BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÙI HỒNG NGỌC
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ÁN LỆ:
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ ĐỀ XUẤT CHO VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số: 6038108
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Bá Bình
Hà Nội- 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn
Bùi Hồng Ngọc
LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành luật quốc tế với đề tài “Một số vấn
đề cơ bản về Án lệ: Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam” là kết quả
của quá trình cố gắng không ngừng của bản thân và được sự giúp đỡ, động viên
khích lệ của các thầy, bạn bè đồng nghiệp và người thân. Qua trang viết này tác giả
xin gửi lời cảm ơn tới những người đã giúp đỡ tôi trong thời gian học tập - nghiên
cứu khoa học vừa qua.
Tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với thầy giáo TS Nguyễn
Bá Bình đã trực tiếp tận tình hướng dẫn cũng như cung cấp tài liệu thông tin khoa
học cần thiết cho luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Sau Đại
học đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt công việc nghiên cứu khoa học của mình.
Tác giả
Bùi Hồng Ngọc
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật dân sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
TAND
:Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
HĐTP
: Hội đồng thẩm phán
TANDCC
: Tòa án nhân dân cấp cao
TAQS
: Tòa án quân sự
NXB
: Nhà xuất bản
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG1: KHÁI QUÁT VỀ ÁN LỆ ......................................................... . 8
1.1.
ĐỊNH NGHĨA VỀ ÁN LỆ................................................................... 8
1.2.
LƢỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ÁN LỆ ................... . 11
1.2.1. Bối cảnh hình thành án lệ................................................................... 12
1.2.2. Lý luận về án lệ.................................................................................... 15
1.2.3. Sự phát triển của án lệ trên thế giới.................................................. 21
1.3.
VAI TRÒ CỦA ÁN LỆ....................................................................... 26
1.3.1. Vai trò của án lệ trong Hệ thống thông luật..................................... 26
1.3.2. Vai trò của án lệ trong Hệ thống dân luật ........................................ 28
1.3.3. Giá trị cơ bản của Án lệ...................................................................... 32
CHƢƠNG2: ÁN LỆ Ở CÁC NƢỚC THUỘC HỆ THỐNG LUẬT VÀ HỆ
THỐNG DÂN LUẬT .................................................................................... 37
2.1.
HỌC THUYẾT ÁN LỆ ...................................................................... 37
2.2. NGUYÊN TẮC PHÁP LÝ VÀ BÌNH LUẬN CỦA THẨM PHÁN.41
2.2.1. Nguyên tắc pháp lý…………………………………………………..41
2.2.2. Bình luận của thẩm phán……………………………………………44
2.3.
CẤU TRÚC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH Ở CÁC NƢỚC THUỘC HỆ
THỐNG THÔNG LUẬT.............................................................................. 46
2.4.
ÁP DỤNG ÁN LỆ ............................................................................... 50
2.4.1. Án lệ bắt buộc và án lệ tham khảo .................................................... 50
2.4.2. Khu biệt và bác bỏ án lệ ..................................................................... 54
2.5.
CÔNG BỐ ÁN LỆ............................................................................... 60
2.5.1. Công bố Án lệ ở các nƣớc thuộc hệ thống thông luật...................... 60
2.5.2. Công bố Án lệ ở các nƣớc thuộc hệ thống dân luật ......................... 63
CHƢƠNG 3: ÁN LỆ Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ
XUẤT.............................................................................................................. 68
3.1.
LƢỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ÁN LỆ TẠI VIỆT
NAM ............................................................................................................. 68
3.1.1. Thời kỳ phong kiến ............................................................................. 68
3.1.2. Thời kỳ thực dân ................................................................................. 69
3.1.3. Thời kỳ xã hội chủ nghĩa .................................................................... 70
3.2.
KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG TÒA ÁN VIỆT NAM HIỆN NAY72
3.2.1. Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC)................................................. 72
3.2.2. Tòa án nhân dân cấp cao (TANDCC)............................................... 73
3.2.3. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng (TAND
tỉnh) ............................................................................................................... 73
3.2.4. Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (TAND
huyện) ............................................................................................................. 74
3.3.
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ ÁN LỆ ...................... 75
3.3.1. Khái niệm án lệ.................................................................................... 75
3.3.2. Nguyên tắc áp dụng án lệ trong xét xử ............................................. 79
3.3.3. Lựa chọn án lệ ..................................................................................... 80
3.3.4. Áp dụng án lệ....................................................................................... 82
3.3.5. Công bố và trích dẫn án lệ ................................................................. 85
3.4.
MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG ÁN LỆ Ở VIỆT NAM ...................................................... 89
3.4.1. Một số đánh giá về việc áp dụng án lệ ở Việt Nam.......................... 89
3.4.2. Một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng án lệ ở Việt
Nam ............................................................................................................... 94
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
1
MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang thực hiện và thúc đẩy tiến trình cải cách nền tư pháp
trong nước. Theo nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp
ngày 02/06/2005 của Bộ Chính Trị (sau đây gọi là Nghị quyết số 49 của Bộ
Chính Trị), đã xác định vai trò quan trọng của ngành Tòa án với nhiều chức
năng, nhiệm vụ cụ thể hơn, mới hơn. Điều này tạo cho ngành Tòa án Việt
Nam có thêm nhiều cơ hội, cũng như nhiều thách thức. Nghị quyết số 49NQ/TW đã nêu rõ: “Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh
nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và
xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Trước đó, theo Nghị quyết số 08 NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính Trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới” đã đặt ra một số nhiệm vụ trong công cuộc đổi
mới, cải cách tư pháp, trong đó có đề cập đến mục tiêu: “Đẩy mạnh xây dựng
pháp luật, giải thích, hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
và nghiên cứu khoa học về công tác tư pháp”. Mục tiêu trên đặt ra đã mở
rộng thêm vai trò của ngành tư pháp nói chung và ngành tòa án nói riêng
trong việc xây dựng và giải thích pháp luật. Từ đó, tạo ra tiền đề cho việc phát
triển vai trò của tòa án nói chung và định hướng phát triển án lệ nói riêng.
