Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

KHAI QUAT LICH SU DANG CONG SAN VIET NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.7 KB, 25 trang )

BÀI 1: KHÁI QUÁT LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MỤC ĐÍCH YÊU CẦU:
Kính thưa các đồng chí!
Được sự phân công của Ban giám đốc Trung tâm, hôm nay tôi sẽ cùng với các đồng chí
nghiên cứu, tìm hiểu về chuyên đề: Khái quát lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, thông qua bài giảng
này sẽ giúp cho chúng ta nâng cao nhận thức về Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai
cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, khơi dậy niềm tự hào về những
thành tựu và truyền thống của Đảng, từ đó nâng cao niềm tin, có những cố gắng trong hoạt động
thực tiễn với những kết quả cụ thể góp phần thực hiện đường lối đổi mới hiện nay dưới sự lãnh đạo
của Đảng, để ngày càng nhiều quần chúng ưu tú phấn đấu gia nhập và gắn bó suốt đời với Đảng
cộng sản Việt Nam. Vì vậy, bài “Khái quát Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” có vị trí, ý nghĩa
quan trọng đặc biệt.
NỘI DUNG
Vào giữa thế kỷ XIX (ngày 01 tháng 9 năm 1858) Thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta
tại bán đảo Sơn Trà – Đà Nẵng. Triều đình nhà Nguyễn bất lực đã trao toàn bộ nước ta cho Pháp.
Ngay từ những ngày đầu Pháp thiết lập chế độ bảo hộ thuộc địa, các phong trào giải phóng dân tộc
của nhân dân ta diễn ra rất sôi nổi theo khuynh hướng tư sản và tiểu tư sản như: Phong trào Cần
Vương, PT Đông Du, PT Duy Tân… nhưng kết quả đều thất bại do bị bế tắc về đường lối giải
phóng dân tộc, do chưa có phương pháp cách mạng đúng đắn (hoạt động của Phan Bội Châu lại
muốn dựa vào Nhật để đánh Pháp giành độc lập, điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ
cửa trước, rước beo cửa sau; Phan Chu Trinh muốn xin Pháp thực hiện nhiều cải cách dân chủ,
điều đó chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương). Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc đã ra đi
tìm đường cứu nước. Vào dịp Tết năm Canh Ngọ, Người đã triệu tập Hội nghị hợp nhất ba tổ chức
cộng sản (Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên
đoàn) từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930 tại Hương Cảng-Trung Quốc thành một tổ chức cộng
sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, hội nghị thông qua một số văn kiện quan trọng
như: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng. Sau khi sáng lập, Người đã
tiếp tục lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
Qua tám thập kỷ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã thực hiện
cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 thành công, xoá bỏ hoàn toàn chế độ phong kiến và thành
lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2/9/1945 (Nay là nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt


Nam); tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước; tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
- Lịch sử đấu tranh của Đảng cộng sản Việt Nam là lịch sử đấu tranh kiên cường, bất khuất
và những bài học kinh nghiệm quý báu như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Là cả một pho lịch
sử bằng vàng, vì vậy học tập, nghiên cứu lịch sử Đảng là trách nhiệm và quyền lợi của mỗi chúng
ta.
Để nắm chắc bản chất của vấn đề, trong bài này chúng ta đi vào tìm hiểu những vấn đề sau:
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI, BƯỚC NGOẶT QUYẾT ĐỊNH CỦA CÁCH
MẠNG VIỆT NAM:

1. Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời.
3. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
II. NHỮNG THÀNH TỰU VẺ VANG CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM DƯỚI SỰ
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG:


1. Đảng lãnh đạo và tổ chức cuộc đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa giành chính quyền-cách
mạng tháng 8 năm 1945:
2. Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng và tiến hành thắng lợi
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)
a. Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)
b. Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống TD Pháp XL (1946-1954)
3. Đảng lãnh đạo tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược-đánh thắng đế quốc Mỹ xâm
lược (1954-1975)
4. Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN (Từ năm 1975 đến
nay)
III. NHỮNG TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM:
PHẦN GHI

PHẦN GIẢNG
I. Đảng cộng sản VN ra đời, bước
ngoặt quyết định của CMVN.
Ngày 3/2/1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, đó là kết quả
của sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo CN Mác-Lênin vào điều kiện cụ
thể ở nước ta; là sản phẩm của sự kết hợp của CN Mác-Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự ra đời của
Đảng đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta; phù hợp với xu
thế phát triển của thời đại. Vậy trước khi Đảng ra đời, tình hình
1.Tình hình xã hội Việt Nam trước xã hội VN như thế nào?
khi Đảng ra đời.
Vào giữa thế kỷ XIX (1858), khi được Triều đình nhà Nguyễn
nhân nhượng thực dân Pháp thiết lập chế độ thống trị, bảo hộ tàn
bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên toàn bộ lãnh thổ
nước ta.
- Về chính trị: thực dân pháp nắm giữ
các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà
nước, thi hành chính sách cai trị chuyên Pháp cho thi hành chính sách chuyên chế triệt để, mọi quyền
chế.
hành trong nước đều thâu tóm trong tay người Pháp, bọn vua
quan nam triều đều là một lũ bù nhìn tay sai. Nhân dân ta không
được hưởng một chút tự do dân chủ nào, mọi hoạt động yêu
nước đều bị chúng thẳng tay đàn áp, khủng bố.
ĐQP cho thi hành chính sách “chia để trị”, chúng chia nước ta
thành 3 kỳ với 3 chế độ chính trị khác nhau (bắc kỳ là xứ nửa
bảo hộ, trung kỳ là xứ bảo hộ, nam kỳ là xứ thuộc địa. Chúng tìm
cách chia rẽ giữa người kinh với các dân tộc thiểu số, giữa đồng
bào theo lương và đồng bào theo giáo. Mục đích của Pháp nhằm
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân và tr/thống đoàn kết của dt.

Bộ máy cường hào địa chủ ở nông thôn được chúng tận dụng
triệt để nhằm biến đây là công cụ để củng cố quyền uy của gc
thống trị Pháp.
Hội đồng quản hạt nam kỳ, viện dân biểu bắc kỳ & trung kỳ
được chúng mở rộng để lừa bịp nd ta. Chúng cho 1 số địa chủ và
ts vn tham gia vào 2 tổ chức trên để lôi kéo và phân hóa ts nước
ta đi theo chúng.
Sự cấu kết giữa CNĐQ và phong kiến tay sai là đặc trưng
của chế độ thuộc địa ở nước ta.
Sự cai trị của chính quyền thuộc địa đã làm cho nhân dân ta
mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ, mọi phong trào yêu


nước đều bị đàn áp dã man, mọi ảnh hưởng của các trào lưu tiến
- Về kinh tế: Thực dân Pháp thực hiện bộ từ bên ngoài vào đều bị ngăn cấm.
chính sách độc quyền, bóc lột tàn bạo
nhân dân ta, kìm hãm sự phát triển kinh
tế độc lập ở nước ta.
* Thực dân Pháp đầu tư khai thác vào trong tất cả các ngành,
song 2 ngành được chú trọng đầu tư nhiều nhất đó là nông
nghiệp

công
nghiệp.
-Trong nông nghiệp: Chúng đẩy mạnh việc cướp đoạt ruộng
đất của nông dân để thành lập các đồn điền mà chủ yếu là đồn
điền cao su. Chính vì vậy, diện tích trồng cao su tăng từ 15.000ha
(1918) lên 120.000ha (1930) với tổng số vốn đầu tư vào NN là
400tr
Phrăng

(gấp
10lần
trước
ctr).
-Trong công nghiệp: Chúng đẩy mạnh việc khai thác mỏ (chủ
yếu là mỏ than)…. đồng thời mở thêm một số xí nghiệp công
nghiệp chế biến như giấy, gỗ, diêm, rượu, xay xát để tăng cường

vét
tài
nguyên...
- Pháp còn đặt ra hàng trăm thứ thuế vố lý, vô nhân đạo làm
cho nhân ta bị bần cùng, nền kinh tế què quặt, lệ thuộc vào nền
-Về văn hoá-xã hội: Chúng thực hiện kinh tế pháp, để lại hậu quả nghiêm trọng kéo dài.
chính sách ngu dân, khuyến khích văn
hoá nô dịch, sùng Pháp, nhằm kìm hãm
nhân dân ta trong vòng tăm tối, dốt nát,
lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng.
Chẳng hạn như chúng khuyến khích các hđ mê tín, dị đoan,
rượu chè, cờ bạc, hút sách để ru ngủ nd ta làm cho nd ta xa rờ
nhiệm vụ cứu nước; trường học thì mở nhỏ giọt, chủ yếu là các
trường tiểu học, các trường trung học được mở ở các TP lớn
(HN, Huế, SG…), cả ĐD rộng lớn chỉ có 1 trường CĐẳng, trong
trường P bắt học ls P và nói tiếng P, mđích: đào tạo đội ngũ tay
sai trung thành với “mẫu quốc”.
Những thủ đoạn của thực dân Pháp cùng với chính sách khai
thác thuộc địa triệt để; làm cho xã hội Việt Nam có những biến
đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: GCCN và GCTS. Nước ta từ chế
độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Xã
hội Việt Nam tồn tại 2 mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn giữa toàn

thể dân tộc ta với với đế quốc Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa
nhân dân ta, chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong
kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ
nghĩa thực dân Pháp. 2 mâu thuẫn đó có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp xâm
lược là chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược
và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai không tách rời
nhau. Đấu tranh đòi ĐLDT phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền
dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của CMVN đặt ra, cần được giải
quyết.
2. Phong trào đấu tranh của nhân dân
ta trước khi Đảng ra đời.
Trước sự xâm lược của thực dân pháp và sự bạc nhược yếu hèn
của triều đình nhà Nguyễn, cuối thế kỷ XIX đầu TK XX, xã hội
việt nam dấy lên phong trào yêu nước với 2 khuynh hướng tư


