Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân trong pháp luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.99 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THỊ THÙY TRANG

ĐỀ TÀI

CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN
TỰ DO, DÂN CHỦ CỦA CÔNG DÂN
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số
: 60380104

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Cao Thị Oanh

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn



Hoàng Thị Thùy Trang


LỜI CẢM ƠN

Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực tiễn,
được sự hướng dẫn, giảng dạy của Quý thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình
của cơ quan cùng với sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành
Luận văn Thạc sỹ Luật học.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng quý thầy cô Trường Đại học Luật Hà Nội, các Giáo sư,
Phó Giáo sư, Tiến sỹ đã tận tình giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến thức, kinh
nghiệm quý báu trong suốt thời gian học tập tại trường.
Cảm ơn Khoa Sau đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội thực hiện quản lý
đào tạo, cung cấp thông tin cần thiết về quy chế đào tạo cũng như chương trình
đào tạo một cách kịp thời, tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này đúng tiến
độ.
Cảm ơn Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã giúp đỡ rất nhiều về số liệu để
tôi hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến cô giáo PGS. TS Cao Thị Oanh
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian học tập.

Tác giả luận văn

Hoàng Thị Thùy Trang



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

CTTP

: Cấu thành tội phạm

TAND

: Tòa án nhân dân

TDDC

: Tự do, dân chủ

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Cơ cấu tỉ lệ số vụ và bị cáo về các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân
trong tổng số các tội phạm đã xét xử từng năm giai đoạn 2012 – 2016


55

Bảng 3.2. Cơ cấu tỉ lệ số vụ và bị cáo đã xét xử về các tội xâm phạm quyền TDDC của
công dân cụ thể trong giai đoạn 2012 – 2016

56

Bảng 3.3. Hình phạt áp dụng đối với các bị cáo phạm tội xâm phạm quyền TDDC của
công dân giai đoạn 2012 - 2016

57

Phụ lục 1: Cơ cấu tỉ lệ số vụ và bị cáo tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong
tổng số các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân giai đoạn 2012 – 2016

89

Phụ lục 2: Các hình phạt áp dụng đối với các bị cáo phạm tội xâm phạm quyền TDDC
của công dân cụ thể trong giai đoạn 2012 – 2016

90


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng biểu
Mục lục
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO,

DÂN CHỦ CỦA CÔNG DÂN
7
1.1. Khái quát về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân

7

1.1.1. Khái niệm quyền con người, quyền công dân, quyền tự do, dân chủ của công dân

7

1.1.2. Khái niệm các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân

10

1.2. Sơ lƣợc lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm quyền tự do, dân
chủ của công dân
12
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985

12

1.2.2. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực thi hành

16

1.2.3. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực thi hành

18

1.3. Quy định về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân trong pháp luật

hình sự một số nƣớc trên thế giới
20
1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga

20

1.3.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

22

1.3.3. Bộ luật hình sự Thụy Điển

25

Chƣơng 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ CÁC TỘI
XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ CỦA CÔNG DÂN
29
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ
của công dân
29
2.1.1. Dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân

29

2.1.2. Hình phạt đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân

41

2.2. Những điểm mới trong quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về các tội xâm
phạm quyền tự do, dân chủ của công dân

42
2.2.1. Những điểm mới về dấu hiệu pháp lý

44

2.2.2. Những điểm mới về hình phạt

50


Chƣơng 3. THỰC TIỄN XÉT XỬ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ CỦA CÔNG DÂN
54
3.1. Thực tiễn xét xử các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân

54

3.1.1. Số liệu thống kê công tác xét xử các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
từ năm 2012 đến năm 2016
54
3.1.2. Một số vướng mắc trong xét xử các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
57
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về các tội
xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
71
3.2.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ
của công dân
71
3.2.2. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về các

tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
79
KẾT LUẬN

83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

85

PHỤ LỤC

89


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước ta với bản chất là nhà nước của dân, do dân và vì dân, do vậy khi
bản Hiến pháp đầu tiên ra đời – Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận các quyền cơ bản
của công dân như quyền chính trị, kinh tế, văn hóa và trong đó có cả quyền tự do,
dân chủ của công dân. Đặc biệt Hiến pháp năm 2013 đã có sự sửa đổi, bổ sung quan
trọng, ghi nhận và quy định các quyền con người đồng thời với các quyền cơ bản
của công dân, một trong những thành tựu lập hiến thể hiện sự tiến bộ, đổi mới về
quan điểm, tư tưởng của Nhà nước về bảo đảm quyền con người, quyền công dân
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc ghi
nhận quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến
pháp, Đảng và Nhà nước ta đã thực thi nhiều chính sách bảo đảm quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về

quyền con người như Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng
tộc năm 1965, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966,
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về
xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước về quyền trẻ
em năm 1989, Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2006... và đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng, to lớn, góp phần xây dựng một nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, đóng góp
vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hòa bình và tiến bộ xã hội của toàn nhân loại1.
Trên tinh thần đó, để bảo vệ các quyền tự do, dân chủ, tự do cá nhân của công
dân, Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ
của công dân tại Chương XIII Phần các tội phạm. Những quy định về các tội xâm
phạm quyền tự do, dân chủ của công dân qua các Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật

1

Lê Trang Hùng, Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 2013,
truy cập 20/03/2017.