Thực hiện Nghị quyết số 49 của Bộ Chính Trị trong công tác thực hiện
nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tối cao trong công tác phát triển án lệ, Tòa án
nhân dân tối cao đã phê duyệt đề án phát triển án lệ tại quyết định số 74/QĐTANDTC ngày 31/10/2012, trong đó đặt ra nhiệm vụ cho các nhà làm luật,
các nhà khoa học pháp lý, thẩm phán, luật sư trước một nhiệm vụ mới: tiếp
tục nghiên cứu về án lệ trong các hệ thống pháp luật trên thế giới và có những
đóng góp cho việc xây dựng và áp dụng án lệ tại Việt Nam.
2
Trước nhiệm vụ về án lệ đặt ra cho công tác cải cách tư pháp nói chung
và ngành tòa án nói riêng, việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế có ý nghĩa quan
trọng trong việc xây dựng và phát triển án lệ tại Việt Nam. Bởi lẽ, án lệ vẫn là
một mô hình chưa thực sự phổ biến tại hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
như Việt Nam. Việc tìm hiểu và vận dụng kinh nghiệm quốc tế, tạo ra tiền đề
cơ sở lý luận về án lệ, cũng như cơ sở thực tiễn áp dụng án lệ tại Việt Nam.
Trong xu thế hội nhập, việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế là rất cần thiết,
không chỉ mở rộng, phát triển pháp luật quốc gia, chọn hướng đi phù hợp
trong công cuộc xây dựng pháp luật, cải cách tư pháp quốc gia mà còn thúc
đẩy hệ thống pháp luật Việt Nam thích ứng với “sân chơi quốc tế” hơn. Vì
vậy, học viên đã lựa chọn đề tài: “Một số vấn đề cơ bản về Án lệ: Kinh
nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu luận văn
thạc sĩ.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Án lệ là đề tài được khá nhiều các học giả trong nước lựa chọn nghiên
cứu ở nhiều cấp độ khác nhau. Án lệ là vấn đề xuất hiện từ rất lâu trên thế
giới, đặc biệt tại các nước thuộc Hệ thống thông luật. Có rất nhiều công trình
nghiên cứu của các học giả tại các nước thuộc hệ thống thông luật về án lệ,
như:
- Cuốn Commentaries On The Law of England (1753) của tác giả
William Blackstone;
- Tác phẩm Precedent in English law (1961)của Rupert Cross;
- “Thẩm phán và Bộ luật dân sự Pháp” trong tham luận hội thảo 200
năm Bộ luật dân sự Pháp”(2004)củaJacques Nunez;
- Tác phẩm “Pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp” (2007), NXB
Tư Pháp của Lombard, Marine và Gilles Dumont...
3
Những nghiên cứu của các học giả nước ngoài về cơ bản nêu được khá
đầy đủ những vấn đề cơ bản của án lệ trên thế giới, đặc biệt là tại các nước
thuộc hệ thống thông luật.
Tại Việt Nam, quan niệm về án lệ đã được đề cập từ rất lâu,trong công
trình nghiên cứu về pháp luật của các nhà nghiên cứu, các học giả và trong
các cơ sở đào tạo luật học. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu của các
học giả tại Việt Nam, án lệ chỉ được đề cập dưới góc độ định nghĩa, chứ chưa
đi sâu phân tích các vấn đề, khía cạnh của án lệ. Có thể điểm qua một số quan
điểm về án lệ tại Việt Nam, như:
- Trong tác phẩm Pháp luật di n giảng(1975), NXB Luật Khoa Đại học
đường Sài Gòn, Giáo sư Vũ Văn Mẫu cho rằng án lệ là một phương tiện giải
thích luật và cho rằng án lệ có hai chức năng, đó là giải thích luật và dự bị các
cuộc cải cách về pháp luật. Quan điểm về án lệ của Vũ Văn Mẫu xuất hiện
trong thời kỳ pháp luật Việt Nam chịu khá nhiều ảnh hưởng của hệ thống
pháp luật Pháp. Việc đề cập đến án lệ ở đây chỉ dừng lại ở khía cạnh khái
niệm và vị trí của nó trong hệ thống pháp luật;
- Trong Từ điển luật học của Viện Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp,
thì giải thích về án lệ là: “Bản án đã được tuyên hoặc một sự giải thích, áp
dụng pháp luật được coi như một tiền lệ làm cơ sở để các thẩm phán sau đó
có thể áp dụng trong các trường hợp tương tự”;1
- Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của trường Đại học
Luật Hà Nội cho rằng: Tiền lệ pháp (án lệ) là những bản án, quyết định của
chủ thể có thẩm quyền khi giải quyết các vụ việc cụ thể, được nhà nước thừa
nhận có chứa đựng khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc khác tương tự2.
1
Bộ Tư pháp, Viện khoa học Pháp lý, Từ điển luật học, Nxb, Từ điển Bách Khoa- Nxb, Tư pháp , tr. 13.
Trường đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Tư pháp, tr.
286.
2
4
- Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Khoa luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội có đề cập: “Tiền lệ pháp (pháp luật tiền lệ) là các quyết
định của cơ quan hành chính hoặc cơ quan tòa án được nhà nước thừa nhận
như là khuôn mẫu có giá trị pháp lý để giải quyết những trường hợp tương tự.
Có hai loại tiền lệ cơ bản: tiền lệ hành chính và tiền lệ tư pháp, thường gọi
ngắn gọn là án lệ”3.
Trong hai cuốn giáo trình nêu trên, án lệ chỉ đề cập đến dưới góc độ là
một nguồn luật thứ yếu, bổ sung cho nguồn pháp luật thành văn tại Việt Nam.