- Nhân dân ta liên tiếp đấu tranh chống tưởng chủ yếu: tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản.
lại TDP với 2 khuynh hướng tư tưởng chủ
yếu là phong kiến và tư tưởng tư sản như:
Phong trào Cần Vương, Đông du, Đông
kinh - Nghĩa thục, Duy tân…; các cuộc
khởi nghĩa do Nguyễn Trung Trực, Phan
Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn
Thái Học… lãnh đạo, kết quả đều thất Các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến:
- Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực,
bại.
Nguyễn Hữu Huân... mặc dù thất bại nhưng nó có tác dụng cổ vũ
tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc Việt Nam.
- Phong trào cần vương. Ngày 13-7-1885, vua Hàm nghi

xuống chiếu cần vương. Phong trào cần vương phát triển nhanh
chóng khắp 3 miền bắc, trung, nam và kéo dài đến khi cuộc khởi
nghĩa
Phan
Đình
Phùng
thất
bại
1896.
Cuộc khởi nghĩa nông dân tiêu biểu nhất trong thời kỳ này là
cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo kéo dài
30
năm
(1883-1913)
Các phong trào yêu nước theo hệ tư tư tưởng dân chủ tư sản
- Phong trào Đông du (1906-1908) do nhà yêu nước Phan Bội
Châu lãnh đạo mở đầu cuộc vận động giải phóng dân tộc theo
khuynh hướng dân chủ tư sản. Phong trào này đã đưa một số
thanh niên yêu nước sang du học ở Nhật, dựa vào nhật để đánh
pháp, dùng thơ văn yêu nước để thức tỉnh nhân dân.
- Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907), do Lương văn
Can, Nguyễn Quyền lãnh đạo diễn ra khá sôi nổi dưới các hình
thức như: tuyên truyền cải cách, cổ vũ lòng yêu nước của nd.
- Phong trào Duy Tân (1906-1908) do Phan chu Trinh, Trần
Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng...lãnh đạo, nhằm vận động cải
cách văn hoá, động viên lòng yêu nước, đả kích bọn vua quan
phong kiến thối nát.
- Tổ chức Việt Nam quang phục hội (1912) nhằm đánh đuổi
giặc
Pháp

khôi
phục
Việt
Nam.
- Phong trào tư sản đtr chống các thế lực tư sản nước ngoài, đòi
cải cách dân chủ, độc quyền xuất khẩu ở cảng SG năm 1923.
- Phong trào yêu nước của các tầng lớp tiểu tư sản phát triển
mạnh như phong trào đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu
(1925), tổ chức đám tang và truy điệu cụ Phan Chu Trinh (1926).
- Sự ra đời và hoạt động của Việt Nam quốc dân đảng (1927)

cuộc
khởi
nghĩa
Yên
Bái
(1930)
Các cuộc kn, phong trào đtr đó vô cùng anh dũng, góp phần biểu
dương tinh thần yêu nước, bất khuất của dân tộc Việt Nam nhưng
- Nguyên nhân thất bại: do những hầu hết đều thất bại.
người yêu nước chưa tìm được con đường
cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát
triển xã hội Việt Nam.
*Trên thực tế các phong trào cứu nước từ các lập trường phong
kiến, tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đã thất bại vì
không có đường lối đúng đắn và không có khả năng dẫn dắt dân
tộc đấu tranh đến thắng lợi. Nhất là không biết dựa vào đường lối


quần chúng nhân dân mà chủ yếu dựa vào uy tin cá nhân nên

không tạo ra được súc mạnh tổng hợp, không tạo ra được sự
thống nhất cao trong những người khởi xướng phong trào. Vì
vậy mà khi người lãnh đạo bị bắt thì phong trào cũng thất bại
theo. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng đó nói lên
một sự thật: con đường dân chủ tư sản cuối cùng đều rơi vào tình
trạng bế tắc, không thể là con đường cứu nước. Xã hội Việt Nam
rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng cả về đường lối cứu nước
và phong trào lãnh đạo cách mạng. Thực tế đòi hỏi phải có một
đường lối cách mạng đúng đắn và một tổ chức cách mạng có khả
3. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu năng đưa phong trào yêu nước đi đến thắng lợi.
nước. Sự ra đời của Đảng CS Việt Nam
a. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu Được sinh ra và lớn lên trong cảnh nước nhà bị đô hộ, nhân dân
nước:
bần hàn, cực khổ, lầm than dưới những chính sách cai trị tàn
khốc của bọn Thực dân Pháp và bọn vua quan phong kiến tay
sai. Chứng kiến biết bao cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân
ta bị dìm trong biển máu, ngay từ thời trai trẻ, Người đã “sớm
có chí đuổi Thực dân Pháp, giải phóng đồng bào”. Mặc dù rất
khâm phục tinh thần yêu nước của các vị tiền bối nhưng anh
Nguyễn không tán thành con đường cứu nước của họ (hoạt
động của Phan Bội Châu lại muốn dựa vào Nhật để đánh Pháp
giành độc lập, điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ
cửa trước, rước beo cửa sau; Phan Chu Trinh muốn xin Pháp
thực hiện nhiều cải cách dân chủ, điều đó chẳng khác gì đến
xin giặc rủ lòng thương), anh muốn đi ra nước ngoài để xem
nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế
nào, sẽ trở về giúp đồng bào. Nhưng nếu đi một mình, thật ra
cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm… anh Nguyễn rủ
anh Lê cùng đi.
– Nhưng lấy đâu ra tiền mà đi. (anh Lê hỏi)

– Đây, tiền đây. Anh Nguyễn vừa nói vừa giơ hai bàn tayChúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để
sống và để đi.
Bị lôi cuốn bởi lòng hăng hái của anh Ng, Lê đồng ý.
Nhưng sau khi suy nghĩ kỹ về cuộc phiêu lưu, Lê không có đủ
can đảm để giữ lời hứa. Vài ngày sau anh Nguyễn đi ngoại
quốc.
- Ngày 5-6-1911 Nguyễn Tất Thành rời
5/6/1911 trên một chuyến tàu Pháp của hãng vận tải hợp
đất nước ra đi tìm đường cứu nước. Vừa nhất (hãng 5 sao)-đô đốc latuxơ cập bến SG để lấy hàng và đón
lao động, vừa học tập, quan sát, nghiên khách. Một buổi trưa, 1 người trai trẻ bước lên tàu (anh
cứu lý luận và kinh ngiệm các cuộc cách Nguyễn). Sau một phút ngập ngừng, anh hỏi xin việc. Những
mạng tư sản điển hình như: Pháp, Mỹ và người làm việc ở phòng ăn của các sĩ quan trên tàu cười và trả
tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp.
lời là không có việc vì thấy anh Nguyễn có vẻ là 1 học trò,
không phải là người lao động. Mọi người nói nhỏ với nhau
“một người như thế có thể làm được việc gì trên tàu?”. Ông Mai
tự nhiên thấy thương hại anh Ng và nói: “đi theo tôi, tôi sẽ dẫn
anh dến gặp chủ tàu. Có lẽ ông ta sẽ có việc cho anh làm”.
-Anh có thể làm được việc gì?
-Tôi có thể làm bất cứ việc gì!


Chủ tàu cho anh N làm phụ bếp. Anh N xưng tên là Ba.
Phụ bếp trên tàu mỗi ngày phải làm từ 4h s, quét dọn sạch sẽ
nhà bếp lớn trên tàu rồi đốt lửa trong các lò. Sau đó đi khuân
than, rồi xuống hầm lấy rau thịt, cá, nước đá… Công việc khá
nặng nhọc vì dưới bếp rất nóng và trong hầm rất rét. Nhất là khi
vừa phải vác một bao nặng vừa leo lên những bậc thang trong
khi tàu tròng trành. Xong việc ấy, phải dọn cho bọn chủ bếp
Pháp ăn. Sau đó, rửa chảo nồi, nhặt rau và đun lò lại. Cv kéo dài

suốt ngày, phục vụ cho 700-800 người cả nhân viên và hành
khách. Có nhiều cái chảo bằng đồng lớn và nặng, anh Ba phải
kéo lê trên sàn, và có những cái nồi cao quá, anh phải leo lên
ghế để chùi, luôn luôn nghe tiếng: -Ba-đem nước đây. Ba- dọn
chảo đi. Ba-thêm than chỗ này, thêm than chỗ kia.
-) Phải dùng hết tinh thần và sức lực để làm việc, lương chỉ
được 10 quan, nhưng học được nhiều điều, một lần thấy gái
điếm nhảy lên tàu sĩ quan Pháp, anh Ba thầm nhủ “tại sao người
P không khai hóa dân tộc họ trước khi khai hóa các dt khác”.
Làm thuê trên chiếc tàu đi vòng quanh châu Phi, tận mắt trông
thấy những cảnh khổ cực, chết chóc của người da đen dưới roi
vọt của bọn thực dân, Nguyễn Tất Thành nghĩ: Đối với bọn thực
dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng
không đáng một xu.
Ngoài ra, người còn làm nhiều việc khác như: đánh bóng đồ
đồng, quét tuyết ở trường học, bồi bàn, đốt lò, rửa ảnh…
- Giữa tháng 12-1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, Người
dành một phần thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn
thời gian dành cho học tập, nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ
năm 1776. Khi thăm pho tượng Thần Tự do, Nguyễn Tất Thành
không để ý đến ánh hào quang quanh đầu tượng mà xúc động
trước cảnh những nô lệ da đen dưới chân tượng.
- Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành từ Mỹ sang Anh và cuối
năm
1917
trở
lại
Pháp.
- Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) giết hại biết bao
sinh mạng, phá huỷ vô vàn của cải. Qua đó Nguyễn Ái Quốc

