cơ chế kiện dân sự hiện tại là rườm rà, tốn kém và ít hiệu
quả thì ngành tòa án lại chưa nhận thấy sự cấp thiết phải quy định riêng hoặc
hoàn thiện cơ chế hiện tại để giải quyết tranh chấp đối với sáng chế. Theo
87
ngành tòa án, có quá ít vụ việc tranh chấp sở hữu trí tuệ đặc biệt là tranh chấp
sáng chế được nộp cho tòa giải quyết, do vậy, tòa ưu tiên hoàn thiện cơ chế
giải quyết các loại vụ việc khác đang cấp bách hơn.
Thực tế trên dẫn đến hệ quả là chủ thể quyền không chủ động bảo vệ
quyền dân sự bằng biện pháp dân sự, và theo hướng ngược lại cơ chế dân sự
có rất ít tác dụng để giải quyết tranh chấp xảy ra trong quá trình sử dụng đối
tượng SHTT.
Do vậy, các nhà làm luật cần hoàn thiện hơn nữa cơ chế giải quyết tại tòa
án để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Đồng
thời cần tiếp tục tổng kết thực tiễn thi hành những năm qua để bổ sung các
quy định đầy đủ và cụ thể hơn, pháp điển hoá các quy định, các văn bản pháp
luật về sở hữu trí tuệ, đơn giản hoá thủ tục, tạo điều kiện cho các chủ sở hữu
tham gia bảo hộ quyền sở hữu của mình đối với tài sản sở hữu trí tuệ.
Bổ sung quy định về quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của bị đơn
trong trường hợp thắng kiện:
Pháp luật cần có quy định rõ theo hướng “trong trường hợp một bên đã
đưa ra yêu cầu thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền SHTT không đúng
và/hoặc đã lạm dụng các thủ tục thực thi bảo vệ quyền SHTT mà làm thiệt hại
đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải trả cho bên bị áp dụng
các biện pháp đó hoặc bị hạn chế một cách sai trái sự bồi thường tương xứng
với thiệt hại phải gánh chịu, những thiệt hại bao gồm các chi phí liên quan,
chi phí đại diện và phí luật sư ở mức hợp lý”.
Quy định này sẽ bảo đảm sự công bằng, khách quan và bình đẳng giữa
quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ tố tụng, cũng như đáp ứng yêu cầu
của các nguyên tắc quốc tế như Điều 48 Hiệp định TRIPs quy định như
nguyên tắc về sự công bằng, bình đẳng giữa các đương sự trong vụ kiện, đồng
thời, tránh sự lạm dụng và thiếu trách nhiệm từ phía chủ sở hữu quyền, theo
88
đó “Các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh buộc bên đã đưa ra các yêu
cầu thực hiện các biện pháp chế tài và lạm dụng các thủ tục thực thi phải trả
cho bên bị áp dụng các biện pháp đó hoặc bị hạn chế một cách sai trái khoản
bồi thường tương xứng với thiệt hại do sự lạm dụng đó gây ra và các chi phí,
trong đó có thể bao gồm chi phí đại diện thích hợp.”
Bổ sung quy định theo hướng xác định thiệt hại căn cứ vào phí
chuyển giao li xăng:
Nghiên cứu pháp luật của một số nước về nguyên tắc và căn cứ xác định
thiệt hại trong lĩnh vực SHTT cũng cho thấy, thông thường thiệt hại sẽ được
dựa trên: hoặc lợi nhuận bị mất của chủ sở hữu quyền hoặc lợi nhuận bất hợp
pháp thu được của người vi phạm hoặc phí li xăng hợp lý. Bên cạnh đó, người
thắng kiện còn được bồi thường khoản chi phí thực tế như: chi phí tố tụng, chi
phí đăng cải chính, phí luật sư (nếu có),…Điều này có nghĩa là phí chuyển
giao li xăng thông thường được áp dụng để xác định thiệt hại chỉ để thay thế
cho những lợi nhuận, thu nhập bị mất của nguyên đơn trong trường hợp
những thiệt hại này rất khó để xác định, cũng như lợi nhuận thu được của bị
đơn, chứ nó không thể thay thế toàn bộ các thiệt hại thực tế của nguyên đơn,
đồng thời, cũng không thể loại trừ trách nhiệm bồi thường của người xâm
phạm đối với các thiệt hại thực tế phát sinh đối với người bị xâm phạm, như
chi phí tố tụng, chi phí luật sư, chi phí để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại và
tổn thất về tài sản. Vì vậy, sẽ hợp lý hơn nếu các căn cứ để xác định thiệt hại
theo điểm b khoản 1 Điều 205 Luật SHTT được quy định theo hướng: “Tổng
thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản phí chuyển giao li xăng hợp lý
tương ứng với hành vi xâm phạm mà bị đơn đã thực hiện.”