Việc đề cập đến án lệ dưới góc độ là một nguồn luật chỉ nêu ra khái niệm và
đặc điểm của án lệ, chứ chưa đi vào việc phân tích sâu, cụ thể về cấu trúc hay
quy trình công bố án lệ...
- Tác phẩm “Hoàn thiện quy trình xây dựng án lệ ở Việt Nam hiện nay”
(2017) của Phí Thị Thanh Tuyền Trích tài liệu Hội thảo quốc tế về án lệ: Án
lệ - Lý luận, thực tiễn ở Việt Nam và một số nước. Mặc dù tác phẩm đã có
định hướng phân tích cụ thể về hoạt động xây dựng án lệ tại Việt Nam. Tuy
nhiên, tác phẩm chỉ đề cập khía cạnh lý luận pháp lý về vấn đề xây dựng án lệ
tại Việt Nam, chưa đi sâu phân tích tình hình thực tiễn việc vận dụng án lệ tại
Việt Nam như thế nào, cũng như đề xuất phương án cụ thể cho việc xây dựng
hệ thống pháp luật nền tảng cũng như định hướng triển khai áp dụng án lệ tại
Việt Nam.
Đề tài án lệ là một đề tài được khá nhiều các nhà nghiên cứu, các học giả
lựa chọn làm đề tài nghiên cứu của mình bên cạnh các nguồn luật khác của
pháp luật. Việc nghiên cứu về án lệ không chỉ đem lại cách nhìn về pháp luật
bao quát hơn, mà nó còn mở ra hướng phát triển mới cho công cuộc cải cách
tư pháp của Việt Nam. Tuy nhiên, do yêu cầu và phạm vi nghiên cứu, các
3
PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế (chủ biên, 2005), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 308.
5
công trình chỉ đề cập, nghiên cứu đến một số khía cạnh nhất định của án lệ
trên thế giới và đưa ra đề xuất việc vận dụng và phát triển án lệ tại Việt Nam.
Các khía cạnh nghiên cứu của các học giả chủ yếu là các vấn đề lý luận, định
hướng phát triển án lệ, chứ chưa đi vào các quy định cụ thể về án lệ để thấy
được kinh nghiệm quốc tế và từ đó, vận dụng đề xuất cho việc phát triển hệ
thống quy định về án lệ nói riêng và công cuộc cải cách tư pháp nói chung tại
Việt Nam.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài:“Một số vấn đề cơ bản về Án lệ: Kinh
nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết,
vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn
đề cơ bản về án lệ tronghệ thống pháp luật các quốc gia trên thế giới và theo
pháp luật Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ
bản về án lệ trong hai hệ thống phápluật cơ bản trên thế giới, đó là Hệ thống
dân luật (Civil law) và Hệ thống thông luật (Common law), cũng như phân
tích, đánh giá việc áp dụng án lệ ở Việt Nam. Từ các phân tích đó, luận văn
nghiên cứu để đưa ra những đề xuất phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
án lệ ở Việt Nam.
4. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là:
- Tìm hiểu kinh nghiệm của các nước trên thế giới, cụ thể là các nước
theo hai Hệ thống dân luật và Hệ thống thông luật trong việc nhận thức và vận
dụng các vấn đề cơ bản của án lệ.
6
- Trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế, đánh giá thực trạng và đưa ra đề xuất
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng án lệ ở Việt Nam.
Từ mục đích trên, các câu hỏi nghiên cứu của luận văn bao gồm các câu
hỏi chính sau đây:
- Án lệ được hình thành và phát triển trên thế giới như thế nào?
- Án lệ được quan niệm thế nào trong Hệ thông thông luật và Hệ thống
dân luật?
- Án lệ được quan niệm và áp dụng thế nào tại Việt Nam?
- Các quy định về án lệ ở Việt Nam nên được hoàn thiện ra sao nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng án lệ?
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và nhà nước về xây dựng nhà
nước pháp quyền, về chính sách xây dựng pháp luật, về vấn đề cải cách tư
pháp thể hiện trong các nghị quyết của Đảng.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể và đặc thù của khoa học pháp luật quốc tế,
như: phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp
quy nạp; phương pháp diễn dịch; phương pháp liệt kê... để tổng hợp các tri
thức khoa học và luận chứng các vấn đề nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận và thực tiễn. Về khía cạnh khoa học, Luận văn góp phần làm rõ các
vấn đề cơ bản của án lệ trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Về khía cạnh thực
tiễn, Luận văn góp phần hoàn thiện các quy định của Việt Nam về án lệ và
7
hiệu quả áp dụng án lệ trong thực tế ở Việt Nam trong công cuộc cải cách tư
pháp và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh mục các từ viết tắt và danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về án lệ;
Chương 2: Án lệ ở các nước thuộc hệ thống thông luật và hệ thống dân
luật;
Chương 3: Án lệ ở Việt Nam - Thực trạng và một số đề xuất.
8
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ ÁN LỆ
1.1.
ĐỊNH NGHĨA ÁN LỆ
Hệ thống thông luật coi án lệ là nguồn luật chính thức, nguồn luật quan
trọng, chủ yếu. Theo như Rupert Cross đã khẳng định học thuyết về án lệ tồn
tại trong hệ thống thông luật là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của các cơ
quan Tòa án, từ đó các vụ việc giống nhau cần được xét xử như nhau4.
Tại các nước thuộc hệ thống thông luật, điển hình là pháp luật Anh –
Mỹ, khái niệm án lệ được gắn với khái niệm về thông luật. Theo luật gia
Davies, thì “thông luật của nước Anh chỉ là những tập quán chung của Vương
quốc Anh trong đó luật pháp chứa đựng những quy tắc xử sự chung”5. Cũng
tại thời điểm đó, vào thế kỷ XVII, Luật gia Coke cho rằng, không giống như
luật thành văn, thông luật ở nước Anh là kết quả từ quá trình lập luận của
thẩm phán trên cơ sở các kinh nghiệm tích lũy từ hoạt động xét xử. Đến thế
kỷ XVIII, một lần nữa, nhà luật học người Anh - William Blackstone khẳng
định, “những quyết định của các Tòa án tư pháp là chứng cứ của những gì là
thông luật”6.