2

hình sự năm 1999 đã được quy định đầy đủ, rõ ràng hơn, trở thành cơ sở pháp lý
quan trọng nhằm bảo vệ các quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân.
Tuy nhiên, quá trình từ việc quy định trong BLHS đến việc thi hành các điều luật về
quyền tự do, dân chủ của công dân còn bộc lộ những bất cập và hạn chế, đòi hỏi
phải có biện pháp khắc phục nhằm đảm bảo cho quyền lợi của công dân được thực
hiện một cách đầy đủ, hoàn thiện.
Hiện nay, khoa học luật hình sự trong nước cũng đã có nhiều công trình
nghiên cứu về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân nhưng chưa có
nhiều công trình nghiên cứu sâu về nhóm tội này dưới góc độ lý luận và thực tiễn

công tác xét xử các tội này trong giai đoạn hiện nay, từ đó chỉ ra được những hạn
chế, vướng mắc của việc áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử, những phương
hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật để nâng cao hiệu quả xét xử các tội xâm
phạm quyền tự do, dân chủ của công dân. Trên cơ sở này, tác giả quyết định lựa
chọn đề tài: “Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân trong pháp
luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở nước ta, từ trước đến nay có khá nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác
giả về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân.
- Về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình như: Nguyễn
Ngọc Hòa (chủ biên) (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam Phần các tội phạm,
Nxb Công an nhân dân; Lê Cảm (chủ biên) (2001, tái bản năm 2003 và 2007), Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam Phần các tội phạm, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2001), Giáo trình
luật hình sự Việt Nam Phần các tội phạm, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội; Đinh
Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Phần các tội phạm - Tập 3,
Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân; xâm phạm chế độ hôn nhân
và gia đình: bình luận chuyên sâu, Nxb. TP. Hồ Chí Minh; Trịnh Tiến Việt (chủ
biên) (2010), Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân theo luật hình
sự Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


3

- Một số bài báo khoa học có đề cập đến các tội này như: Nguyễn Xuân Hà
(2012), Một số kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật Hình sự
năm 1999 về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ
của công dân, Tạp chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 18/2012, tr. 35
– 42; Trịnh Tiến Việt, Nguyễn Xuân Hà (2012), Hoàn thiện những quy định của Bộ
luật hình sự về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân trước yêu cầu

mới, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, Số 10/2012, tr. 11 – 19; Nguyễn
Xuân Hà (2012), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân
chủ của công dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 21/2012,
tr. 48 – 58; Vũ Thư (2013), Các quy định về quyền tự do, dân chủ của công dân
trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và kiến nghị, Tạp chí Khoa học pháp lý,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Số 3/2013, tr. 3 – 10; Hoàng Thế
Liên (2014), Hiến pháp năm 2013 và việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự hiện
hành nhằm bảo vệ các quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 20/2014, tr. 69 - 73, 84.
- Ở cấp độ luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ có các công trình của các tác giả:
Nguyễn Xuân Hà (2014), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm quyền tự
do, dân chủ của công dân, Luận án Tiến sĩ Luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội; Mai Thị Loan (2011), Quyền cơ bản của công dân về tự do, dân
chủ và tự do cá nhân. Thực trạng và giải pháp, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại
học Luật Hà Nội, Hà Nội; Hoàng Thị Ngân (2010), Sự kế thừa và phát triển các
quyền cơ bản của công dân về tự do, dân chủ và tự do cá nhân trong lịch sử lập
hiến Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Có thể thấy, ở nước ta tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu về các tội xâm
phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, nhưng ở dưới dạng các khía cạnh nhỏ,
khía cạnh lý luận, có nhiều vấn đề đã nghiên cứu nhưng nghiên cứu chưa sâu, chưa
toàn diện, hoặc chưa nghiên cứu về thực tiễn tội phạm trong giai đoạn hiện nay.
Việc chọn nghiên cứu đề tài “Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
trong pháp luật hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết vừa có tính lý