Cần thành lập Tòa chuyên trách:
Luật Sở hữu trí tuệ quy định nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm
sở hữu trí tuệ và căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm
89
quyền sở hữu trí tuệ. Nhưng do tính chất đặc thù của loại tài sản này nên
nhiều trường hợp nguyên đơn không chứng minh được thiệt hại hoặc xác định
không đầy đủ về những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế. Các căn cứ để xác
định thiệt hại vật chất như mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, cơ hội kinh
doanh, danh dự, nhân phẩm và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác
giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học…theo quy định của Luật Sở
hữu trí tuệ trên thực tế là rất khó để xác định một cách chính xác đầy đủ.
Việc xác định chi phí hợp lý để thuê luật sư cũng khó khăn, vì chỉ có
Luật Sở hữu trí tuệ mới có quy định bên có hành vi vi phạm phải thanh toán
cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ khoản chi phí thuê luật sư trong các vụ án
tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, còn trong các vụ án khác không phải chịu
và như thế nào được coi là chi phí hợp lý rất khó xác định. Do vậy, khi giải
quyết vấn đề này, Tòa án đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định thiệt
hại để có được phán quyết chính xác, đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi hợp
pháp cho các bên đương sự.
có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc các vụ án về sở hữu trí tuệ ít được
giải quyết tại Tòa án, trong đó có nguyên nhân thời gian xử lý các vụ việc quá
lâu; thủ tục giấy tờ khởi kiện phức tạp, đặc biệt trong trường hợp bên khởi
kiện là doanh nghiệp nước ngoài; các biện pháp ngăn chặn ngay lập tức hành
vi xâm phạm theo biện pháp dân sự rất khó áp dụng và ít hiệu quả. Đặc biệt,
năng lực chuyên môn về sở hữu trí tuệ của Thẩm phán còn chưa đáp ứng
được yêu cầu đặt ra.
Nguyên nhân của tình trạng này là do thiếu hụt Tòa chuyên trách về sở
hữu trí tuệ cũng như không có Thẩm phán chuyên trách về lĩnh vực này. Việc
đào tạo, tập huấn chuyên môn về sở hữu trí tuệ chưa đầy đủ và có hiệu quả
thấp; vẫn còn có tình trạng người được tập huấn thì không phải là người xét
xử trực tiếp, hoặc ngược lại…
90
Vì vậy, cần phải thành lập Tòa chuyên trách về sở hữu trí tuệ, tập trung
các Thẩm phán đào tạo về chuyên môn này để xét xử những vụ án đó. Trong
trường hợp thành lập Tòa chuyên trách là chưa khả thi ở thời điểm hiện tại, thì
trong trung hạn thì cũng nên có Thẩm phán chuyên trách tại các Tòa án. Ông
Lâm cũng khẳng định, Cục Sở hữu trí tuệ sẵn sàng phối hợp với Tòa án trong
việc tổ chức các lớp chuyên biệt và chuyên sâu về sở hữu trí tuệ cho các
Thẩm phán ở tỉnh/thành phố, kể cả đào tạo ở nước ngoài, có như vậy việc xử
các vụ việc về sở hữu trí tuệ tại Tòa án mới hiệu quả.
Tăng cường sự phối hợp giữa các chủ thể, cơ quan, ban ngành để
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Để xử lý hiệu quả các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (SHTT),
bên cạnh việc phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có thẩm quyền thì việc
doanh nghiệp cung cấp những thông tin, tài liệu liên quan đến các hành vi
xâm phạm vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ, nhưng cũng là quyền lợi của doanh
nghiệp trong việc phối hợp nhằm tăng cường hiệu quả thực thi quyền SHTT.