Hay như tại Mỹ, mặc dù pháp luật đa số dựa trên cơ sở các quy phạm
pháp luật thành văn trong các Bộ luật và luật; Tuy nhiên, điều này không thể
phủ nhận được đặc trưng của hệ thống thông luật trong pháp luật Mỹ. Lý giải
điều này, có thể đề cập đến sự ảnh hưởng của pháp luật Anh trong thời kỳ
thuộc địa của hệ thống pháp luật Mỹ. Như Rene David đã nhận xét: “Khi
không có án lệ về một vấn đề pháp luật cụ thể, các luật gia Mỹ sẽ nói không
có pháp luật về vấn đề này”7. Vì những lý do về xã hội, lịch sử và sự khác biệt
về địa lý, khiến cho thông luật ở Mỹ không giống với thông luật tại Anh.
4
Rupert Cross (1961), Precedent in English law, Oxford At The Clarendon Press, tr.4.
Sir John Davies (1957), Irish Report (1612) Introduction, quoted by J.A.G Pacock in The Ancient
Consititution And The Feudal Law, Cambridge, tr. 3-32.
6
William Blackstone (1753), Commentaries On The Law of England, Vol I, 13th ed, tr. 88-89.
7
Nguyễn Văn Nam, tlđd chú thích 7, tr. 138.
5
9
Trong hệ thống pháp luật Mỹ, án lệ có giá trị tương đương với luật thành văn
và được chia làm hai loại. Đó là Án lệ trên cơ sở thông luật và Án lệ xuất phát
từ hoạt động giải thích luật thành văn. Theo đó, án lệ tồn tại trong hệ thống
pháp luật Mỹ, không chỉ là một nguồn luật độc lập, mà còn có vai trò là
nguồn bổ trợ, giải thích pháp luật thành văn, giải thích những quy định mà
luật thành văn chưa cụ thể hóa, hay chưa có văn bản hướng dẫn thi hành.
Những án lệ hình thành trên cơ sở giải thích Hiến pháp được coi là những án
lệ quan trọng, có ảnh hưởng nhiều lĩnh vực pháp luật. Bởi lẽ, tại Mỹ, Hiến
pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất. Ngoài ra, án lệ tại mỗi bang của
Mỹ có những nét đặc trưng khác nhau.
Ở Úc, một quốc gia tiêu biểu thuộc hệ thống thông luật, tại đây án lệ
được coi là dấu hiệu tinh tú của thông luật, nền tảng của một hệ thống tư pháp
thông luật. Án lệ ở Úc được coi là nguồn chủ yếu và quan trọng, được dẫn
chiếu khi Tòa án xét xử. Các bên tranh chấp, sẽ thông qua luật sư của mình sử
dụng án lệ để làm căn cứ lập luận biện hộ cho mình. Cũng là một hệ thống
pháp luật chịu sức ảnh hưởng tương đối của pháp luật Anh quốc, tuy nhiên,
pháp luật Úc cũng có những điểm khác so với pháp luật Anh. Phát triển song
song với nguồn luật án lệ, tại Úc cũng đề cập và phát triển nguồn pháp luật
thành văn, điển hình là Hiến pháp liên bang. Bên cạnh đó, trên lãnh thổ Úc
cũng tồn tại và phát triển luật và tập quán của người bản địa.
Ở các nước thuộc hệ thống thông luật, án lệ còn được coi là tiền lệ pháp,
xuất phát từ Tòa án và hình thành từ quá trình xét xử, là một trong những
nguồn luật chính thức và quan trọng trong hệ thống pháp luật quốc gia và
được áp dụng rộng rãi. Án lệ thường được hiểu là những bản án đã trở thành
10
luật, và được biết đến với tên gọi là luật án lệ hay luật do Thẩm phán làm ra
(judge-made law), bên cạnh luật của Nghị viện ban hành8.
Tuy vậy, cũng có quan điểm cho rằng tiền lệ pháp và án lệ là hai khái
niệm độc lập. “Tiền lệ pháp được hiểu là việc làm luật của Tòa án trong việc
công nhận và áp dụng các nguyên tắc mới trong quá trình xét xử dựa trên cơ
sở những vụ việc đã được quyết định trước đây cho những trường hợp và vấn
đề tương tự. Còn án lệ là tập hợp các vụ việc đã được xét xử của cơ quan tư
pháp trong quá trình xét xử, hay chỉ đơn thuần là các phán quyết của Tòa án,
được dùng làm cơ sở cho việc giải quyết các vụ việc trong tương lai. Nói một
cách khác, tiền lệ pháp là một hình thức pháp luật hay quá trình làm luật của
Tòa án; Án lệ là những bản án, quyết định mà Tòa án làm căn cứ để áp dụng
cho những vụ việc có tình tiết tương tự sau này”9.
Với quan điểm coi trọng, nhấn mạnh về sự thông thái của các thẩm phán,
khẳng định vai trò của thẩm phán trong quá trình tạo ra pháp luật trong xét
xử, có thể miêu tả chung về án lệ trong hệ thống thông luật là:
- Án lệ là những quyết định (đã được tuyên bởi Tòa án) có quyền uy bởi
vì nó được quyết định và giải quyết bởi thẩm phán, và nó có vị trí trong sự
nhận thức thực tiễn pháp luật.