4

luận, vừa có tính thực tiễn nhằm tìm ra nguyên nhân, đưa ra một số kiến nghị và
giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự, khắc phục những tồn tại, vướng mắc trong
thực tiễn xét xử các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân và đề ra

những giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử loại tội phạm này.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm
phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, trong đó tập trung chủ yếu vào quy định
của Bộ luật hình sự năm 1999.
Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định Bộ luật hình sự năm 1999 về
các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được
thông qua và sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018, do vậy ngoài việc phân
tích quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, luận văn còn nghiên cứu một số nội
dung liên quan trong Bộ luật hình sự năm 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh các tội xâm
phạm quyền tự do, dân chủ của công dân trong pháp luật hình sự Việt Nam. Tác giả
tập trung phân tích nội dung của các quy định về các tội xâm phạm quyền tự do, dân
chủ của công dân trong Bộ luật hình sự năm 1999, từ đó so sánh với nội dung của
các tội này theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015. Đồng thời, tác giả nghiên
cứu đánh giá thực tiễn xét xử các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân,
từ đó chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân để kiến nghị những giải pháp
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh chống và phòng
ngừa loại tội phạm này.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của
pháp luật hình sự về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân và làm
sáng tỏ các vấn đề như khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, trách nhiệm hình sự của các


5


tội phạm này. Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luận và pháp luật, đồng thời đánh giá
thực tiễn, xem xét thực trạng xét xử các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của
công dân, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về
loại tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Nhằm đạt được mục tiêu nêu trên, tác giả đã xem xét một số câu hỏi sau:
Khái niệm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân là gì? Khái
niệm các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân?
Quy định về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân trong pháp
luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ?
Các dấu hiện pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ
của công dân theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 là gì? So sánh với quy
định của Bộ luật hình sự năm 2015?
Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm quyền tự
do, dân chủ của công dân từ năm 2012 đến năm 2016 trên địa bàn cả nước?
Những tồn tại, hạn chế, những vấn đề cần kiến nghị để nâng cao hiệu quả áp
dụng của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
trong giai đoạn hiện nay?
6. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn giải quyết các nội dung khoa học của đề tài được thực hiện dựa trên
cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng
Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề
cải cách tư pháp thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng một số phương pháp cụ thể
như: phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp sử dụng trong phân tích
các nội dung quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm quyền tự do, dân



6

chủ của công dân; phương pháp so sánh, đối chiếu nhằm so sánh giữa quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của
công dân so với Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới và so với Bộ luật hình sự
mới sắp có hiệu lực thi hành; phương pháp thống kê, tổng hợp nhằm phân tích, đánh
giá các số liệu từ thực tiễn xét xử các tội phạm này, từ đó tác giải giải quyết các
nhiệm vụ được đặt ra đối với luận văn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa về phương diện lý luận và thực
tiễn. Về mặt lí luận, luận văn tổng hợp những quan điểm khoa học về các tội xâm
phạm quyền tự do, dân chủ của công dân để xây dựng khái niệm và làm rõ những
đặc điểm pháp lý của các tội này. Luận văn là công trình đóng góp cho việc hoàn
thiện những nhận thức về bản chất của các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của
công dân. Đồng thời luận văn góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu tham
khảo nhằm phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học pháp luật hình sự.
Về mặt thực tiễn, từ những nghiên cứu, đánh giá tình hình xét xử các tội xâm
phạm quyền tự do, dân chủ của công dân trong thời gian vừa qua, luận văn chỉ ra
những tồn tại, hạn chế trong quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ
đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả xét xử các tội xâm
phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công
tác đấu tranh phòng, chống những tội này hiện nay.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của
công dân.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội xâm phạm quyền
tự do, dân chủ của công dân.

Chương 3: Thực tiễn xét xử và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy
định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân.


7

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI
XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ CỦA CÔNG DÂN
1.1. Khái quát về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
1.1.1. Khái niệm quyền con người, quyền công dân, quyền tự do, dân chủ
của công dân
Quyền con người là một vấn đề rộng lớn, phức tạp, nên từ trước đến nay luôn
có các cách hiểu khác nhau về khái niệm, nội dung đến cách thức thực hiện. Kể từ
khi Liên hợp quốc được thành lập năm 1945, quyền con người đã được quy định cụ
thể trong hàng trăm văn kiện pháp luật quốc tế, trở thành một hệ thống tiêu chuẩn
pháp lý toàn cầu đòi hỏi mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam, tôn trọng và thực
hiện.
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về quyền con người, mỗi định nghĩa tiếp cận
vấn đề từ một góc độ khác nhau. Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp
quốc về quyền con người: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có
tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ
mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con
người.”2
Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền nêu rằng: “...việc thừa nhận phẩm
giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần
tử trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hoà bình thế giới.”3
Ở góc độ quốc gia, Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1776)
nêu rằng “...mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những

quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và

2

Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 41.
3
Liên Hợp Quốc (1948), Tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền, Đoạn 1, Lời nói đầu.