càng hiểu thêm bản chất của chủ nghĩa tư bản.
- Quá trình nghiên cứu, xem xét Cách mạng tư sản Mỹ (1776)
và Cách mạng tư sản Pháp (1789) đã giúp Nguyễn Ái Quốc học
hỏi được nhiều điều. Tuy vậy, Người vẫn đánh giá những cuộc
- Cách mạng Tháng Mười Nga năm cách mạng tư sản là “những cuộc cách mạng không đến nơi”.
1917 nổ ra và dành thắng 1ợi đã ảnh
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng 1ợi là sự kiện
hưởng rất lớn đến Nguyễn Ái Quốc.
chính trị lớn nhất của thế kỷ XX, mở ra thời đại mới trong lịch sử
loài người, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới, thời đại thắng lợi của cách mạng
giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản.
Và đối với Nguyễn Ái Quốc sự kiện này đã đánh dấu bước
ngoặt trong cuộc đời hoạt động của Người, ngưỡng mộ cuộc
cách mạng đó và kính phục Lênin, Người đã lên tiếng ủng hộ
CMT10 Nga và hướng về nước Nga Xô Viết.


Tháng 3-1919 Lênin và gcvs thế giới sáng lập ra Quốc tế
Cộng sản lt3 (Quốc tế ba), Chính trong thời gian này NAQ xin
gia nhập Đảng Xã hội F và là người lập ra Hội Việt Kiều yêu
nước ở F. Tháng 6/1919 Hội nghị Vecxai của các nước thắng trận
trong ctr tg lt1 họp tại Pari để phân chia lại thế giới. Thay mặt
Hội những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi đến
Hội nghị bản yêu sách 8 điểm với ndung đòi đlập, tự do cho
ndân-những yêu sách “tối thiểu” và “cấp thiết”. Tổng thống Mỹ
Uynxơn (Wilson), tác giả chương trình 14 điểm với chiêu bài dân
tộc tự quyết cũng có mặt ở Hội nghị. Nhưng những yêu sách dù
khiêm tốn của Người không được Hội nghị đáp ứng.
Sự kiện này đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ “chủ nghĩa

Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn...”. Những lời tuyên bố tự do
của nhà chính trị tư sản trong lúc chiến tranh thực ra chỉ là những
lời đường mật để lừa bịp các dân tộc. Muốn được giải phóng, các
dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, chỉ có mình mới tự cứu
lấy mình, nd ĐD phải tự đứng lên giải phóng khỏi gông xiềng áp
bức. Tháng 12/1920 tại ĐH của Đảng xã hội F họp ở Tua NAQ
đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế 3, tham gia sáng lập
ĐCS F và trở thành người cộng sản VN đầu tiên.

-Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc
bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
Lênin. Luận cương đã giúp Người thấy rõ Như vậy NAQ đã tìm ra con đường cứu nước giải phóng dt đúng
con đường thắng lợi của cách mạng giải đắn-con đường CMVS, nó khắc phục được sự khủng hoảng về
phóng dân tộc, đó là con đường cách đường lối cứu nước tồn tại mấy thập kỷ ở nước ta.
mạng vô sản.
b.Sự ra đời của Đảng CS Việt Nam

Trở thành người Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc vừa say sưa hoạt
động vừa tự học tập làm phong phú cho sự hiểu biết của mình,
đồng thời truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin đến với gccn và nông
dân ở nước ta. Quá trình đó cũng là quá trình Người từng bước
vạch đường lối chiến luợc cho cách mạng Việt Nam.
-Trước hết Người hoạt động trong ptr công nhân Pháp để tranh
thủ tối đa sự giúp đỡ của ĐCS F đối với CMVN và vận động
kiều
bào
hướng
về
tổ

quốc.
-Tháng 7-1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến sĩ cách
mạng ở nhiều nước thuộc địa Pháp sáng lập ra Hội liên hiệp các
dân tộc thuộc địa ở Pari để đoàn kết các lực lượng cách mạng
chống CNTD (thông qua tổ chức đó truyền bá CN Mác-Lênin
đến
các
dân
tộc
thuộc
địa).
Hội đã ra tờ báo “Người cùng khổ” đã vạch trần chính sách
đàn áp bóc lột dã man của TD ĐQ, đã thức các dt bị áp bức nổi
dậy đtr tự giải phóng. Ngoài việc viết bài cho báo “Người cùng
khổ”, Nguyễn Ái Quốc còn viết bài cho các báo Nhân đạo (cơ
quan ngôn luận của ĐCS F), Đời sống công nhân (cơ quan ngôn
luận của Tổng liên đoàn lao động F).
Người đã dự Đại hội lần thứ nhất và thứ hai của Đảng Cộng
sản Pháp. Người tiếp tục chỉ ra sai lầm của Đảng Cộng sản Pháp
về vấn đề thuộc địa. Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc bắt


đầu viết tác phẩm nổi tiếng Bản án chế độ thực đân Pháp nhằm
vạch trần bản chất chủ nghĩa đế quốc và kêu gọi “Dân bản xứ
không cam chịu nhục được mãi, phải vùng lên”. Người nêu lên
mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng
giải phóng thuộc địa qua hình ảnh “chủ nghĩa đế quốc là một con
đỉa hai vòi. Muốn giết con đỉa ấy người ta phải đồng thời cắt cả
hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia
vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục

sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”. Tác phẩm Bản án chế độ
thực dân Pháp có giá trị lớn về mặt lý luận, thực tiễn.
Giữa năm 1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đến Pêtơrôgrát
(Liên Xô). Mục đích của Người là học tập thêm, nghiên cứu sâu
sắc hơn chủ nghĩa Mác – Lênin & muốn tận mắt chứng kiến
công
cuộc
xd
CNXH

Lxô.
- Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung
Quốc) vì đây là cái nôi của cách mạng TQ và là nơi học tập, hoạt
động của hàng trăm thanh niên trí thức yêu nước của VN.
Tại đây Người tìm hiểu tổ chức “tâm tâm xã” N đánh giá rất
cao thinh thần yêu nước của những thanh niên trong tổ chức này
nhưng với sự nhạy bén chính trị thì N phê phán do không có
cương lĩnh rõ ràng lại hđ manh động thiên về ám sát cá nhân.
NAQ đã cải tổ tổ chức TTX thành “Hội VN cách mạng thanh
niên” với hạt nhân là cộng sản đoàn đồng thời hướng tổ chức này
theo con đường cm vô sản, Hội VNCMTN là tiền thân của
ĐCSVN sau này.
1925-1927 Người mở nhiều lớp BD ngắn hạn để bồi dưỡng 75
cán bộ ưu tú, những hv xuất sắc được gửi đi học ở trường “ĐH
+ Thành lập Hội Việt Nam cách mạng phương đông”, những hv còn lại N đưa về nước trong Ptr “vô sản
thanh niên.
hóa”. Những bài giảng của N trong các lớp huấn luyện được tập
hợp lại in thành sách “Đường cách mệnh”-là cuốn sách gối đầu
giường của các cán bộ cm lúc đó.
Trong 2 năm 1926-1927 các tác phẩm & sách báo của N được

đưa về tổ quốc, nó kết hợp với sự hđ tích cực của các hội viên vô
sản hóa làm cho pt công nhân nước ta phát triển về chất. Đây là
bước chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức cho việc ra đời
1
chính
đảng
kiểu
mới

VN.
1929 ptr công nhân VN phát triển mạnh mẽ, ở nước ta gần như
cùng 1 lúc xuất hiện 3 tổ chức cs.

- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng
sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.

Tại số nhà 312 phố khâm thiên, đã thông qua Tuyên ngôn,
Điều lệ Đảng.

- Mùa thu năm 1929, An Nam Cộng sản
Như vậy, từ tháng 6/1929-01/1930 Việt Nam đã ra đời 3 tổ
Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
- Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cộng sản chức cộng sản. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào
cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên 3 tổ chức trên đây đều tự cho
Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
rằng mình mới là cộng sản chân chính. Vì vậy không tránh khỏi


việc tranh giành ảnh hưởng, tranh giành quần chúng, thậm chí
công kích lẫn nhau, nguy cơ có thể dẫn đến chia rẽ lớn.