- Án lệ không phải là các quy phạm pháp luật, nhưng án lệ làm sáng tỏ
những câu hỏi về pháp luật. Án lệ đóng vai trò như là phương tiện để thẩm
phán giải quyết vụ việc trong các vụ việc xảy ra sau nó. Những thẩm phán có
thể dựa vào các án lệ trước đây để đưa ra lý do cho quyết định trong vụ việc
hiện thời10.
8
Nguyễn Đức Lam, tlđd chú thích 26, tr. 61.
Lê Văn Sua (2015), „Án lệ và vai trò của án lệ trong hoạt động của tòa án‟ tại địa chỉ:
truy cập ngày 30/6/2017.
10
Nguyễn Văn Nam, tlđd chú thích 7, tr.44.
9
11
Với các nước theo hệ thống dân luật, tiêu biểu là các nước Pháp, Đức, Ý,
Nhật Bản... thì án lệ được xem như một cách giải thích pháp luật. Khác với hệ
thống thông luật, án lệ ở hệ thống dân luật được hiểu là: “án lệ có nghĩa là
một hình thức pháp luật không phải là hình thức quy phạm pháp luật do cơ
quan lập pháp ban hành, án lệ là luật được hình thành từ thực tiễn xét xử của
cơ quan tư pháp”11. Trong hệ thống dân luật, án lệ không phải là hình thức
pháp luật chính thức.
Tương tự, ở Pháp cũng vậy, án lệ không được coi là nguồn chính thức,
án lệ được hiểu là các đường lối xét xử của Tòa án. Như Carrbonnier định
nghĩa “la jurisprudence” là một giải pháp pháp luật do Tòa án tạo ra đối với
những câu hỏi pháp luật.
Mặc dù không được coi là nguồn chính thức, nhưng trong hệ thống dân
luật, án lệ vẫn được coi trọng và sử dụng, bởi lẽ văn bản quy phạm pháp luật
cần phải được cụ thể hóa và hoàn thiện bởi các thẩm phán.
Nhìn chung, qua cách hiểu, kinh nghiệm của hai hệ thống pháp luật
truyền thống trên, có thể khái quát rút ra định nghĩa chung nhất về án lệ đó là:
Án lệ là các bản án, quyết định của tòa án có chứa đựng các nguyên tắc pháp
luật, cách giải thích pháp luật làm cơ sở cho việc giải quyết các vụ việc tương
tự trong tương lai.
1.2.
LƢỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ÁN LỆ
Án lệ là vấn đề được đề cập từ lâu trong khoa học và thực tiễn pháp lý,
cũng như ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Có thể hiểu khái quát: “Án lệ
là những bản án, quyết định của Tòa án khi giải quyết các vụ việc cụ thể,
được thừa nhận có chứa đựng khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc khác
tương tự”12. Học thuyết về án lệ xuất hiện từ rất lâu, học thuyết được thể hiện
11
Peter de Cruz (1999), „Comparative law in a changing wold‟, Cavendish Publishing, tr.242.
Nguyễn Văn Nam (2016) Án lệ và vẫn đề giải thích pháp luật của tòa án, trích tài liệu Hội thảo quốc tế về
án lệ: Án lệ - Lý luận, thực ti n ở Việt Nam và một số nước, tr.42-58.
12
12
rõ nét trong quan điểm của Aristotle, một nhà khoa học và triết gia người Hy
Lạp và là một trong hai nhà trí thức vĩ đại nhất (cùng với Plato) của Hy Lạp
cổ đại, “Các vụ việc giống nhau thì cần phải được xét xử như nhau”13. Quan
điểm trên của Aristotle đã trở thành nền tảng của học thuyết án lệ trong truyền
thống pháp luật của hệ thống thông luật và hệ thống dân luật. Để làm rõ hơn
tiến trình hình thành và phát triển của án lệ, mục này đề cập về bối cảnh hình
thành án lệ, lý luận về án lệvà sự phát triển của án lệ trên thế giới.
1.2.1. Bối cảnh hình thành án lệ
Bàn về nguồn gốc của án lệ, không thể không đề cập đến nước Anh, nơi
được coi là cái nôi của sự ra đời cũng như phát triển của án lệ về sau này.
Nước Anh từng là một phần của Đế quốc La Mã trong 4 thế kỷ, nhưng không
bị ảnh hưởng bởi luật La Mã. Sau khi Đế quốc La Mã suy tàn, nước Anh chia
ra làm nhiều vương quốc nhỏ với các hệ thống pháp luật mang tính địa
phương, chủ yếu ảnh hưởng quan điểm của người German. Thời kỳ này được
gọi là thời kỳ Anglo – Saxon.
Năm 1066, trong trận chiến Hastings, người Normande (sống ở Pháp)
dưới sự chỉ huy của công tước William đã đánh bại quân Saxon, thống nhất
nước Anh. Sau khi lên ngôi, William I đã thực hiện một loạt cải cách để củng
cố vương quyền, điển hình trong công cuộc cải cách đó là việc thực hiện bộ
máy hành chính và cải cách pháp luật.
William I tuyên bố duy trì pháp luật tập quán của thời kỳ Anglo – Saxon
nhưng bên cạnh đó, cũng xây dựng chế độ quản lý tập trung trên toàn đất
nước. Điển hình trong việc cải cách là thiết lập Tòa án Hoàng gia tồn tại song
song với tòa địa phương. Để củng cố uy tín của tòa Hoàng gia, cũng như giải
quyết thấu đáo các đơn kiện từ địa phương gửi lên,Vua William đã thiết lập
13
Gale Group, Garner (2003), The Dictionary of The History of Idea.