8

quyền mưu cầu hạnh phúc...”4. Những tuyên bố này về sau đã được khẳng định một
lần nữa trong bản Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền năm 1789 của nước Pháp
và bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1946 của Việt Nam. Quyền con người cũng được
đề cập đến trong những công ước quốc tế như: Công ước về chính sách việc làm
1964; Công ước Quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc 1965; Công
ước về quyền của những người khuyết tật về tâm thần 1971; Công ước Quốc tế về
xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại Phụ nữ 1979; Công ước chống tra
tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân
phẩm 1984...
Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ
quan nghiên cứu từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung,
quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và
khách quan của con người được Nhà nước thừa nhận và pháp luật bảo vệ. Hay nói
cách khác, quyền con người là các quyền tối thiểu mà các cá nhân, từng con người
cụ thể phải có, quyền con người đòi hỏi Nhà nước thừa nhận và tôn trọng các quyền
này, đồng thời bảo vệ nó bằng pháp luật.
Quyền con người và quyền công dân là hai phạm trù gần gũi nhưng không
đồng nhất. Ở nhiều góc độ, quyền con người là khái niệm rộng hơn quyền công dân.

Quyền công dân là một khía cạnh biểu hiện của mối quan hệ pháp lý giữa một bên
là Nhà nước và công dân, là các quyền con người được mỗi quốc gia thừa nhận và
thể chế hóa vào pháp luật làm cơ sở pháp lý điều chỉnh công dân của quốc gia mình
trong mối quan hệ với các đối tượng khác trong xã hội5. Về bản chất, các quyền
công dân bao gồm những quyền con người được các nhà nước thừa nhận và áp dụng
cho công dân của mình. Tuy nhiên có những quyền đặc trưng riêng biệt khác mà
phải là công dân thì mới được hưởng tại quốc gia đó. Không phải ai cũng được
hưởng các quyền công dân của một quốc gia nhất định, và không phải hệ thống

4

Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1776).
Đinh Thị Thu Trang (2010), Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Luận văn ThS Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, 2013, Tr. 2.
5


9

quyền công dân của mọi quốc gia đều giống hệt nhau, cũng như đều hoàn toàn
tương thích với hệ thống các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người6.
Về vấn đề dân chủ, trong lịch sử các học thuyết chính trị - pháp lý cũng như
thực tiễn lịch sử xã hội loài người, “nhân dân” là phạm trù, thế lực luôn giữ vị trí
trung tâm. Vấn đề dân chủ được đặc biệt coi trọng trong lý luận và thực tiễn tổ chức
nhà nước theo hướng pháp quyền. Theo đó, dân chủ là dân làm chủ, quyền lực
thuộc về nhân dân, lấy dân làm gốc, dân được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Dân chủ là một đặc trưng cơ bản của mọi nhà nước pháp quyền.
Tự do và dân chủ thường được dùng thay thế cho nhau, tuy nhiên hai khái
niệm này không đồng nghĩa. Dân chủ không chỉ là một loạt ý tưởng và các nguyên
tắc về tự do, mà còn bao hàm cả những thực tiễn và các tiến trình đã được hình

thành trong suốt chiều dài lịch sử vốn phức tạp. Dân chủ là sự thể chế hóa tự do.
Một trong những chức năng chính của một nền dân chủ là bảo vệ các quyền con
người cơ bản như tự do ngôn luận, tự do tôn giáo... Nói đến quyền con người đồng
thời cũng ngụ ý nói đến dân chủ và nói đến dân chủ cũng hàm ý quyền con người,
bởi vì dân chủ chính là tổ hợp của các quyền con người.
Quyền TDDC của công dân bao gồm nhiều quyền khác nhau như đã dẫn ở
trên. Nếu phân chia các quyền của công dân thành các nhóm khác nhau: Quyền
chính trị, quyền kinh tế - dân sự, quyền văn hóa – xã hội, quyền tự do cá nhân thì
quyền TDDC thuộc nhóm quyền chính trị. Mỗi nhóm quyền thỏa mãn các nhu cầu
khác nhau của công dân và giữa chúng có mối quan hệ mật thiết. Trong đó, vai trò
của quyền chính trị là xác lập quyền làm chủ của nhân dân, tạo cơ sở chính trị cho
việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện các nhóm quyền khác của công dân7.
Tóm lại, dưới góc độ chung, quyền TDDC được hiểu là quyền làm chủ của
người dân đối với Nhà nước, xã hội, quyền làm chủ suy nghĩ, hành động của bản

6

Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Hỏi đáp về quyền con người, NXB CAND
Vũ Thư (2013), Sửa đổi bổ sung các quy định của Hiến pháp về quyền tự do dân chủ của công dân xem tại
truy cập ngày
12/05/2017.
7