Cũng như tài sản vật chất, một trong những quyền quan trọng của chủ
sở hữu tài sản trí tuệ đó là quyền ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng
SHTT. Để thực hiện quyền này, doanh nghiệp có thể thông báo cho người
có hành vi xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại
hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hay tòa án xử lý hành vi xâm phạm
(theo Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2009). Thời gian vừa qua, nhiều vụ
xâm phạm quyền SHTT bị xử lý kéo dài, do thiếu các căn cứ pháp lý và
chứng cứ không đầy đủ, rõ ràng. Vậy để việc bảo vệ quyền SHTT có hiệu
quả, khi gửi đơn yêu cầu cơ quan chức năng xử lý hay tòa án giải quyết,
doanh nghiệp cần nắm vững và tuân thủ các quy định của pháp luật về
quyền và nghĩa vụ doanh nghiệp trong việc đề nghị xử lý hay khởi kiện
xâm phạm quyền SHTT.
91
Trước hết, khi gửi đơn, doanh nghiệp phải gửi kèm theo các tài liệu
chứng minh mình là chủ thể quyền SHTT. Tức là, doanh nghiệp có quyền yêu
cầu xử lý hoặc khởi kiện, khi ấy cơ quan chức năng hay tòa án mới thụ lý hồ
sơ. Cụ thể là, nếu là sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa
lý thì các tài liệu chứng minh chủ thể quyền bao gồm bản gốc văn bằng bảo
hộ đang có hiệu lực (nếu là bản sao thì phải có chứng thực) hoặc bản trích lục
sổ đăng ký quốc gia các đối tượng trên (được lưu giữ tại Cục SHTT).
Nếu nhãn hiệu đăng ký quốc tế thì tài liệu chứng minh chủ thể quyền là
bản gốc Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam hoặc các bản sao
công báo của WIPO, Giấy chứng nhận đăng ký quốc tế, Công báo SHCN của
Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp có được các đối tượng trên thông qua
chuyển nhượng quyền sở hữu, thì phải có hợp đồng chuyển nhượng được
đăng ký tại Cục SHTT. Vì các đối tượng trên đây quyền chỉ phát sinh khi
được cấp văn bằng bảo hộ. Do vậy, nếu không có các tài liệu trên đây để
chứng minh doanh nghiệp là chủ thể quyền thì việc nộp đơn yêu cầu xử lý
xâm phạm trở không có giá trị.
Riêng với đối tượng là tên thương mại và bí mật kinh doanh, căn cứ xác
lập quyền không phải là các văn bằng bảo hộ, nên tài liệu chứng minh chủ thể
quyền là do doanh nghiệp tự lập nên. Tức là, doanh nghiệp phải lập hồ sơ mô
tả nội dung của tên thương mại, hình thức sử dụng và quá trình sử dụng tên
thương mại đó. Trong phần mô tả nội dung của tên thương mại, phải chỉ ra
được yếu tố phân biệt giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp khác trong cùng
lĩnh vực kinh doanh, bên cạnh các yếu tố mô tả loại hình pháp lý hay lĩnh vực
kinh doanh. Ví dụ như, trong cùng lĩnh vực kinh doanh bia, thì yếu tố phân
biệt là Hà Nội và Sài Gòn. Đồng thời, doanh nghiệp cũng phải làm rõ quá
trình đưa tên thương mại vào thực tế kinh doanh thông qua các hình thức như
gắn tên thương mại lên bao bì sản phẩm, lên biển hiệu, phương tiện kinh
92
doanh, giấy tờ giao dịch… Tương tự như vậy, đối với bí mật kinh doanh,
doanh nghiệp phải chứng minh các thông tin liên quan đến bí quyết kỹ thuật
(các know-how) hay bí mật về thương mại (phương án sản xuất, kinh doanh,
danh sách khách hàng,…) là do doanh nghiệp tạo dựng lên bằng công sức và
chi phí của mình đang mang lại lợi ích kinh tế không nhỏ và hiện đang được
doanh nghiệp bảo mật bằng những biện pháp cần thiết.