13
chính sách cử các thẩm phán của Tòa án Hoàng gia đi thực tế tại các địa
phương, cũng như tổ chức thực hiện các phiên xét xử lưu động. Khi xét xử
lưu động, các thẩm phán sẽ sử dụng những tập quán và luật pháp của vùng để
xét xử. Tuy nhiên, mỗi vùng miền lại có những tập quán khác nhau. Bởi vậy,
sau mỗi khoảng thời gian đi xét xử lưu động, các thẩm phán Tòa án Hoàng
gia gặp gỡ và thảo luận với nhau về tập quán của từng vùng mà mình đã áp
dụng để xét xử. Sau đó, họ lọc ra những vụ việc hợp lý, những phán quyết có
tính thuyết phục cao, sắp xếp theo hệ thống, để làm cơ sở cho việc tham khảo
và áp dụng khi xét xử các vụ án có tình tiết tương tự sau này.
Tiền lệ pháp được hình thành từ đây, việc tổng hợp lại các phán quyết
của các thẩm phán, dần dần tạo nên các nguyên tắc trong xét xử, làm cơ sở
cho những phán quyết với các vụ án tương tự sau này. Bởi các thẩm phán
luôn bị ràng buộc bởi các phán quyết trước đó, cũng như chịu ảnh hưởng lớn
bởi cách giải thích pháp luật của các thẩm phán tiền bối. Cách áp dụng tương
tự đã hình thành nên nguyên tắc tiền lệ - nguyên tắc mang tính khuôn mẫu khi
áp dụng tiền lệ pháp. Trên cơ sở áp dụng nguyên tắc tiền lệ đã thúc đẩy án lệ
trở thành nguồn luật thiết yếu, dần thay thế các tập quán địa phương từ thời
Norman,củng cố thêm vị trí, vai trò của tiền lệ pháp trong hệ thống pháp luật.
Việc áp dụng tiền lệ pháp trong quá trình xét xử ngày càng được các
thẩm phán Hoàng Gia áp dụng thường xuyên hơn. Để đảm bảo việc áp dụng
các án lệ trong quá trình xét xử, các thẩm phán đã xây dựng nên nguyên tắc
tiền lệ. Theo nguyên tắc này, thì việc giải quyết bất cứ vụ việc nào cần phải
tuân theo những vụ việc tương tự đã giải quyết trước đó và những bản án
khuôn mẫu của Tòa án trước đây được gọi là án lệ. Sau này, nguyên tắc tiền lệ
được công nhận là nguyên tắc xét xử chung cho toàn thể lãnh thổ nước Anh.
Nguyên tắc tiền lệ ra đời góp phần củng cố, thống nhất hệ thống pháp luật của
nước Anh, củng cố vị trí, vai trò của Tòa án Hoàng Gia.
14
Nguyên tắc tiền lệ ra đời và được coi là nguyên tắc xét xử chung cho
toàn lãnh thổ nước Anh. Nguyên tắc tiền lệ tạo tiền đề cho việc vận dụng, phổ
biến tiền lệ pháp trong hệ thống Tòa án. Điển hình là việc vận dụng tiền lệ,
quyết định của Tòa án Hoàng gia đối với các vụ việc tương tự được xét xử tại
các tòa địa phương lúc bấy giờ. Phán quyết của Tòa án trở thành luật chung
cho cả vương quốc, kể từ lúc này, pháp luật nước Anh cơ bản được thống
nhất. Từ đó, hình thành nên khái niệm “Thông luật” – Common law – pháp
luật thống nhất, được hình thành và phát triển chủ yếu bởi các phán quyết của
Tòa án. Thông luật ra đời, tạo nên đặc trưng của hệ thống pháp luật Anh nói
riêng và hệ thống thông luật nói chung. Hay có thể khẳng định, sự ra đời của
tiền lệ pháp gắn liền với lịch sử của hệ thống thông luật. Như tác giả Gerald
J.Postema đã miêu tả,“Án lệ như mạch máu của hệ thống pháp luật”14.
Thông luật (với nguyên tắc cơ bản là tiền lệ pháp) đã được phổ biến rộng
rãi trên thế giới. Vào thế kỷ thứ XVIII – XIX, Đế quốc Anh đã mang tiền lệ
pháp sang tất cả các lục địa, trước hết là những thuộc địa của họ. Tiền lệ pháp
đã được tiếp nhận ở nhiều nước, nhưng thành công nhất là ở các quốc gia nơi
người định cư Châu Âu chiếm số đông và áp đặt luật lệ của họ lên người bản
địa như: Úc, Canada, New Zealand và Hoa Kỳ. Hiện nay, mặc dù trải qua
nhiều sự thăng trầm của lịch sử, sự giao thoa, ảnh hưởng lẫn nhau của các hệ
thống pháp luật do quá trình toàn cầu hóa, nhưng ở Hệ thống thông luật thì án
lệ vẫn là nguồn luật cơ bản, đặc thù.
Tuy nhiên, Hệ thống thông luật thì không chỉ có án lệ, mà còn có cả luật
công bình (Equity law). Luật công bình ra đời nhằm giải quyết một số hạn chế
của thông luật. Luật công bình ra đời cùng thời điểm với Tòa Đại pháp (Court
of Chancery), khi đó Tòa Đại pháp sử dụng Luật công bình – gồm các quy
14
Gerald J.Postema (1987) Some Roots Of Our Nation Of Precedent, In „Precedent In Law‟, Edit ed by
Laurence Goldstein, Clarendon Press Oxford, tr.10-15.
15
định được thiết lập dựa trên nguyên lý về lẽ phải, lẽ công bằng theo lương tâm
và đạo đức, hoặc từ các học thuyết về công lý tự nhiên. Tuy nhiên, Luật công
bình chỉ nhằm khắc phục, bổ sung những thiếu sót của thông luật lúc bấy giờ.
Thời điểm sau này, Luật công bình bộc lộ một số điểm hạn chế trong giải
quyết các vụ việc về sau. Đến cuối thế kỷ XIX, nước Anh đã thực hiện hoạt
động cải tổ hệ thống pháp luật, chủ yếu nhằm vào hệ thống Tòa án. Cuộc cải
tổ này không chỉ cải cách lại bộ máy tư pháp, mà còn hợp nhất được thông
luật và Luật công bình; cũng như một lần nữa khẳng định thêm về giá trị của
thông luật – tiền lệ pháp.