10

thân mình trên cơ sở tôn trọng lợi ích chung và trật tự của cộng đồng, xã hội. Là các
quyền con người nên quyền TDDC đương nhiên cũng là quyền tự nhiên, vốn có.
Tuy nhiên, những quyền này chỉ thực sự có ý nghĩa trên thực tế khi nó được thừa
nhận và bảo hộ bởi Nhà nước, được ghi nhận trong Hiến pháp và đồng thời được

bảo vệ bằng pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự. Quyền TDDC của công dân
được quy định trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam gồm những quyền
như: Quyền tự do về thân thể, quyền bất khả xâm phạm về nhà ở và thư tín, quyền
bầu cử, quyền ứng cử, quyền tự do tín ngưỡng, quyền lao động, quyền tự do hội
họp, quyền nam nữ bình đẳng, quyền tác giả, quyền khiếu nại, tố cáo...
1.1.2. Khái niệm các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
Như đã phân tích ở trên, quyền TDDC được hiểu là quyền làm chủ của người
dân đối với Nhà nước, xã hội, quyền làm chủ suy nghĩ, hành động của bản thân
mình trên cơ sở tôn trọng lợi ích và trật tự của cộng đồng. Trong các giáo trình luật
hình sự và một số sách nghiên cứu, bình luận chuyên sâu hiện nay có rất nhiều khái
niệm khác nhau về các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân.
PGS.TS. Trần Văn Luyện quan niệm: “Các tội xâm phạm quyền TDDC của
công dân là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực TNHS gây
ra, có lỗi, làm nguy hại đến những quyền TDDC của công dân được quy định trong
Hiến pháp năm 1992”8.
ThS. Đinh Văn Quế viết: “Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng
lực TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quyền TDDC của công dân”9.
TS. Trịnh Tiến Việt và tập thể tác giả quan niệm: “Các tội xâm phạm quyền
TDDC của công dân là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS, do những người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách

8

Trần Văn Luyện (2001), Chương XIII - Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân, Trong sách: Bình
luận khoa học BLHS (Phần các tội phạm), Tập thể tác giả, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.144.
9
Đinh Văn Quế (2001), Bình luận chuyên sâu BLHS, Tập III - Các tội xâm phạm quyền TDDC của công
dân; xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, Nxb. thành phố Hồ Chí Minh, tr.14.



11

cố ý, xâm phạm đến quyền TDDC của công dân được Hiến pháp ghi nhận và pháp
luật hình sự bảo vệ”10.
Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học, quan điểm của PGS.TS. Phạm Hồng Hải và
GS.TSKH. Lê Cảm bao quát như sau: “Các tội xâm phạm quyền TDDC của công
dân là những hành vi (hành động hoặc không hành động) nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong BLHS do người đạt tới một độ tuổi nhất định, có đủ năng lực
TNHS và trong một số trường hợp có đủ dấu hiệu của chủ thể đặc biệt của tội phạm
thực hiện một cách cố ý xâm phạm tới các quyền TDDC của công dân được quy
định là khách thể bảo vệ của luật hình sự”11.
Có thể thấy các quan điểm trên đã phản ánh nội hàm khái niệm các tội xâm
phạm quyền TDDC của công dân với các đặc điểm như các tội xâm phạm quyền
TDDC của công dân xâm phạm tới các quan hệ xã hội liên quan tới việc xác lập và
thực hiện các quyền TDDC của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật hình sự
ghi nhận, hành vi phạm tội của nhóm tội này được thể hiện bằng những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, chủ thể của các tội phạm này là những người có năng lực
TNHS và đủ tuổi chịu TNHS do luật định, và hành vi phạm tội xâm phạm quyền
TDDC của công dân của người phạm tội đều được thực hiện dưới hình thức lỗi cố
ý. Tuy nhiên có quan điểm thì lại chưa đề cập đến yếu tố chủ thể của tội phạm, có
quan điểm lại chưa đề cập đến yếu tố tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Tóm lại, trên cơ sở phân tích những quan điểm nêu trên, có thể hiểu các tội
xâm phạm quyền TDDC của công dân là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện
một cách cố ý, xâm phạm đến quyền TDDC của công dân được Hiến pháp và pháp
luật hình sự ghi nhận, bảo vệ.

10


Trịnh Tiến Việt (chủ biên) (2010), Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân theo luật hình sự Việt
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.71-72.
11
Phạm Hồng Hải, Lê Cảm (2003), Chương 5 - Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân, Trong sách:
Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Tập thể tác giả, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.71.


12

1.2. Sơ lƣợc lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm quyền
tự do, dân chủ của công dân
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm
1985
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đánh dấu một cột mốc quan
trọng và phát triển trong lịch sử lập pháp nói chung và lịch sử lập pháp hình sự nói
riêng. Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập ngày 02 tháng 09
năm 1945, ngay từ bản dự thảo Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta đã ghi nhận, tôn
trọng và bảo vệ những giá trị cao đẹp về quyền con người, trong đó có quyền
TDDC của công dân.
Chỉ trong một thời gian rất ngắn kể từ ngày Bản Tuyên ngôn Độc lập được
công bố đến ngày 19/12/1946 - Ngày Toàn quốc kháng chiến, Nhà nước Việt Nam
đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật bao gồm các sắc lệnh, nghị định, thông tư...
Trong đó có những văn bản pháp luật đã quy định về quyền của công dân như:
- Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các toà án và các ngạch thẩm phán ban hành
ngày 24/01/1946, có quy định về thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt người, tạm giữ,
tạm giam và loại trừ các trường hợp bắt bớ, giam người khác không đúng theo quy
định của pháp luật. Theo đó, ban Tư pháp xã không có nguyền bắt bớ, giam giữ ai
trừ khi có trát nã của một thẩm phán hay khi thấy người phạm tội quả tang (Điều 4).
- Sắc lệnh số 40/SL về việc bảo vệ tự do cá nhân ban hành ngày 29/03/1946
quy định: Chỉ trừ khi nào có sự phạm pháp quả tang về khinh tội hay trọng tội còn