Tiếp theo, bên cạnh các tài liệu chứng minh là chủ thể quyền, doanh
nghiệp phải có các chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm quyền gửi kèm
theo đơn đề nghị xử lý xâm phạm quyền SHTT. Các cơ quan có thẩm quyền
hay tòa án không có trách nhiệm phải tìm các chứng cứ, mà đó là nghĩa vụ
của doanh nghiệp. Các chứng cứ chứng minh xâm phạm quyền SHTT thường
là các vật mẫu, hiện vật có liên quan, ảnh chụp, bản ghi hình sản phẩm bị nghi
ngờ xâm phạm; Bản giải trình hay so sánh giữa đối tượng bị nghi ngờ và đối
tượng được bảo hộ; Biên bản, lời khai hay tài liệu khác nhằm chứng minh cho
hành vi xâm phạm,… Các tài liệu, hiện vật trên đây phải lập thành danh mục
và bảo đảm tính pháp lý, trung thực của từng tài liệu, chứng cứ, để tránh
trường hợp lợi dụng quyền yêu cầu xử lý xâm phạm nhằm mục đích không
lành mạnh, gây thiệt hại cho tổ chức, doanh nghiệp khác.
93
PHẦN KẾT LUẬN
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, tình trạng
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn diễn ra ngày càng phổ biến và có tính chất
ngày càng tinh vi. Thực trạng này không chỉ diễn ra ở Việt Nam mà nó đã trở
thành vấn nạn của cả thế giới. Ở Việt Nam, thông qua quy định pháp luật,
chúng ta đã có nhiều nỗ lực trong việc giải quyết thực trạng này. Tuy nhiện,
hiện nay Việt Nam vẫn bị coi là quốc gia có hệ thống bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ chưa tốt, hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ còn nhiều bất cập, chưa
hiệu quả.
Vì vậy, việc nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề bồi
thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có ý nghĩa quan trọng
trong việc bổ sung xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật, nâng cao
hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Ở mức độ khái quát, chúng ta cần:
Hoàn thiện hệ thống các quy định về bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ và các chế định liên quan, như quy định rõ ràng, cụ thể và chi
tiết hơn nữa về các hành vi xâm phạm quyền, xác định thiệt hại và mức bồi
thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; Hoàn thiện hệ
thống, cơ chế giải quyết một cách nhanh chóng và hiệu quả các yêu cầu bồi
thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, trong đó
đặc biệt chú ý đến việc nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn và kinh
nghiệm của các thẩm phán trong lĩnh vực này.
94
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản pháp luật
1. Bộ luật dân sự 2005.
2. Bộ luật dân sự 2015.
3. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
4. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ 1994 (Hiệp định TRIPS).
5. Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11
6. Luật Sở hữu trí tuệ số 36/2009/QH12
7. Nghị định 105/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.
8. Thông
tư
liên
tịch
số
02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-
BVHTT&DL-BKH&CN-BTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp
luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án
nhân dân.
Sách chuyên khảo và các sản phẩm xuất bản khác
1. Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, Trường Đại học Luật Hà Nôi, Nxb
Giáo dục Việt Nam, 2012
2. PGS.TS.Trần Văn Nam (chủ biên), “Quyền tác giả ở Việt Nam, pháp
luật và thực thi”, Nxb.Tư Pháp, 2014.
3. TS.Đinh Thị Mai Phương (Viện Khoa học pháp lý – Bộ tư pháp), “Về
bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp theo pháp luật Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, 2009.
4. Ths. Đỗ Thị Minh Thủy, Thanh tra Bộ KH&CN, “Thực thi và giải
quyết tranh chấp quyền SHTT tại Việt Nam - mười năm nhìn lại”.
5. Đinh Thị Thúy Vân (2011), Khóa luận tốt nghiệp, “Bồi thường thiệt
hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật sở hữu trí tuệ
Việt Nam”.
6. Ngô Thị Thu Huyền (2012), Khóa luận tốt nghiệp, “Bồi thường thiệt hại
do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.
7. Nguyễn Thị Hường (2014), Luận văn Thạc sĩ luật học, “Trách nhiệm
dân sự do xâm phạm quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam”.
8. Dự thảo Báo cáo Tổng kết 10 năm thi hành Luật sở hữu trí tuệ
9. Hội thảo “Kỹ thuật xác định giá trị tài sản trí tuệ” – Hà Nội – Thành
phố Hồ Chí Minh (04/12/2013)
Nguồn thông tin điện tử
1. />2. />3. />4. />5. />6. />7. />8. />9. />
10. />