1.2.2. Lý luận về án lệ
1.2.2.1. Lý luận về án lệ tại các nước thuộc hệ thống thông luật
Hệ thống thông luật là hệ thống đề cao vai trò sáng tạo pháp luật của
thẩm phán. Lý luận về án lệ được các nhà luật học đề cập đến trong suốt quá
trình phát triển của hệ thống pháp luật thông luật. Có rất nhiều học giả nghiên
cứu về án lệ và cũng có rất nhiều quan điểm lý luận về án lệ trong lịch sử hình
thành và phát triển hệ thống thông luật. Tuy nhiên, có thể đề cập đến hai lý
luận về án lệ nổi bật trong truyền thống pháp luật Thông luật. Đó là:
Lý luận của chủ nghĩa pháp luật thực chứng về án lệ
Chủ nghĩa pháp luật thực chứng dựa trên sự khẳng định đơn giản rằng sự
miêu tả về pháp luật là sự cần thiết khách quan và nhiệm vụ đó cần phải giải
quyết câu hỏi: Pháp luật là gì và nó tách biệt với những quy phạm loại nào?
Theo Thomas Hobbes (1588-1679), một học giả người Anh, thì “Pháp luật
đơn giản chỉ là lẽ phải tự nhiên, điều mà mọi chủ thể có thẩm quyền phải thực
hiện và áp dụng đối với các chủ thể của pháp luật”. Trong lý luận của mình,
Hobbes đã đưa ra giải thích vì sao án lệ có vai trò như là luật. Phân tích làm
sáng tỏ quan điểm nêu trên của Hobbes, Gerald J.Postema viết: “Mặc dù
Hobbes không thực sự chú ý đến khái niệm về án lệ, nhưng trong lý luận của
16
ông đã cung cấp những cơ sở nổi bật cho chủ nghĩa pháp luật thực chứng
phân tích lý luận về án lệ. Khi một trường hợp nào đó chưa có luật do cơ quan
quyền lực ban hành theo sự đồng thuận chung thì mỗi thẩm phán sẽ được
phép tạo ra luật trong hoạt động xét xử những vụ việc cụ thể. Những luật do
thẩm phán tạo ra có quyền uy và mệnh lệnh tương tự như những mệnh lệnh
của cơ quan quyền lực tối cao nhà nước tạo ra”15.
Xoay quanh việc trả lời câu hỏi Pháp luật là gì? Trong thế kỷ XX,
H.L.A Hart (1907- 1992) đã định nghĩa: Hệ thống pháp luật là tập hợp của hai
loại quy tắc pháp luật, gồm: các quy tắc cơ bản của sự bắt buộc; và các quy
tắc của sự nhận thức. Các quy tắc của sự nhận thức đã bổ sung thêm quyền
cho các nhà chức trách và thẩm phán trong việc cụ thể hóa, thay đổi, giải
thích, các quy tắc mang tính bắt buộc của pháp luật. Hart đã kết luận rằng:
“Các thẩm phán phải sử dụng quyền tự mình cân nhắc để sáng tạo ra một quy
định pháp luật là một điều không thể tránh khỏi khi mà các quy định pháp luật
thành văn còn quy định một cách không rõ ràng và còn bỏ ngỏ những nội hàm
khái niệm của điều luật cho các thẩm phán giải thích. Hart cũng cho rằng việc
tạo ra pháp luật của cơ quan tư pháp trong một giới hạn vừa phải là một điều
tốt, nó tạo ra tính mềm dẻo trong áp dụng pháp luật”16.
Chủ nghĩa pháp luật hiện thực ở Mỹ
Chủ nghĩa pháp luật hiện thực phát triển mạnh vào những năm 1920 đến
những năm 1940 của thế kỷ XX và tạo ra những ảnh hưởng lớn trong khoa
học luật học ở Mỹ từ thế kỷ XX đến nay. Lý luận về án lệ trong chủ nghĩa
pháp luật hiện thực tập trung việc làm sao thẩm phán có thể đưa ra một phán
quyết đúng. Trong thực tiễn, các quyết định của Tòa án phụ thuộc vào yếu tố
sự kiện thay vì dựa vào các quy định pháp luật sẵn có. Khi đó, các thẩm phán
15
Trích trong tài liệu: Nguyễn Văn Nam (2012), Lý luận và thực ti n về án lệ trong hệ thống pháp luật của
các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức và những kiến nghị đối với Việt Nam, tr. 46.
16
Brian Bix (2003), Jurisprudence Theory And Context, Third edition, London Sweet & Maxwell,tr.44.
17
sẽ phân tích, lập luận dựa trên các sự kiện pháp lý thực tiễn, chứ không phân
tích giải thích các quy định mang tính chất chung chung, khái quát của pháp
luật. Điều này đòi hỏi các thẩm phán sẽ cần phải có vốn kiến thức sâu rộng,
không chỉ về pháp luật, mà còn phải học hỏi nhiều hơn các kiến thức xã hội,
khoa học để có thể đánh giá thực tiễn sự kiện pháp lý, từ đó, có thể đưa ra
những phán quyết phù hợp với thực tiễn. Việc luôn học hỏi, tìm hiểu và
nghiên cứu của thẩm phán, sẽ giúp thẩm phán phát huy được quyền sáng tạo
pháp luật của mình, góp phần thúc đẩy, phát triển hệ thống pháp luật phù hợp
với nhu cầu phát triển xã hội.
1.2.2.2. Lý luận về án lệ tại các nước thuộc hệ thống dân luật
Trong hệ thống dân luật không tồn tại học thuyết về án lệ (Stare decisis)
như các nước thuộc hệ thống thông luật, cũng như việc chỉ coi án lệ là nguồn
thứ yếu trong hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, không bởi thế mà có thể phủ
nhận sự tồn tại những quan điểm lý luận về án lệ trong hệ thống dân luật.