Nhu cầu cấp thiết của cách mạng là cần có 1 Đảng thống nhất
lãnh
đạo.
Ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản gửi cho những người
cộng sản ở Đông Dương tài liệu Về việc thành lập một Đảng
cộng sản ở Đông Dương, chỉ rõ: "Việc thiếu một Đảng Cộng sản
duy nhất trong lúc phong trào quần chúng công nhân và nông
dân ngày càng phát triển, đã trở thành một điều nguy hiểm vô
cùng cho tương lai trước mắt của cuộc cách mạng ở Đông
Dương". Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh: "Nhiệm vụ quan trọng
nhất và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông
Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp
của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính chất
quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ
chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương". Song, tài liệu này chưa
đến tay những người cộng sản Việt Nam. Lúc đó Nguyễn ái Quốc
đang ở Xiêm tìm đường về nước thì nhận được tin Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên phân liệt, "những người cộng sản chia
thành nhiều phái", Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Hương Cảng
(Trung Quốc). Được sự ủy nhiệm của QTCS, Nguyễn Ái Quốc
đã triệu tập "đại biểu của hai nhóm (Đông Dương và An Nam)"
và chủ trì Hội nghị hợp nhất đảng tại Cửu Long (Hương Cảng,
Trung Quốc) từ ngày 3-7/02/1930. Hội nghị bắt đầu họp ngày 61-1930. Tham dự Hội nghị có hai đại biểu của Đông Dương
Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh) và hai
đại biểu của An Nam cộng sản Đảng (Nguyễn Thiệu và Châu
Văn Liêm). Tổng số đảng viên của Đông Dương cộng sản Đảng
và An Nam cộng sản Đảng tới Hội nghị hợp nhất là 310 đồng
chí (ở Xiêm: 40, Bắc Kỳ: 204, Nam Kỳ: 51, Trung Quốc và nơi
khác: 15, Trung Kỳ thì ghép vào Bắc Kỳ và Nam Kỳ).
Hội nghị hoàn toàn nhất trí, tán thành việc hợp nhất hai tổ

chức Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng
thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam;
thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình
tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng. Nhân dịp thành lập Đảng,
Nguyễn Ái Quốc viết Lời kêu gọi công nhân, nông dân, binh
lính, học sinh, anh chị em bị áp bức bóc lột hãy gia nhập Đảng,
đi theo Đảng để đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến An Nam và
tư sản phản cách mạng "làm cho nước An Nam được độc lập".
Hội nghị cũng vạch kế hoạch hợp nhất các tổ chức cộng sản
trong nước và thành lập Ban Chấp hành Trung ương lâm thời.
Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 8-2-1930 các đại biểu về nước thực
hiện kế hoạch hợp nhất các cơ sở đảng ở trong nước. Ban Chấp
hành Trung ương lâm thời của Đảng được thành lập gồm có
Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Lan, Nguyễn Văn Hới, Nguyễn Phong
Sắc, Hoàng Quốc Việt, Phan Hữu Lầu, Lưu Lập Đạo, do Trịnh
Đình Cửu đứng đầu. Tiếp đến các xứ uỷ cũng được thành lập.
Đỗ Ngọc Du là Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ, Nguyễn Phong Sắc-Bí thư


Xứ uỷ Trung Kỳ, Ngô Gia Tự-Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ.
Ngày 24-2-1930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên
đoàn, Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời họp và ra Quyết
nghị chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau này, Đại hội toàn quốc lần thứ III
- Từ ngày 3-7/2/1930 Hội nghị hợp nhất 3 của Đảng (1960) căn cứ vào những tài liệu hiện có, đã ra Nghị
tổ chức CS họp tại bán đảo Cửu Long – quyết về ngày thành lập Đảng, trong đó ghi rõ: "lấy ngày 3 tháng
Trung Quốc dưới sự chủ trì của Nguyễn 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng".
Ái Quốc. Hội nghị nhất trí, thành lập một
đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam; thông qua Chính cương vắn

tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm
tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm
tắt của các Hội quần chúng.
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo thông qua
tại hội nghị xác định những nội dung cơ
bản của Cách mạng Việt Nam.

* Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt và Chương trình tóm tắt do Nguyễn ái Quốc
soạn thảo. Các văn kiện đó hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng ta. Nội dung cơ bản như sau:
^Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam
là: Cm vn trải qua 2 gđ: trước làm cmtsdq, sau làm cm dt dcnd. 2
gđ cm đó kế tiếp nhau ko có bức tương nào ngăn cách. Nvậy là
ngay từ đầu ĐCS VN đã thấu suốt cđường Ptriển tất yếu của cm
nước ta là con đường kết hợp và giương cao 2 ngọn cờ ĐLDT
&CNXH.
^NV cm Ts dquyền là: Về chính trị: đánh đổ bọn ĐQ Pháp, bọn
PK &gcts phản cm làm cho nước VN được đlập, dựng lên cf
công-nông-binh, tổ chức ra quân đội công-nông; về kinh tế: tịch
thu hết sản nghiệp lớn của bọn ĐQ &ruộng đất của bọn ĐQ và
bọn fản cm đem chia cho dân cày nghèo, tiến hành cm ruộng đất
mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày
nghèo, thi hành luật ngày làm tám giờ, đem lại RĐ cho ndân.
Nvậy các Nvụ đó bao hàm cả nd dt&dc, chống ĐQ&tay sai
fđộng, jành đl td cho toàn thể dt.
^LL của cm vn bgồm tất cả những ai là người vn yêu nước,
những ai chưa ra mặt phản bội cm. Trong đó công-nông là gốc

của cm; đồng thời phải hết sức liên lạc với TTS trí thức, trung
nông…để kéo họ về phe gcvs; còn đv fú nông, trung tiểu đchủ
&tsvn mà chưa lộ rõ mặt fản cm thì phải lợi dụng or ít ra cũng
làm cho họ trung lập.
Nguyễn Ái Quốc phác thảo đường lối cứu nước. Nội dung cơ
bản
như
sau:
Một là: Chỉ có cách mạng vô sản là cách mạng triệt để, vì lợi
ích
của
đại
đa
số
dân
chúng.
- Nguyễn Ái Quốc phân tích những cuộc cách mạng điển hình
trên thế giới, từ Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776 đến Cách mạng


tư sản Pháp năm 1789, từ Công xã Paris năm 1871 đến Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sau khi so sánh cách mạng
tư sản với cách mạng vô sản, Người khẳng định: “Cách mệnh
Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách
mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong
thì nó tước đoạt công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách
mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu
cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”.
- Người khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh
Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là đân chúng

được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật. Nguyễn Ái
Quốc nhấn mạnh: “làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân
chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người: Thế mới khỏi
hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc. Đây là
điểm xuất phát và là điểm khác nhau cơ bản giữa con đường cứu
nước của Nguyễn Ái Quốc với các con đường cứu nước trước
kia.
Hai là: Mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam
là chủ nghĩa xã hội, muốn xoá bỏ chế độ người bóc lột người,
muốn có tự do, hạnh phúc, bình đẳng thật sự thì phải qua hai
cuộc cách mạng: cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với
nhau.
Ba là: Về lực lượng cách mạng, công nông là gốc của cách
mệnh, học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công
nông. Ai mà bị áp bức càng nặng, thì lòng cách mệnh càng bền,
chí cách mệnh càng quyết. Cách mệnh là việc chung của cả dân
chúng chứ không phải là việc của một hai người.
Bốn là: Về phương pháp cách mạng. Cùng với việc hoạch định
đường lối cách mạng, Nguyễn Ái Quốc phác thảo cả phương
pháp cách mạng. Người cho rằng giải phóng gông cùm nô lệ cho
đồng bào, cho nhân loại là công việc “to tát”, cho nên phải “dùng
hết sức”, phải “quyết tâm làm thì chắc được”, “thà chết tự do hơn
sống làm nô lệ”. Nhưng phải “biết cách làm thì mới chóng”.
“Cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ”. Tiếp theo tư
tưởng khởi nghĩa vũ trang quần chúng giành chính quyền đề ra
từ năm 1924, trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc phát triển
thêm: “dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không
chống lại nổi”. Đời này làm chưa xong, đời sau nối theo làm thì
phải xong”. Về phương pháp cách mạng, quan điểm của Nguyễn

Ái Quốc là quan điểm cách mạng bạo lực. Người chỉ ra những
thiếu sót của những người đi trước như “xúi dân bạo động mà
không bày cách tổ chức”, hoặc “làm cho dân quen tính ỷ lại mà
quên tính tự cường”. Tóm lại là phải có sách lược, mưu chước,
kế hoạch, biết lúc nào nên làm, lúc nào chưa nên làm.
Năm là: Đoàn kết quốc tế. “Cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng thế giới. Ai làm cách mạng trên thế giới là
đồng chí của Việt Nam”. “Chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên
lạc tất cả những đảng cách mệnh trong thế giới để chống lại tư


- Sự ra đời của Đảng CSVN là 1 mốc lớn,
bước ngoặt vĩ đại của CMVN. Chấm dứt
khủng hoảng đường lối cứu nước. Sự ra
đời của Đảng gắn liền với tên tuổi Hồ Chí
Minh - người sáng lập và rèn luyện Đảng
ta.

bản

đế
quốc
chủ
nghĩa.
Đây là những quan điểm cơ bản về đoàn kết quốc tế mà Nguyễn
Ái
Quốc
đã
chú
ý

hai
điều:
Muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy
mình
đã.
Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động giành thắng lợi,
không ỷ lại, chờ đợi thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản. Đó
cũng là bài học đoàn kết quốc tế trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường của cách mạng nước ta từ khi Đảng lãnh đạo.
Sáu là: Cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng.
Ngay từ khi tìm được chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc
đã nắm vững quy luật, Đảng có vững cách mệnh mới thành công.
Muốn cho Đảng vững phải làm cho trong Đảng ai cũng hiểu, ai
cũng theo chủ nghĩa ấy (chủ nghĩa Mác - Lênin). Đảng không có
chủ nghĩa như người không có trí khôn.

Qua phần này chúng ta cần phải nắm vững những nội dung
sau: 1 là sự ra đờii của Đảng chấm dứt sự khủng hoảng về
đường lối cứu nước.
2 là CMVN bước vào quỹ đạo CMVS, GPDT trên lập
trường GCVS, ĐLDT gắn liền với CNXH.
3 là khẳng định quyền lãnh đạo cm thuộc về Đảng ta.
II/ NHỮNG THÀNH TỰU VẺ VANG
CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

Ngay khi vừa mới ra đời, với đường lối cách mạng đúng đắn,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã quy tụ đoàn kết xung quanh mình
tất cả các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, xây dựng nên lực
1. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo và lượng cách mạng to lớn và rộng khắp đấu tranh chống thực dân

tổ chức các cuộc đấu tranh cách mạng, Pháp và bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
khởi nghĩa giành chính quyền - Cách
mạng Tháng Tám 1945
- Qua 15 năm lãnh đạo cách mạng, trải
qua đấu tranh gian khổ hy sinh, Đảng
cộng sản Việt Nam từng bước vận động,
giáo dục quần chúng, qua ba cao trào
cách mạng lớn (1930 - 1931, 1936 1939, 1939 - 1945). Đây là ba cuộc diễn Mở đầu cho cao trào cách mạng 30-31 mà đỉnh cao là Xô Viếttập cách mạng để chuẩn bị cho Tổng khởi Nghệ Tĩnh là hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân các nhà
nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công máy xi măng Hải Phòng, dệt Nam Định, đồn điền cao su Dầu
Tiếng (Thủ Dầu Một). Tiếp đến là các cuộc đấu tranh của công
trọn vẹn.
nhân đồn điền cao su Phú Riềng, nhà máy xe lửa Dĩ An, nhà máy
diêm, nhà máy cưa Bến Thủy…
Cùng với các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân còn có
những cuộc đấu tranh của nông dân và các tầng lớp nhân dân
lao động khác. Những cuộc đấu tranh đó là khúc dạo đầu của cao


trào cách mạng rộng lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Cao trào cách mạng do Đảng Cộng sản chủ trương và
phát động đã kéo dài trên một năm, diễn ra trên 25 tỉnh thành
khắp cả ba miền đất nước và đạt tới đỉnh điểm trên đất Nghệ
Tĩnh.
Ở Nghệ Tĩnh, phong trào đtr bùng nổ vào sáng ngày 1-5 với
sự tham gia của công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy và
nông dân các huyện lân cận đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ
sưu, giảm thuế, chống khủng bố, ủng hộ cuộc đấu tranh của công
nhân nhà máy dệt Nam Định, ủng hộ Liên bang Xô Viết. Chính
quyền thực dân đã thẳng tay đàn áp cuộc đấu tranh đó. Ngày 1/
5/1930 là một mốc son trong cao trào cách mạng 30- 31. Vai trò

lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sức mạnh to lớn của
khối liên minh công - nông đã được biểu hiện rõ ràng trong
những cuộc chiến vang dội đó.
Hòa nhịp với phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân
Nghệ -Tĩnh đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình có vũ trang tự vệ kéo
đến các huyện Can Lộc ngày 4-8, Nam Đàn ngày 6-8, Thanh
Chương ngày 12-8, Nghi Lộc ngày 29-8, Nam Đàn (30-8).
Đến tháng 9 phong trào đấu tranh lên tới đỉnh điểm. Những
đoàn người biểu tình kết thành đội ngũ tiến vào huyện đường,
phá nhà giam, giải phóng tù nhân, đốt dinh tri huyện cùng với
giấy tờ, sổ sách trong đó. Bọn hào lý, địa chủ bỏ chạy. Đại bộ
phận các thôn xã thuộc huyện Thanh Chương, Nam Đàn, Anh
Sơn… chính quyền tay sai tan rã. Nhân dân đứng ra tổ chức,
điều hành công việc, trong thôn xã các xô viết hình thành. Mặc
dù quần chúng cách mạng đã tích cực đấu tranh chống mọi thủ
đoạn đàn áp, lừa bịp của địch, nhưng do lực lượng không cân
sức, phong trào Nghệ - Tĩnh dần dần đi xuống.
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao là Xô Viết
Nghệ Tĩnh chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, nhưng có ý nghĩa
hết sức to lớn. Cao trào cách mạng cùng sự ra đời của chính
quyền Xô Viết là kết tinh sức mạnh to lớn của khối liên minh
công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo, "đã chứng tỏ tinh
thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt
Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn luyện lực lượng có ý
nghĩa như 1 cuộc diễn tập đầu tiên của Đảng cho cuộc Cách
mạng tháng Tám thắng lợi sau này.
- Phong trào dân chủ 1936-1939: Chủ trương mới của
Đảng phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng bức thiết của quần
chúng, làm dấy lên trong cả nước một phong trào đấu tranh mạnh
mẽ, sôi nổi hướng vào mục tiêu trước mắt là tự do, dân chủ, cơm

áo và hòa bình.
Nắm cơ hội Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp quyết định
sẽ thả một số tù chính trị, thi hành một số cải cách xã hội cho lao
động ở các thuộc địa Pháp và cử một ủy ban điều tra thuộc địa
đến Đông Dương, Đảng phát động một phong trào đấu tranh
công khai của quần chúng, mở đầu bằng một hình thức vận động
lập "ủy ban trù bị Đông Dương đại hội" nhằm thu thập nguyện


vọng quần chúng, tiến tới triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân
Đông Dương. Hưởng ứng chủ trương của Đảng, quần chúng sôi
nổi tổ chức các cuộc míttinh, hội họp để đề ra các bản "dân
nguyện" gửi cho phái bộ điều tra của Chính phủ Pháp sắp sang
Đông Dương.
Trong một thời gian ngắn, ở khắp các nhà máy, hầm mỏ,
đồn điền, nông thôn đã lập ra các "ủy ban hành động" để tập hợp
quần chúng. Riêng ở Nam Kỳ đã có 600 ủy ban hành động.
Phong trào Đông Dương Đại hội là một hình thức phôi thai của
Mặt trận thống nhất nhân dân Đông Dương. Trước đà phát triển
mạnh mẽ của phong trào "Đông Dương đại hội" và do sức ép của
phong trào quần chúng ở Pháp, chính phủ Mặt trận nhân dân
Pháp đã phải trả lại tự do cho một số tù chính trị, ra nghị định
ngày làm 8 giờ cho công nhân và hàng năm công nhân được nghỉ
10 ngày có lương. Nhưng liền đó, thực dân Pháp lại ra lệnh giải
tán ngay các ủy ban hành động, cấm cuộc vận động "Đông
Dương đại hội" hòng dập tắt phong trào đấu tranh của quần
chúng.
Phong trào dân chủ 36-39 như cuộc diễn tập lần 2 chuẩn bị
cho khởi nghĩa tháng 8 sau này.
Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945:

Sau khi chiến tranh thế giới 2 bùng nổ, ĐCSĐ D đã cảnh cáo
TDP về nguy cơ xâm lược của PxN, đòi chúng phải nới rộng các
quyền tự do đân chủ, cải thiện đời sống nhân dân cùng nd Đ D
chống Nhật. Với bản chất thực dân, F chẳng những ko đáp ứng
những đòi hỏi chính đáng đó mà còn tăng cường khủng bố đàn
áp.
- Tháng 11 - 1939, hội nghị trung ương 6 họp tại Gia Định do
Nguyễn
Văn
Cừ
chủ
trì.
Với
Nội
dung:
Mục tiêu trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế
quốc và tay sai, làm cho Đông Dương và Việt Nam hoàn toàn
độc lập. Tạm gác khẩu hiệu Cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu
hiệu Tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản động,
chống địa tô cao và cho vay nặng lãi. Khẩu hiệu Thành lập
chính quyền Xô viết công - nông - binh được đổi thành Thành
lập chính phủ cộng hòa dân chủ Đông Dương.
Phương pháp đấu tranh: từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân
chủ sang đánh đổ chính quyền đế quốc tay sai. Chuyển từ đấu
tranh công khai, hợp pháp sang đấu tranh bí mật, bất hợp pháp.
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương
thay Mặt trận dân chủ Đông Dương bao gồm các tầng lớp, giai
cấp nhằm đoàn kết rộng rãi các gc để chĩa mũi nhọn vào kẻ thù
trước mắt của nhân dân ta là PXN &TDP nhằm làm cho Đông
Dương hoàn toàn độc lập.

*HN TW 6 đã đánh dấu bước chuyển hướng đúng đắn về chỉ đạo
chiến lược cách mạng, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc,
tăng cường mặt trận dân tộc thống nhất.
HN TW 6 còn thể hiện sự nhạy bén chính trị và năng lực sáng
tạo của Đảng trong qtrình lãnh đạo cm.


22/9/1940 Px N tiến vào lạng sơn, bọn TD F pử đây thua chạy
toán loạn. Tuy nhiên, chỉ mấy ngày sau đó N và F đã thỏa hiệp
với nhau để cho F quay trở lại đàn áp kn. Về phía F, mặc dù bị N
ức hiếp và tước đoạt hết mọi bề nhưng F vẫn dùng nhiều thủ
đoạn gian xảo để bóc lột nd ta nhằm thu lợi nhuận cao nhất.
Do sự thay đổi của tình hình 28/01/1941 đã trở về nước sau
30 năm xa quê hương. Mđích của Người là trực tiếp lãnh đạo Ptr
cm nước ta. Sau 1 thời gian chuẩn bị N đã triệu tập HN TW 8 từ
10-19/5/1941 tại Pắc Pó-Cao Bằng.
Sau khi phân tích tình hình trong nước và quốc tế. HNghị chỉ
rõ: kẻ thù của nd Đông dương là PX P-Nhật và ll tay sai của
chúng. Đồng thời chỉ rõ: trong lúc này nếu ta không đòi được
độc lập tự do cho tổ quốc thì chẳng những dân tộc ta phải sống
mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến
vạn năm cũng không đòi lại được. HNghị đặt vấn đề gpdt trong
phạm vi từng nước VN-L-CPC để phát huy tinh thần sáng tạo
độc lập của nd mỗi nước. HNghị quyết định tlập Việt Nam độc
lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh).
HNTW8 hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chlược và slược
đã đc đề ra ở HNTW6 và HNTW8 có tác dụng quyết định trong
việc tập hợp toàn dân ta tiến lên tổng kn giành chính quyền.
Đầu 1945 tình hình ở Đ D và thế giới có nhiều thay đổi: cuộc
ctr tg2 bước vào gđ cuối. Ở Châu âu, Px Đ bị quét khỏi lãnh thổ

Lx, nhiều nước đông âu được giải phóng. Ở mặt trận CA-TBD
Px N thua đậm đang giẫy dụa trong cơn tuyệt vọng. Ở ĐD, TDF
nhân cơ hội đó ngóc đầu dậy, chúng ráo riết tập hợp lực lượng
chờ thời cơ quân đồng minh tiến công N thì sẽ nổi dậy đánh N từ
phía sau. Px N đã hoàn toàn biết được mưu đồ của F, để trừ họa
từ phía sau N quyết định ra tay trước. 9/3/1945 N gửi cho F 1 tối
hậu thư đòi F trogn vòng 24h phải trao toàn bộ Đ D cho chúng.
Không cần đợi F trả lời vào 20h 9/3/1945 N nổ súng trên toàn cõi
Đ D, bọn TDF hèn hạ chỉ chống cự yếu đuối rồi sau đó quỳ gối
dâng toàn bộ nước ta cho N. Kể từ đây Px N đã độc chiếm hoàn
toàn Đ D và trở thành kẻ thù duy nhất cảu nd ĐD.
+ Chủ trương của Đảng: ĐCSĐD đã dự báo từ trước N và F
hào hoãn với nhau chỉ là tạm thời bởi vì 2 con thú đói khoogn thể
chung nhau 1 miếng mồi. Chính vì vậy ngay trong đêm N đảo
chính F Ban Thường vụ TW đã họp hội nghị bất thường để phân
tích và nhận định tình hình. 12/3/1945 Ban TVụ TW đã ra “chỉ
thị Nhật - Pháp đánh nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị
đã nêu rõ là điều kiện khởi nghĩa vũ trang đã chín muồi, phát xít
Nhật và tay sai của chúng là kẻ thù chính và cụ thể của cách
mạng Đông Dương, đồng thời kêu gọi quần chúng nhân dân
đứng lên giết giặc cứu nước hình thành 1 cao trào kháng N trên
toàn quốc làm tiền đề cho cuộc khởi nghĩa.
- Cách mạng tháng Tám 1945 - Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa thành lập.
Lê Nin đã từng dạy “CM không thể tự nó đến mà phải chuẩn
bị nó, phải giành lấy nó”. Cm muốn thắng lợi bên cạnh việc


chuẩn bị chu đáo về mọi mặt còn phải nổ ra đúng thời cơ. Thời
cơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn đk cq và kq, bên trong và bên

ngoài trong đó đk bên trong đóng vai trò quyết định.
Về kq: 8/5/1945 ở châu âu PX Đức bị tiêu diệt và tuyên bố đầu
hàng vô điều kiện, thực hiện lời cam kết với đồng minh LXô đã
tuyên chiến với Nhật, chỉ trong vòng 1 tuần lễ đã tiêu diệt hơn 1
triệu quân quan Đông của Nhật ở Mãn Châu-TQ. Cùng thời gian
này Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống Hirôxima và Nagazaki
làm chết 15 vạn dân NB vô tội (dù ko có ý nghĩa về mặt quân sự
nhưng nó đã làm cho tinh thần của chính quyền Nhật hoàn toàn
sụp đổ). Sau khi px Đức đầu hàng không điều kiện, 3 nước lớn
là liên xô, anh, mỹ họp Hội nghị từ 17/7 đến 02/8/1945 tại
Pốtxdam (Đức), Hn quyết định thành lập hội đồng ngoại trưởng
(gồm đại biểu Lx, M, A, P, TQ), theo tinh thần của hội nghị thì ll
đồng minh có nhiệm vụ giúp các nước giáp ll phát xít. Ở Việt
Nam, quân đội Tưởng với danh nghĩa đồng minh sẽ vào nước ta
từ vĩ tuyến 16 trở ra để giải giáp quân đội N (đằng sau quân đội
tưởng sẽ là các ll phản động như Việt quốc, Việt cách), còn từ vĩ
tuyến 16 trở vào là quân Anh cũng dưới danh nghĩa là đồng
minh vào tước khí giới của quân đội N (đằng sau quân Anh sẽ là
quân đội Pháp với âm mưu xâm lược nước ta lt2). Tất cả các ll
trên đây đều được ĐQM hậu thuẫn.
14/8/1945 ở châu á Nhật hoàng đầu hàng đồng minh. Quân
Nhật ở ĐD bị tê liệt. Chính phủ bù nhìn Trần trọng Kim hoang
mang cực độ, chưa bao giờ trên đất nước ta kẻ thù lại yếu đến
thế. Nd ta ở tư thế sẵn sàng vùng lên giành chính quyền.
Về chủ quan: Đảng và nd ta đã có quá trình chbị chu đáo và
lâu dài 15 năm. Dưới sự lđạo của Đảng quần chúng nd đã được
tập dược đtr nhiều lần qua 3 cao trào cm 30-31, 36-39, 39-45.
Lúc này thông qua cao trào kháng nhật cứu nước thì không khí
cm đã sôi sục khắp cả nước. Đảng ta đã được rèn luyện trong
lãnh đạo cm đang ở tư thế sẵn sàng phát động nd khởi nghĩa. Các

tầng lớp trung gian từ lâu đã chán ghét với cs thống trị tàn bạo
của px Nhật đã hoàn toàn đứng về phía cm. Như vậy thời cơ
ngàn năm có một đã đến. Trước thời cơ đó Đảng CSĐD đã họp
Hội nghị toàn quốc từ 13-15/8/1945 ở Tân Trào (Tuyên quang)
thông qua chủ trương phát động tổng kn và kêu gọi toàn dân nổi
dậy cướp chính quyền. Ngày 16-17/8/1945 cũng tại Tân Trào Đại
hội Quốc dân cũng họp và tán thành chủ trương tiến hành tổng
Kn của ĐCSĐông Dương, thể hiện sự nhất trí đoàn kết toàn
Đảng, toàn dân nhất tề đứng lên tổng kn giành chính quyền với ý
chí “ Cho dù có phải hy sinh đến đâu, cho dù có phải thiêu cháy
cả dãy Trường Sơn nd VN cũng phải quyết giàng cho được độc
lập dân tộc”.
*Thời cơ cho Cm t8 được gọi là thời cơ ngàn năm có một bởi
vì: nó chỉ diễn ra trong một thời gian rất ngắn đòi hỏi Đảng ta
phải nhanh chóng chớp lấy thời cơ để giành chính quyền. Nếu
trước ngày nhật đầu hàng đồng minh mà ta đã khởi nghĩa thì lực
lượng quân Nhật vẫn còn nguyên vẹn với đầy đủ tinh thần chiến


đấu sẽ đàn áp dữ dội cuộc kn, cm sẽ tổn thất nặng nề và khó có
thể thắng lợi. Và nếu sau ngày Nhật đầu hàng đồng minh mà ta
vẫn chần chừ chưa tiến hành kn thì lúc quân đồng minh kéo vào
Đ D các lực lượng phản động sẽ ngóc đầu dậy chính quyền tay
sai của đế quốc được thiết lập thời cơ cho cm sẽ qua đi. Còn từ
ngày 14/8 đến đầu tháng 9 khi quân Nhật ở Đ D đã mất hết tinh
thần chiến đấu bộ máy chính quyền hoàn toàn tan rã, quân đồng
minh chưa kéo vào, ta phát động kn cm sẽ thắng lợi nhanh
chóng. Sau đó với tư cách là 1 nước chủ nhà ta đứng ra đón tiếp
ll đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật.
Tổng khởi nghĩa tháng Tám giành chính quyền trong cả

nước: Ngay từ những ngày đầu tháng 8 - 1945, một không khí
gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa đã sục sôi trong cả nước. Khi nghe
tin Nhật đầu hàng Đồng minh, đồng thời thực hiện quyết định
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Hội nghị toàn quốc của
Đảng và Quốc dân đại hội họp ở Tân Trào thì cuộc khởi nghĩ vũ
trang của quần chúng đã chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang
tổng khởi nghĩa.
Ngày 15/8/1945 lệnh tổng kn về tới thủ đô.
16/8 truyền đơn biểu ngữ kêu gọi kn xuất hiện khắp nơi.
17/8 phe bù nhìn thân N tổ chức cuộc mittin tại nhà hát lớn
ủng hộ cf bù nhìn Trần Tr Kim. Đảng bộ Hà Nội đã bí mật huy
động quần chúng biến cuộc mittin thân N thành cuộc mittin ủng
hộ Việt Minh sau biến thành cuộc btình tuần hành qua các phố.
Sáng 19 - 8 - 1945, cả thủ đô Hà Nội tràn ngập khí thế cách
mạng. Đồng bào kéo tới quảng trường Nhà hát lớn dự cuộc mít
tinh do Mặt trận Việt Minh tổ chức. Cuộc mít tinh nhanh chóng
chuyển thành biểu tình, chia ra nhiều đoàn đi chiếm phủ khâm
sai, tòa thị chính, trại lính bảo an, sở cảnh sát, các công sở của
chính quyền bù nhìn. Trước khí thế quần chúng khởi nghĩa, hơn
1 vạn quân Nhật ở Hà Nội không dám chống cự, cuộc khởi nghĩa
thắng lợi hoàn toàn ở Thủ đô Hà Nội.
Từ 14-18/8/1945 qc nd ở nhiều địa phương từ Bắc đến nam
đã nổi dậy giành chính quyền. 4 tỉnh giành cq sớm nhất là Bắc
Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam.
25/8/1945 quần chúng nhân dân giành chính quyền ở sgòn.
Sáng 30 - 8 - 1945, Bảo Đại - ông vua cuối cùng của triều đại
- Ngày 2 - 9 - 1945, tại Quảng phong kiến nhà Nguyễn tuyên bố thoái vị, chấm dứt chế độ
kiến
hàng
nghìn

năm

nước
ta.
trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh phong
thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng
đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đây là
Ngày 2 - 9 - 1945, tại Quảng trường Ba Đình, trước hàng chục
nhà nước công nông đầu tiên ở ĐNA.
vạn đồng bào thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ
lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với
quốc dân và thế giới rằng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra
đời. Đây là một chiến thắng lớn của ta, nó đã phá tan 2 xiềng
xích nô lệ của Nhật - Pháp và lật nhào nền quân chủ chuyên chế
phong kiến tồn tại ngót 1000 năm. Nước ta từ 1 nước thuộc địa


trở thành nước độc lập, nhân dân ta từ nô lệ lên địa vị làm chủ
2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nước nhà. Đánh dấu bước nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, mở
nhân dân đấu tranh bảo vệ chính ra kỷ nguyên mới của ls dt, kỷ nguyên đldt gắn liền với cnxh.
quyền cách mạng và tiến hành thắng
lợi Cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược 1945 - 1954.
a. Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo
vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã
bị các nước đế quốc và các thế lực phản động trong nước và quốc
tế câu kết với nhau chống phá quyết liệt. Chưa bao giờ trên đất
nước Việt Nam có nhiều quân đội nước ngoài chiếm đóng như

vậy. Trong khi đó, lực lượng mọi mặt của Nhà nước Việt Nam
còn rất non yếu: nạn đói đang hoành hành, vận mệnh của đất
nước như "ngàn cân treo sợi tóc". Song, Đảng Cộng sản Việt
Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những
chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt
Đảng đề ra đường lối chính sách sáng chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng. Đối với các thế lực
suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa thù địch, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện sách lược mềm
mềm dẻo về sách lược, Đảng Cộng sản dẻo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hoá chúng, giành thời gian củng
Việt Nam đã động viên được sức mạnh cố lực lượng chuẩn bị kháng chiến.
đoàn kết toàn dân, triệu người như một,
vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm
tưởng như không qua được, củng cố, giữ
vững chính quyền đưa cách mạng vượt
qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi
mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống
thực dân Pháp.
b. Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
- Bất chấp nguyện vọng của nhân dân Việt Nam và mặc dù Chính
xâm lược (1946-1954)
phủ Việt Nam đã nhân nhượng, nhưng thực dân Pháp vẫn không
từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam lần nữa. Chính phủ Việt Nam
- Đêm 19 - 12 - 1946, Hồ Chủ tịch đã ra càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới.
lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
- Lịch sử đã đặt dân tộc Việt Nam trước một thử thách gay gắt
mới, phải đứng lên bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Đêm 19 - 12
- 1946, Hồ Chủ tịch đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng cộng sản Việt Nam và Hồ Chủ
tịch, nhân dân cả nước đã quyết tâm "thà hy sinh tất cả chứ
không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ"... Với đường lối

kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là
chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng cộng sản Việt Nam
đã lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn giành thắng lợi
- 7/5/1954 chiến dịch Điện Biên Phủ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
toàn thắng.
“Sau 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt …
ta đã làm nên chiến thắng ĐBP lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu”.


Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử (5 - 1954) mãi mãi ghi
vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một Bạch Đằng, một Chi Lăng
hay một Đống Đa của thế kỷ XX, đi vào lịch sử thế giới như một
chiến công chói lọi, đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc
địa của chủ nghĩa đế quốc, báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn không
tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân.
Đánh giá ý nghĩa thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
"Lần đầu tiên trong lịch sử một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh
thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang
của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các
lực lượng hoà bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội" (Hồ Chí Minh:
Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội).
Thắng lợi đó làm sáng tỏ một chân lý của thời đại: "Trong
điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc đất không rộng, người
không đông nếu biết đoàn kết và quyết tâm chiến đấu theo 1
3. Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến đường lối đúng đắn lại được sự ủng hộ của quốc tế thì có thể
hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược chiến thắng được mọi thế lực ĐQ hung bạo”.
Với thắng lợi của Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách
(1954 - 1975).
mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điểm là đất nước

tạm thời chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác
nhau. Con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam như
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là tiến hành đồng thời hai
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nhiệm vụ chiến lược:
nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc
thành căn cứ địa vững mạnh của cách
mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế
quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền
Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.

- Tuy mỗi miền thực hiện một nv chiến lược khác nhau nhưng
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ
sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan trọng có tác dụng trực
tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước tiếp tục Cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước với tinh thần "Không có gì quý
hơn độc lập, tự do", quyết "đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ
nhào". Trong cuộc đọ sức quyết liệt này, đế quốc Mỹ với một lực
lượng quân sự và phương tiện chiến tranh khổng lồ hòng tiêu
diệt lực lượng cách mạng Việt Nam. Song, trải qua 21 năm, dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chiến đấu kiên cường, lại được
sự đồng tình hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đã lần
Bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở
mùa Xuân năm 1975, với thắng lợi của miền Nam.



Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân
dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi Cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước,
đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.

Đánh giá tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lớn lao của Cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Nghị quyết ĐH lt IV của Đảng viết:
"Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc
ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng
ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí
Thắng lợi oanh liệt Mùa xuân 1975 đã kết tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ
thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn
phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt và có tính thời đại sâu sắc".
ách thống trị tàn bạo hơn một thế kỷ của
chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất
nước Việt Nam; hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ trong cả nước; bảo vệ
thành quả của chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch
sử dân tộc Việt Nam, mở ra thời kỳ mới thời kỳ độc lập thống nhất đi lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
4. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mạng Việt Nam có những thuận lợi song cũng không ít khó khăn

(1975 đến nay)
mà khó khăn lớn nhất là nền kinh tế Việt Nam chủ yếu là sản
xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu quả chiến tranh để lại
nặng nề. Chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động luôn tìm mọi cách
phá hoại. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã và đang
trải qua nhiều diễn biến phức tạp; chủ nghĩa xã hội thế giới gặp
những khó khăn, thử thách lớn, lâm vào khủng hoảng, thoái trào,
đặc biệt từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô
sụp đổ. Quá trình đó đã tác động, ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam, trong 10 năm đầu (1975 1985), cách mạng Việt Nam đã vượt qua
những khó khăn trở ngại, thu được những
Nhân dân Việt Nam đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất
thành tựu nhất định.
đất nước về mọi mặt, đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực
kinh tế, văn hoá - xã hội nhân dân Việt Nam đã có những cố
gắng lớn, đáng chú ý là công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
thương chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời sống nhân
dân. Tuy nhiên, những thành tựu về kinh tế - xã hội còn thấp so
với yêu cầu kế hoạch đề ra và công sức bỏ ra, nền kinh tế có mặt
mất cân đối nghiêm trọng, tỷ lệ lạm phát cao quá mức, cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng gay gắt. (Cơ chế tập


- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI trung quan liêu bao cấp không còn phù hợp phải thực hiện
của Đảng cộng sản Việt Nam (12 - 1986) đường lối đổi mới)
đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở
ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói
rõ sự thật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng
sản Việt Nam (12 - 1986) đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo
của mình, khẳng định những mặt làm được, phân tích rõ những
sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý
chí trong lãnh đạo kinh tế (Nóng vội trong cải tạo XHCN, xóa bỏ
cơ chế cũ khi cơ chế mới chưa hình thành …. ), đề ra đường lối
đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đổi mới cơ cấu kinh tế- kinh tế
nhiều thành phần. Cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ tập trung quan
liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế hoạch toán kinh doanh XHCN.
Đổi mới vai trò điều hành, quản lý nhà nước về KT-XH. Đổi mới
nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng. Đảng phải liên hệ
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII mật thiết với nhân dân, nắm bắt thực tiễn của đất nước và vận
của Đảng cộng sản Việt Nam đã thông dụng đúng các quy luật khách quan.
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng cộng sản
Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000 và nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm
1991 - 1995, cụ thể hoá hơn nữa đường lối đổi mới ở Việt Nam.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của
Đảng, nhân dân Việt Nam vượt qua một giai đoạn thử gay go.
Trong hoàn cảnh phức tạp, khó khăn, cách mạng Việt Nam
-Đại hội VIII của Đảng khẳng định: Tiếp không những đứng vững mà còn vươn lên đạt những thắng lợi
tục sự nghiệp đổi mới đẩy mạnh công nổi bật trên nhiều mặt như: KT-CT-VH-XH giữ vững ANCT,
nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì dân giàu TTATXH, mở rộng quan hệ đối ngoại.
nước mạnh, xã hội cân bằng dân chủ, văn

minh vững bước đi lên CNXH.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt
Nam (22 - 6 đến 01 - 7 - 1996) đã nhận định: “Công cuộc đổi
mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm
1991 - 1995 đã hoàn thành về cơ bản. Nước ta đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là
-Đại hội IX của Đảng (4/2001) đã kiểm chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho
điểm việc thực hiện NQĐH VIII và phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
khẳng định tính đúng đắn của Đảng, đồng đại hoá đất nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
thời giúp cho chúng ta nhận thức rõ hơn ngày càng được xác định rõ hơn" .
con đường đi lên CNXH ở nước ta.


-Nước ta xây dựng CNXH trên nền tảng CN Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- Thế kỷ 20 nước ta trải qua các cuộc đấu tranh oanh liệt và
giành chiến thắng vẽ vang. Thế kỷ 21 là thế kỷ mà nước ta sẽ
giành nhiều thành tựu vẽ vang trong sự nghiệp xây dựng CNXH
và bảo vệ tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các nước phát triển
ĐH X (2006) đã đánh giá kết quả thực trên thế giới.
hiện NQĐH IX và khẳng định những
thành tựu quan trọng.
- Một là: Nền kinh tế vượt qua thời kỳ
suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế
khá cao và phát triển tương đối toàn diện. - Tốc độ tăng trưởng GDP năm sau cao hơn năm trước. Bình
quân 7,51% đạt mức kế hoạch đề ra.
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được xây dựng
bước đầu, một số loại thị trường mới hình thành phát triển phù

hợp với cơ chế mới.
-Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển, chuyển dịch theo
hướng phát huy tiềm năng thế mạnh của mình, đóng góp một
cách hiệu quả vào sự phát triển chung của đất nước.
- Cơ cấu lao động có sự chuyển biến tích cực gắn liền với quá
- Hai là: Văn hóa và xã hội có tiến bộ trên trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
nhiều mặt, gắn việc phát triển kinh tế với
giải quyết các vấn đề xã hội có bước phát
triển tốt, đời sống các tầng lớp nhân dân
được cải thiện.
- Công tác giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có bước
phát triển tốt.
- Công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm đạt được
nhiều kết quả khả quan.
- Công tác y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân đạt được kết quả tốt
đã khống chế và đẩy lùi các bệnh dịch nguy hiểm, tuổi thọ trung
- Ba là: Chính trị xã hội ổn định, quốc bình của người dân tăng.
phòng an ninh được tăng cường, quan hệ
đối ngoại có bước phát triển mới.
-Hoạt động kinh tế đối ngọai và hội nhập kinh tế quốc tế có bước
- Bốn là: Việc xây dựng nhà nước pháp tiến mới rất quan trọng.
quyền có bước tiến bộ trên cả ba lĩnh vực
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được
phát huy.
- Năm là: Công tác xây dựng Đảng đạt
được một số kết quả tích cực.
* Yếu kém:
- Đại hội cũng chỉ ra những khuyết điểm và yếu kém.
- Một là: Tăng trưởng kinh tế chưa tương

xứng với khả năng chất lượng hiệu quả
sức cạnh tranh.
- Hai là: Cơ chế chính sách về văn hóa xã


hội đổi mới chậm, nhiều vấn đề bức xúc
xã hội chưa được giải quyết tốt, tệ quan
liêu tham nhũng lãng phí vẫn nghiêm
trọng, tội phạm và tệ nạn xã hội có chiều
hướng gia tăng.
- Ba là: Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh
đối ngoại còn một số hạn chế.
- Bốn là: Tổ chức và hoạt động của nhà
nước, mặt trận và các đoàn thể nhân dân
chậm đổi mới, bộ máy quản lý nhà nước
các cấp nhất là ở cơ sở còn yếu kém, hoạt
động quốc hội còn lúng túng, dân chủ
trong xã hội còn bị vi phạm, kỉ cương
kỉ luật ở nhiều nơi chưa nghiêm
- Năm là: Công tác xây dựng chỉnh đốn
Đảng chưa đạt yêu cầu: Tình trạng suy
thoái tư tưởng chính trị đạo đức lối sống
chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu tham
nhũng, lãng phí trong một bộ phận diễn
ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở
Đảng sức chiến đấu kém.

- Tình trạng nhũng nhiễu cửa quyền thiếu trách nhiệm ở một bộ
phận công chức chậm được khắc phục.
- Vấn đề dân chủ trong xã hội còn bị vi phạm ở một số nơi chưa

thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, sự vi phạm pháp luật của
nhà nước còn xảy ra ở một số nơi.
- Những khuyết điểm và yếu kém trên có nhiều nguyên nhân.
Đại hội X của Đảng đã phân tích và cho rằng nguyên nhân chủ
quan là chính. Đó là tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm
đổi mới, sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt, môt bộ phận cán
bộ Đảng viên kể cả cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất và
ĐH XI của Đảng (12/01-19/01/2011) đã năng lực. Đây là vấn đề cần được khắc phục.
tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh
1991, 10 năm thực hiện chiến lược ptr ktxh 2001-2010 và nhiệm vụ ptr kt-xh 5
ĐH khẳng định: 5 năm qua tình hình quốc tế và trong nước có
năm 2006-2010.
rất nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng toàn Đảng,
toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan
trọng: giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; tốc độ tăng trưởng kinh tế
khá; đời sống nd được cải thiện; ct-xh ổn định; qp-an được tăng
cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được
giữ vững; hđ đối ngoại, hội nhập quốc tế được nâng cao; phát
huy dân chủ có tiến bộ, khối đoàn kết toàn dân được củng cố;
công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt một số kết quả
tích cực.
Mười năm thực hiện chiến lược ptr kinh tế-xh 2001-2010 là
gđ đất nước ta thực sự đẩy mạnh CNH-HĐH, ptr nền kt thị
trường định hướng xhcn và hội nhập quốc tế, đã đạt được nhứng
thành tựu to lớn và rất quan trọng, kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt
tốc độ bình quân 7,26%/năm, tổng sản phẩm GDP năm 2010 so
với 2000 theo giá thực tế gấp 3,26 lần; thu ngân sách, kim ngạch
xuất khẩu gấp 5 lần, tuổi thọ bình quân tăng từ 67 lên 72,8 tuổi.
ĐH cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém và đề ra biện pháp sửa



chữa đúng đắn, kịp thời. Đảng cộng sản Việt Nam đã công khai
tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa
chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được nhân dân tin
cậy; thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong chính
trị; người lãnh đạo chân chính duy nhất của cả dân tộc.
Đh XI đã đề ra nhiệm vụ tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ
theo con đường XHCN. ĐH khẳng định: thực tiễn phong phú và
những thành tựu đạt được qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện
cương lĩnh xd đất nước trong thời kỳ quá độ lên cnxh đã chứng
tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; đi lên
CNXH là sự lựa chọn phù hợp với quy luật khách quan và thực
tiễn cách mạng VN.
ĐH cũng đã vạch ra 8 phương hướng cơ bản về thời kỳ quá độ
lên CNXH ở nước ta, cụ thể:
Một là: đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước gắn với ptr kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Ba là: xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội.
Bốn là: bảo đảm vững chắc qp-an quốc gia, trật tự, an toàn xh.
Năm là: thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hữu nghị, hợp tác và ptr; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là: xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là: Xd NN pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Tám là: Xây dựng Đảng, trong sạch vững mạnh.
ĐH XII (20/01-28/01/2016)

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng
III. Những truyền thống quý báu của
được tôi luyện và trưởng thành. Xây dựng nên nhiều truyền
Đảng cộng sản Việt Nam:
thống quý báu thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng ta đó là:
- Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định
mục tiêu lý tưởng cách mạng.
- Tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo.
- Kiên định chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và CNXH.
- Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích
dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân.
- Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của Đảng.
- Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc
tế…

Những truyền thống quý báu của Đảng là sự kế thừa và phát
huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt
Nam và giai cấp công nhân quốc tế, là sức mạnh đảm bảo vai trò
lãnh đạo của Đảng. Những truyền thống đó có ý nghĩa dân tộc và
quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để, trình độ trí
tuệ ngày càng được nâng cao của Đảng ta.
Học tập và nghiên cứu lịch sử truyền thống của Đảng để tự
hào về Đảng và góp phần giữ vững, kế thừa và phát huy truyền
thống của Đảng, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững


mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,

ngang tầm với thời đại.
CĐ Khái quát lịch sử Đảng cho thấy: ngay từ khi vừa mới ra
đời, Đảng ta đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, trên
sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê-nin Đảng đã
vận dụng sáng tạo trong thực tiễn CMVN. Vì vậy trên con đường
phát triển của CM Việt Nam, có những bước ngoặt lịch sử đầy
thử thách, hiểm nghèo có lúc tưởng như không thể vượt qua,
nhưng Đảng đã kịp thời có những quyết sách sáng suốt, đúng đắn
đáp ứng nhu cầu phát triển của thực tiễn, đưa con thuyền CM
tiến lên.


×