bao giờ bắt người cũng cần phải có lệnh của thẩm phán viên. Lệnh đó phải viết ra
giấy và bao giờ cũng phải do nhân viên của các cơ quan chính thức đem thi hành. Ở
nơi nào chưa đặt thẩm phán viên thì chỉ có những cơ quan do luật pháp đã ấn định
để thay cho thẩm phán viên, thì mới có quyền ra lệnh bắt người (Điều thứ 1); Trong
tình thế đặc biệt hiện thời và cho đến khi có lệnh khác, Chủ tịch Uỷ ban hành chính
kỳ đặc cách được phép ra lệnh bắt những người xét ra lời nói hay việc làm có thể
làm hại cho sự đấu tranh giành độc lập, cho chế độ dân chủ, cho sự an toàn của
công chúng và sự đoàn kết của quốc gia, để đem trừng trị trong những trại giam đặc


13

biệt. Chủ tịch Uỷ ban hành chính kỳ cũng có thể ra lệnh cấm những người kể trên
không được ở luôn hoặc lui tới một hay nhiều nơi sẽ ấn định (Điều thứ 7); Khi nào
cấp bách đặc biệt, Chủ tịch Uỷ ban hành chính các tỉnh được phép tạm bắt giữ
người xét ra lời nói hay việc làm nguy hại cho việc trị an nhưng phải báo tin lập tức
ngay trong ngày tạm bắt giữ ấy cho Uỷ ban hành chính kỳ (Điều thứ 9).
Những quy định về việc bắt người tạm giữ, tạm giam đã bước đầu xác lập chặt
chẽ thẩm quyền và thủ tục bắt người, giam người theo đúng quy định của pháp luật.
Ngoài ra cũng có những quy định về quyền bầu cử của công dân như Sắc lệnh
số 51/SL ngày 17/10/1945 về thể lệ tổng tuyển cử quy định: Tất cả những công dân
Việt Nam 18 tuổi trở lên không phân biệt nam nữ đều có quyền bầu cử và ứng cử,
trừ những người điên mà dân địa phương đã công nhận là điên, những người hành
khất chuyên môn, hay là những người do một hội thiện nào nuôi vĩnh viễn, những
người bị can án mà không được hưởng sắc lệnh đại xá của Chính phủ dân chủ cộng
hoà (Điều 2).
Ngày 19/11/1946 Quốc hội khoá I thông qua Hiến pháp năm 1946 - bản hiến
pháp đầu tiên của Việt Nam được xây dựng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Hiến pháp đã dành Chương II để quy định về nghĩa vụ và quyền lợi
của công dân. Theo đó 13 điều luật từ Điều thứ 4 đến Điều thứ 16 đã xác định

tương đối đầy đủ các quyền cơ bản của công dân Việt Nam, trong đó có các quyền
TDDC của công dân như: Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi
phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá (Điều thứ 6); Tất cả công dân Việt Nam đều
bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc
tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình (Điều thứ 7); Ngoài sự bình đẳng về quyền
lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp
trình độ chung (Điều thứ 8); Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện
(Điều thứ 9); Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ
chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài
(Điều thứ 10); Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người
công dân Việt Nam, nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm


14

phạm một cách trái pháp luật (Điều thứ 11).
Sau khi Hiến pháp năm 1946 ra đời, hệ thống pháp luật nước ta tuy trong hoàn
cảnh chiến tranh vẫn có một bước phát triển mới. Tuy nhiên nước ta lúc bấy giờ
chưa có BLHS, do đó các quy định Hiến pháp về bảo vệ các quyền TDDC chủ yếu
được cụ thể hóa trong các sắc luật, cụ thể là:
- Sắc lệnh 234/SL ngày 14/06/1955 về quyền tự do tín ngưỡng của công dân
có quy định: Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của
nhân dân, không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều có
quyền tự do theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo nào (Điều 1);
- Luật đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà
ở, đồ vật, thư tín của nhân dân năm 1957 quy định quyền tự do thân thể và quyền
bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật và thư tín của nhân dân được tôn trọng và
bảo đảm, không ai được xâm phạm các quyền ấy (Điều 1). Theo đó việc bắt, giam
người phạm đến pháp luật Nhà nước, việc khám người, nhà ở, đồ vật, thư tín phải
theo thủ tục quy định cụ thể (Điều 2);

- Luật số 101-SL-L003 ngày 20/05/1957 quy định quyền tự do hội họp. Theo
đó, quyền tự do hội họp của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm, không ai được
xâm phạm đến quyền tự do hội họp (Điều 1);
- Sắc luật số 003-SL ngày 18/06/1957 quy định quyền tự do xuất bản: Quyền
tự do xuất bản của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Tất cả các xuất bản phẩm
đều không phải kiểm duyệt trước khi xuất bản, trừ trong tình thế khẩn cấp, nếu
Chính phủ xét cần (Điều 1);
- Luật số 103-L005 ngày 20/05/1957 quy định về quyền tự do thân thể và
quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của công dân...
Song song với việc Hiến pháp và pháp luật ghi nhận và bảo vệ các quyền
TDDC của công dân, Nhà nước cũng quy định các biện pháp xử lý khác nhau từ
nhẹ đến nặng, trong đó có các biện pháp hình sự đối với các hành vi xâm phạm tới
quyền TDDC của công dân như:
- Luật quy định quyền lập hội ban hành ngày 24/01/1957 quy định: Người nào


15

xâm phạm đến quyền lập hội hoặc đến quyền tự do vào hội, ra hội của người khác
có thể bị cảnh cáo hoặc bị truy tố trước toà án và bị xử phạt tù từ một tháng đến một
năm (Điều 7); Người nào lợi dụng quyền lập hội để hoạt động nguy hại đến lợi ích
nước nhà, lợi ích nhân dân như là chống pháp luật, chống lại chế độ, chống lại chính
quyền dân chủ nhân dân, chia rẽ dân tộc, hại đến thuần phong mỹ tục, phá hoại sự
nghiệp đấu tranh cho hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ của Tổ quốc, phá tình
hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước, tuyên truyền chiến tranh, sẽ bị
truy tố trước Toà án và xử phạt theo luật pháp hiện hành, hội có thể bị giải tán và tài
sản của hội có thể bị tịch thu (Điều 8);
- Luật bầu cử đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành
ngày 13/01/1960 đã dành Chương VIII quy định về kỷ luật bầu cử, trong đó quy
định một số hình phạt cụ thể như: Người nào dùng thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc

hoặc cưỡng ép làm trở ngại đến quyền tự do bầu cử và ứng cử của công dân thì có
thể bị phạt tù đến hai năm (Điều 56); Nhân viên trong các Hội đồng bầu cử, Ban
bầu cử, Tổ bầu cử và nhân viên trong các tổ chức chính quyền phạm tội giả mạo
giấy tờ, gian lận phiếu hoặc dùng mọi thủ đoạn khác để làm sai lạc kết quả cuộc bầu
cử có thể bị phạt tù đến ba năm (Điều 57); Mỗi người đều có quyền tố cáo các việc
làm trái phép trong lúc bầu cử, ai cản trở hoặc trả thù người tố cáo thì có thể bị phạt
tù đến ba năm (Điều 58)12.
Qua các lần ban hành Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, các quy
định về quyền công dân vẫn được Nhà nước ta ghi nhận, tôn trọng và bảo vệ. Năm
1975, đất nước ta kết thúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Giai đoạn từ năm 1976 đến trước khi ban hành BLHS
năm 1985, Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, trong đó có
những văn bản đề cập đến các quy định về bảo vệ quyền tự do thân thể, song chủ
yếu liên quan đến biện pháp bắt người, tạm giữ, tạm giam như:

12

Trịnh Tiến Việt (chủ biên) (2010), Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân theo luật hình sự Việt
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 83-92.


16

- Sắc luật số 03/SL ngày 15/03/1976 của Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định việc bắt, giam, khám người, khám
nhà, khám đồ vật;
- Quyết định số 181-NQ/QHK6 ngày 02/01/1978 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội giao cho TAND đặc biệt xét xử những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng về trật tự
xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Có thể thấy trong giai đoạn này Nhà nước ta đã có sự quan tâm đặc biệt đến

việc tôn trọng, bảo vệ các quyền cơ bản của công dân như quyền về kinh tế, quyền
chính trị, quyền văn hóa, quyền TDDC về chính trị, quyền bầu cử, ứng cử, quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí... Những văn bản pháp luật được ban hành trong giai
đoạn này đã bước đầu cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về bảo vệ các quyền
TDDC đó của công dân và ngày càng được quy định đầy đủ hơn.
1.2.2. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực thi hành
Ngày 27/6/1985, Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam ra đời. Để bảo vệ các quyền TDDC của công dân, Chương III Phần các tội
phạm của Bộ luật đã quy định về “Các tội xâm phạm những quyền TDDC của công
dân”, gồm 10 điều luật (từ Điều 119 đến Điều 128), trong đó quy định rõ các cấu
thành tội phạm, trách nhiệm hình sự, mức và loại hình phạt tương ứng đối với mỗi
tội phạm: Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 119); Tội xâm phạm
chỗ ở của công dân (Điều 120); Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện
thoại, điện báo của người khác (Điều 121); Tội xâm phạm quyền bầu cử của công
dân (Điều 122); Tội buộc người lao động thôi việc trái pháp luật (Điều 123); Tội
xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, quyền hội họp, quyền lập hội của công dân
(Điều 124); Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ (Điều 125); Tội xâm phạm
quyền tác giả, quyền sáng chế, quyền phát minh (Điều 126); Tội xâm phạm quyền
khiếu nại, tố cáo của công dân (Điều 127). Riêng Điều 128 quy định về hình phạt bổ
sung, theo đó người nào phạm một trong các tội quy định ở các Điều từ 119 đến
124, Điều 126 và Điều 127, thì có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ nhất định
từ 02 năm đến 05 năm.


17

Như vậy, với các quy định này, lần đầu tiên các hành vi xâm phạm quyền
TDDC bị coi là tội phạm được tập hợp lại và xây dựng thành hệ thống đồng bộ các
quy phạm hình sự với các quy định cụ thể về tội danh, các tình tiết, yếu tố CTTP,
hình thức TNHS và các hình phạt áp dụng. Các điều luật này đã tạo thành hệ thống

các quy phạm pháp lý hình sự có tính chất “cấm” – nhằm phòng ngừa và xử lý
những hành vi phạm tội xâm phạm đến các quyền TDDC của công dân, đồng thời
quy định cụ thể về các mức hình phạt tương ứng với từng hành vi cụ thể.
Ngày 15/04/1992, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 được ban hành vẫn tiếp tục
kế thừa và ghi nhận các quyền TDDC của công dân từ các bản Hiến pháp trước tại
các quy định tại Chương V về “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Tương
thích với BLHS năm 1985, Nhà nước cũng ban hành một số văn bản liên quan đến
việc bắt, giam giữ, khám nhà, khám người, khám đồ vật... nhằm bảo vệ các quyền
TDDC của công dân. Điển hình nhất là Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã quy
định những nguyên tắc cơ bản về bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong hoạt
động tố tụng hình sự để giải quyết vụ án như: Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản
của công dân (Điều 3); Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
(Điều 4); Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (Điều 5); Bảo
hộ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân (Điều 6); Bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện
tín của công dân (Điều 7)13.
Sau khi ban hành BLHS năm 1985, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã
ban hành Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày 29/11/1986 về Hướng dẫn áp dụng một
số quy định trong Phần các tội phạm của BLHS, trong đó tập trung hướng dẫn riêng
tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong Chương các tội xâm phạm quyền
TDDC của công dân như giải thích rõ: Khách thể của tội phạm, mặt khách quan của
tội phạm, chủ thể của tội phạm.

13

Trịnh Tiến Việt (chủ biên) (2010), Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân theo luật hình sự Việt
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 95


18


1.2.3. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực thi hành
Trong quá trình thi hành, BLHS năm 1985 đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần
qua các năm 1989, 1991, 1992, 1997, và đến năm 1999 Quốc hội nước ta đã ban
hành BLHS mới. Các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân được quy định tại
Chương XIII Phần các tội phạm của Bộ luật, gồm 10 điều từ Điều 123 đến Điều
132.
So với BLHS năm 1985, quy định về các tội xâm phạm quyền TDDC của
công dân trong BLHS năm 1999 chỉ bổ sung thêm 01 điều tương ứng với một tội
danh mới, nhưng thực chất là tách Điều 122 BLHS năm 1985 quy định hai hành vi
phạm tội trong cùng một điều luật thành hai điều luật quy định hai tội danh riêng
biệt (Điều 126 và Điều 127). Tuy nhiên, đối với các tình tiết là dấu hiệu định khung
hình phạt trong các tội xâm phạm quyền TDDC của công dân, BLHS năm 1999 quy
định nhiều hơn và chi tiết hơn. Tên tội danh, các khái niệm, các thuật ngữ cũng
được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn xét xử, phù hợp với tình hình kinh
tế - xã hội của nước ta và quy định của các ngành luật khác14.
Ngày 19/06/2009, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999
được Quốc hội khóa XII nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam thông qua. Tội xâm
phạm quyền tác giả (Điều 131) được chuyển sang Chương XVI về các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế (thành Điều 170a), do vậy Chương VIII về các tội xâm
phạm quyền TDDC của công dân chỉ còn 09 Điều từ Điều 123 đến Điều 130 và
Điều 132.
Hiện nay, ngoài BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định các tội
xâm phạm quyền TDDC của công dân, chúng ta còn có Bộ luật Tố tụng Hình sự
2003, Luật bình đẳng giới 2006... và nhiều văn bản pháp lý khác quy định về các
quyền TDDC của công dân.
Sau gần 15 năm thi hành BLHS năm 1999, đất nước ta đã có những chuyển

14


Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học BLHS Phần các tội phạm, Tập III - Các tội xâm phạm quyền tự do, dân
chủ của công dân; xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, Nxb. TP, Hồ Chí Minh, 2002, tr.4.


×