Những quan điểm lý luận về vai trò của án lệ ít nhiều ảnh hưởng đến sự phát
triển của án lệ trong hệ thống pháp luật các nước thuộc hệ thống dân luật.
Trường phái lịch sử pháp luật ở Đức
Trường phái lịch sử pháp luật ở Đức là một trong những trường phái tư
tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất đến sự phát triển pháp luật Đức. Friedrich
Carl von Savigny (1779- 1861) là một trong những học giả tiêu biểu của
trường phái lịch sử pháp luật. Savigny đã nêu rõ quan điểm của mình về án lệ
trong cuốn sách của mình “Nhiệm vụ trong thời đại của chúng ta với lập pháp
và luật học”, đó là:
- “Thứ nhất, nói chung pháp luật có thể được hình thành bởi sự thừa
nhận chung của cả cộng đồng;
18
- Thứ hai, Savigny quan điểm rằng không chỉ có Nghị viện mà những
thẩm phán cũng có quyền đại diện cho nhân dân để tạo ra pháp luật”17.
Ủng hộ với việc thẩm phán có quyền sáng tạo pháp luật, Savigny gọi
pháp luật mà thẩm phán tạo ra là “Scholarly law” hay “law of science”; và để
đơn giản hóa pháp luật mà thẩm phán tạo ra từ các án lệ, Savigny gọi là luật
thực hành, luật thực tiễn – “practical law”18. Khi đề cập đến các loại nguồn
của pháp luật, Savigny có đề cập tới vai trò của hệ thống các quyết định, phán
quyết của Tòa án đã có ảnh hưởng tới sự phát triển của pháp luật Đức và một
số nước thuộc Hệ thống dân luật khác trong thế kỷ XIX và thế kỷ XX. Do hệ
quả của quá trình pháp điển hóa, đã có rất nhiều nguyên tắc mang tính chất
chung chung được đặt ra, khiến việc áp dụng các quy phạm trở nên khá khó
khăn. Bởi lẽ vậy, các thẩm phán có thẩm quyền sáng tạo pháp luật thông qua
việc giải thích những quy phạm mang tính nguyên tắc chung trong luật thành
văn, để áp dụng giải quyết vụ việc cụ thể. Savigny cho rằng, luật do thẩm
phán tạo ra theo hai trường hợp:
- Trường hợp thứ nhất, là việc chỉ ra các nguyên tắc pháp luật và giải
thích sự áp dụng các nguyên tắc chung. Qua đó, tạo ra các quy phạm mới có
tính chất chi tiết, cụ thể về vấn đề cụ thể, dựa trên quy phạm chung của luật
thực định.
- Trường hợp thứ hai, là việc các thẩm phán tạo lập ra những quan điểm
lý luận luật học và tạo ra thông lệ chung của Tòa án đối với mỗi vấn đề pháp
luật cụ thể.
Tiếp nối quan điểm ủng hộ việc sáng tạo pháp luật của các thẩm phán
của Savigny, Bernhard Windscheid (1817- 1892), một học giả thuộc trường
17
18
Nguyễn Văn Nam (2012), tldd chú thích 7, tr. 59.
Nguyễn Văn Nam (2012), tldd chú thích 7, tr. 59.
19
phái lịch sử pháp luật đã đưa ra lý luận về sự bổ sung pháp luật kẽ hở của
pháp luật, trong đó vai trò thực tiễn được trao cho thẩm phán.
Lý luận của Hans Kelsen – Chủ nghĩa thực chứng về án lệ
Trong lý luận của chủ nghĩa chứng thực về án lệ, có thể kể tên các học
giả tiêu biểu, như: Laband, Bergbohm, Kelsen... Nổi bật nhất trong các học
giả trong chủ nghĩa chứng thực về án lệ, có thể nói đến Hans Kelsen, một nhà
lý luận người Áo. „Pure theory of law‟ (lý luận thuần túy của pháp luật) là
một tác phẩm nổi bật củaKelsen, trong đó, Kelsen thể hiện quan điểm ủng hộ
lý luận về việc làm luật của thẩm phán trên cơ sở các quy định pháp luật ban
hành chưa được cụ thể, thông qua việc tìm ra câu trả lời cho câu hỏi: Pháp
luật là gì? Theo Kelsen, pháp luật được nhìn nhận ở hai khía cạnh:
- Thứ nhất, khía cạnh tĩnh của pháp luật trong bất kỳ thời điểm nào;
- Thứ hai, khía cạnh động của pháp luật có nghĩa là hệ thống pháp luật đã
thực hiện chức năng của nó như thế nào qua thời gian.
Dựa trên hai khía cạnh đó, Kelsen cho rằng quy phạm pháp luật chưa cụ
thể cần được nhận thức và hoàn thiện bởi thẩm phán. Vì thế mà các đạo luật
được ban hành ban đầu và nhiệm vụ của thẩm phán trong việc ra các quyết
định khi xét xử sẽ cùng nhau tạo ra một hệ thống pháp luật thực sự, có tính
thực tiễn cao cho những người dân trong xã hội.
Lý luận án lệ ở Pháp
Pháp luật của nước Pháp là hệ thống pháp luật điển hình của hệ thống
dân luật, với tính pháp điển hóa rất cao. Bởi lẽ vậy, việc xác định lý luận phù
hợp về án lệ là một vấn đề cơ bản trong bối cảnh hệ thống pháp luật của nước
Pháp. Trong cuốn “French Legal Method” (Phương pháp luật của Pháp), nhà
luật học người Pháp Eva Steiner đã hệ thống những lập luận, phương pháp để
nhận diện lý luận về án lệ trong hệ thống pháp luật Pháp. Eva Steiner đã tiếp
cận án lệ ở bốn góc độ: