Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
KHOA KINH TẾ
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VI MÔ
Đề tài:
VẤN ĐỀ ĐỘC QUYỀN
TRONG KINH DOANH XĂNG DẦU TẠI VIỆT NAM
Giảng viên
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Hoàng Trung
Nguyễn Văn Hòa
Lớp ĐHKT2012-B2
Đồng Tháp, tháng 7 năm 201
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 1
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Độc quyền trong kinh doanh dù hình thành và tồn tại bằng cách nào cũng
đều gây hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế. Độc quyền trong kinh doanh dẫn đến
hình thành giá cả độc quyền, giá cả lũng đoạn ảnh hưởng đến lợi ích của người
tiêu dùng. Ở hầu hết các nước đều tồn tại các loại độc quyền tự nhiên, độc quyền
nhà nước. Ở nước ta, với xuất phát điểm thấp và một số đặc điểm nội tại của nền
kinh tế- xã hội nên vẫn còn một số ngành và lĩnh vực tồn tại độc quyền nhà nước.
Tuy nhiên nhà nước cũng đang dần hoàn thiện các cơ chế pháp luật để kiểm soát
nhằm hạn chế hiện tượng cửa quyền, lũng đoạn, lạm dụng vị trí độc quyền để
tránh gây hậu quả xấu cho xã hội.
Mặc dù nhà nước ta thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế và
khẳng định quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật nhưng
khi thực hiện, nhiều cơ quan nhà nước đã không thực sự tuân thủ quy định nầy.
Tình trạng phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa doanh
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp khu vực tư nhân là phổ biến. Bên cạnh đó, do
quyền lợi địa phương, cục bộ, một số cơ quan nhà nước bằng mệnh lệnh hành
chánh của mình gián tiếp can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp, tạo lợi thế cho một hay một số doanh nghiệp. Đây là vấn đề làm nẫy sinh
độc quyền hiện nay tại nước ta.
Xăng dầu là nguồn năng lượng thiết yếu và rất quan trọng đối với mỗi
quốc gia. Tuy nhiên, đây là nguồn năng lượng không thể tái tạo. Vì vậy, chúng ta
phải sử dụng nguồn năng lượng này như thế nào để mang lại lợi nhuận tối đa
trong kinh doanh? Việc chuyển từ Nhà nước độc quyền kinh doanh xăng dầu
sang cho doanh nghiệp sẽ có tác động như thế nào đến nhà sản xuất và người tiêu
dùng? Vấn đề điều chỉnh giá do doanh nghiệp quyết định có sự quản lý của Nhà
nước có vận hành theo đúng cơ chế không? Bên cạnh đó, kinh doanh như thế nào
là đảm bảo hài hoà các lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng?
Để được hiểu rõ hơn về những vấn đề đặt ra ở trên, đề tài “Vấn đề độc quyền
trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam” được chọn làm đề tài tiểu luận cho
môn học kinh tế vi mô.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam,
chính sách định giá xăng dầu tác động đến nhà sản xuất và người tiêu dùng trong
nước.
2.2. Mục tiêu cụ thể
a. Phân tích thực trạng tình hình kinh doanh xăng dầu sau khi áp dụng cơ
chế điều chỉnh giá do doanh nghiệp quyết định có sự quản lý của nhà nước.
b. Tác động của việc tăng và giảm giá xăng dầu ảnh hưởng đến nhà sản
xuất và người tiêu dùng.
c. Đề xuất giải pháp trong việc điều chỉnh giá xăng dầu.
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 2
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vấn đề độc quyền của lĩnh vực kinh doanh xăng
dầu trong nước và sự tác động này đến nhà sản xuất và người tiêu dùng qua
việc tăng giá của doanh nghiệp.
3.2. phương pháp thu thập số liệu và phân tích số liệu
Trên cơ sở thu thập số liệu thứ cấp kết hợp với việc:
Sử dụng hệ số co giãn để xác định thị trường cạnh tranh độc quyền (mục
tiêu a).
Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp nói lên sự độc quyền của ngành
kinh doanh xăng dầu (mục tiêu b).
Sử dụng phương pháp phân tích để tổng kết và đề xuất giải pháp (mục tiêu
c).
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 3
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Mô hình độc quyền
Đối lập với thị trường canh tranh hoàn hảo là thị trường độc quyền. Thị
trường độc quyền đối với một loại hàng hóa nào đó là thị trường mà trong đó chỉ
có một nhà cung ứng hàng hóa đó. Nhà cung ứng duy nhất này được gọi là nhà
độc quyền. Do là người duy nhất cung ứng hàng hóa ra thị trường nên đường
cung của nhà độc quyền chính là đường cung của ngành và đường cầu của thị
trường chính là đường cầu đối với sản phẩm của nhà độc quyền. Vì đường cầu có
xu hướng dốc xuống về phía phải, nên để bán được nhiều hàng hoá hơn nhà độc
quyền phải giảm giá bán.
Không giống như trên thị trường cạnh tranh hoàn toàn, mọi quyết định của
nhà cung ứng về mặt số lượng có ảnh hưởng đến giá cả trên thị trường.
Một ngành được xem là độc quyền hoàn toàn khi hội đủ hai điều kiện sau:
- Đối thủ cạnh trạnh không thể gia nhập ngành: Do doanh nghiệp độc
quyền hoàn toàn không có đối thủ cạnh trạnh nên có thể ấn định sản lượng hay
giá bán tùy ý mà không lo ngại thu hút những doanh nghiệp khác gia nhập ngành
vì sự gia nhập ngành của các doanh nghiệp mới sẽ khó khăn vì các rào cản, chi
phí sản xuất.
- Không có những sản phẩm thay thế tương tự. Nếu không có sản phẩm
thay thế thì nhà độc quyền không lo ngại về tác động của chính sách giá của
mình đến phản ứng của các doanh nghiệp khác.
1.2. Các nguyên nhân dẫn đến xuất hiện độc quyền
Nguyên nhân chủ yếu xuất hiện độc quyền ở một ngành nào đó là do các
doanh nghiệp khác không thể tồn tại hay không thể gia nhập vào ngành đó. Do
vậy, những hàng rào ngăn cản sự gia nhập ngành là nguồn gốc của sự độc quyền.
Chúng ta có thể phân loại ra những loại rào cản sau.
1.2.1. Chi phí sản xuất
Nhà độc quyền xuất hiện trong những trường hợp ngành có tính kinh tế
nhờ quy mô. Trong những ngành này đường chi phí trung bình (AC) giảm dần
khi sản lượng tăng lên (hình 1). Những doanh nghiệp có quy mô lớn thường là
những doanh nghiệp sản xuất với chi phí thấp hơn những doanh nghiệp khác nhờ
vào kinh nghiệm, tính kinh tế của quy mô, v.v. Do đó, những doanh nghiệp lớn có
khả năng loại trừ những doanh nghiệp khác ra khỏi ngành bằng cách cắt giảm giá
(mà vẫn có thể thu được lợi nhuận), từ đó tạo ra thế độc quyền cho mình.
Một khi vị thế độc quyền được thiết lập, sự gia nhập ngành của các doanh
nghiệp khác sẽ rất khó khăn; vì những doanh nghiệp mới sản xuất ở mức sản
lượng thấp, như vậy phải chịu chi phí cao. Những doanh nghiệp này sẽ dễ dàng
bị nhà độc quyền loại khỏi thị trường bằng cách giảm giá bán sản phẩm. Sự độc
quyền hình thành từ con đường cạnh tranh bằng chi phí như vậy được gọi là độc
quyền tự nhiên.
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 4
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
Hình 1: Chi phí và sản lượng của ngành có tính kinh tế nhờ quy mô
1.2.2. Nguyên nhân pháp lý
Nhiều nhà độc quyền được tạo ra từ nguyên nhân pháp lý chứ không phải
từ nguyên nhân kinh tế như trên. Chúng ta có thể thấy pháp luật tạo ra sự độc
quyền dưới dạng hai hình thức sau:
a. Pháp luật bảo hộ bằng phát minh, sáng chế: Bằng phát minh, sáng chế
được pháp luật bảo vệ là một trong những nguyên nhân tạo ra độc quyền vì luật
bảo hộ bằng sáng chế chỉ cho phép một nhà sản xuất sản xuất mặt hàng vừa được
phát minh và do vậy họ trở thành nhà độc quyền.
b. Pháp luật bảo hộ những ngành có ảnh hưởng đến an ninh quốc
gia.Các ngành công nghiệp công ích như điện, nước, thông tin liên lạc, một số
kênh phát thanh, truyền hình, v.v. sẽ được bảo hộ hay độc quyền bởi nhà nước vì
chúng có vai trò quan trọng đối với an ninh quốc gia. Những ngành này thường
là các ngành có chi phí sản xuất trung bình giảm dần khi quy mô tăng. Do vậy,
chính phủ cho rằng chi phí trung bình sẽ càng thấp khi sản lượng gia tăng và nó
sẽ đạt mức thấp nhất chỉ khi tổ chức ngành này như là một nhà độc quyền
1.2.3. Xu thế sáp nhập của các công ty lớn: Trên thế giới hiện nay đang
diễn ra xu thế sáp nhập của các công ty lớn. Xu thế này diễn ra do những nguyên
nhân sau:
a. Áp lực của việc tìm kiếm khách hàng: Việc sáp nhập của các công ty sẽ
giúp mở rộng thị trường cho từng công ty. Các công ty sau khi sáp nhập, sẽ tận
dụng được mạng lưới phân phối có sẵn của mình và của cả những công ty trong
liên minh để nâng cao thị phần của mình và chiếm lĩnh thị trường. Do vậy, việc
sáp nhập có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thu tóm thị trường
và hình thành vị thế độc quyền.
b. Giảm chi phí sản xuất - kinh doanh: Việc sáp nhập sẽ làm mở rộng thị
trường của các doanh nghiệp nên có thể làm tăng quy mô sản xuất cho từng
doanh nghiệp. Điều này có thể tạo ra tính kinh tế nhờ quy mô của quá trình sản
xuất. Do vậy, sự sáp nhập có thể giúp doanh nghiệp sử dụng tài nguyền về nhân
lực, tiền của, v.v. có hiệu quả hơn.
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 5
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
1.2.4. Tình trạng kém phát triển của thị trường:
Sự kém phát triển của thị trường sẽ dẫn đến hàng hoá không được lưu
thông một cách thông suốt. Do hàng hoá không lưu thông tốt trên thị trường cho
nên nhà cung ứng nào có điều kiện cung ứng hàng hoá cho một thị trường nào đó
mà các nhà cung ứng khác không thể với tới thì sẽ trở thành độc quyền trên thị
trường đó. Đây là hình thức độc quyền có tính cục bộ và xảy ra ở quy mô nhỏ. Sự
độc quyền như vậy thường xuất hiện ở những vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới
hay hải đảo, v.v. .
1.3. Yếu tố xác định loại hàng hóa
Hệ số co giãn: Lượng hóa sự thay đổi của số cung và số cầu theo sự thay
đổi của giá hàng hóa.
- Công thức:
eQD,P = [ΔQD/QD(%)]/[ΔP/P(%)] = (ΔQD/ΔP)x(P/QD) = (dQD/dP)x(P/Q)
= f’(P)x(P/QD) = f’(P)x(P/f(P)’)
với QD = f(P)
- Ý nghĩa: Số phần trăm thay đổi của cầu do 1% thay đổi của giá.
+ Nếu eQD,P < -1 là cầu co giãn nhiều, vì số phần trăm thay đổi của cầu lớn
hơn số phần trăm thay đổi của giá.
+ Nếu eQD,P = - 1 là cầu co giãn đơn vị. Khi đó, số phần trăm thay đổi của
lượng cầu bằng đúng với tỷ lệ thay đổi của giá.
+ Nếu eQD,P > - 1 là số cầu co giãn ít. Khi đó, số phần trăm thay đổi của
lượng cầu nhỏ hơn số phần trăm thay đổi của tăng giá.
P
-a/b
Vùng co giản
PA
Hình 1: Hệ số co giãn điểm
A: Điểm co giản đơn vị
Vùng không co giản
0
Q
Q
Hình 2: HệAsố co giản điểm
a
Các yếu tố ảnh hưởng đến e
- Khả năng thay thế của hàng hóa, dịch vụ: độc quyền;
- Mức độ thiết yếu của hàng hóa, dịch vụ: thiết yếu và xa xỉ;
- Mức chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ trong tổng chi tiêu;
- Hệ số co giãn điểm;
- Độ dài thời gian.
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 6
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
1.4. Nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận của nhà độc quyền
Là do người cung ứng duy nhất một hàng hoá nào đó, nhà độc quyền đối
diện với đường cầu của thị trường, và đường cầu thị trường có xu hướng dốc
xuống từ trái sang phải, doanh thu cận biên sẽ ít hơn giá của hàng hoá. Như đã
lưu ý trước đó, doanh thu cận biên là: dương khi cầu co giãn, bằng 0 khi cầu là
đơn vị co giãn, và âm khi cầu không co giãn.
Khác với một doanh nghiệp cạnh tranh phải chấp nhận giá thị trường, nhà
độc quyền là người định giá. Nhà độc quyền có thể chọn sản xuất tại bất kỳ một
mức sản lượng nào trên đường cầu thị trường nhưng phải đánh đổi giữa sản
lượng và giá bán sản phẩm. Nhà độc quyền cung ứng càng nhiều thì giá cả sẽ
càng giảm. Ta có thể mô tả sự đánh đổi giữa giá và sản lượng của một doanh
nghiệp độc quyền ở hình 1.
Để tối đa hoá lợi nhuận, nhà độc quyền sẽ chọn sản xuất mức sản lượng
mà tại đó MR = MC. Sau đó, nhà độc quyền kiểm tra xem ở mức sản lượng này
giá cả (hay doanh thu bình quân) có trang trải được các chi phí hay không. Hình
3 biểu diễn nguyên tắc tối đa hoá lợi nhuận của nhà độc quyền.
Nhà độc quyền sẽ chọn mức sản lượng tối ưu q 0, tại đó đường MR cắt
đường MC. Với đường cầu D, nhà độc quyền sẽ định mức giá là P 0, tương ứng
với điểm B, để bán hết sản lượng q0 được sản xuất ra.
Giá do công ty tính là P 0 (giá mà công ty có thể tính tại mỗi mức sản
lượng với đường cầu cho trước). Do giá P 0 vượt quá tổng chi phí trung bình
(AC0) tại mức sản lượng này, công ty sẽ thu được lợi nhuận. Mặc dù vậy, lợi
nhuận độc quyền này khác với lợi nhuận mà các công ty cạnh tranh hoàn hảo
nhận được do những lợi nhuận độc quyền này sẽ được duy trì về dài hạn (do các
rào cản với việc gia nhập là đặc trưng của một thị trường độc quyền)
P
MC AC
p0
B
AC0
A
D
MR
0 đa hóa của nhà độc quyền
Hình 3: Nguyên tắc qtối
Tất nhiên, một công ty độc quyền cũng có thể chịu lỗ (hình 4). Tuy nhiên,
vị thế độc quyền không bảo đảm cho doanh nghiệp chắc chắn thu được lợi nhuận.
Điều này còn phụ thuộc vào mối quan hệ giữa chi phí trung bình và đường cầu
đối với sản phẩm của nhà độc quyền. Hình 3 cho thấy nhà độc quyền có thể thu
được lợi nhuận độc quyền khi chọn mức sản lượng tối đa hoá lợi nhuận. Tại mức
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 7
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
sản lượng này, đường AC của nhà độc quyền nằm dưới đường cầu. Trường hợp
nhà độc quyền không thể thu được lợi nhuận độc quyền do đường AC nằm trên
đường cầu (hình 4).
Theo hình 4 mức lỗ mà công ty chịu chính là diện tích hình chữ nhật
P0BAAC0. Mặc dù do giá lớn hơn AVC, công ty tiếp tục hoạt động trong ngắn
hạn, nhưng sẽ rời bỏ thị trường về dài hạn. Lưu ý là sở hữu độc quyền không
đảm bảo việc duy trì lợi nhuận kinh tế. Hoàn toàn có khả năng ít người muốn có
độc quyền trong việc sản xuất một hàng hoá nào đó…
P
MC
AC
P0
AC0
B
A
D
MR
Hình 4: biểu hiện sự thiệt hại của nhà độc quyền
q0
Những ai khôngQnghiên cứu kinh tế thường tin một nhà độc quyền có khả
năng chọn bất kỳ mức giá nào mà họ muốn và có thể luôn nhận được lợi nhuận
cao hơn bằng việc tăng giá. Dù vậy, như trong tất cả các cơ cấu thị trường khác,
nhà độc quyền bị kiềm chế bởi mức cầu sản phẩm của họ. Nếu một công ty độc
quyền muốn tối đa hóa lợi nhuận, công ty phải lựa chọn mức sản lượng mà tại đó
MR=MC. Điều này quyết định mức giá duy nhất được tính trong ngành kinh
doanh. Một sự tăng giá lớn hơn mức giá này sẽ làm giảm lợi nhuận của công ty.
1.5. Chỉ số Lerner:
Khác với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nhà độc quyền là người ấn định
giá. Sau khi đã quyết định sản xuất q 1, nhà độc quyền niêm yết giá P1 vì biết rằng
người tiêu dùng sẽ tiêu thụ đúng q 1. Chúng ta cũng nên lưu ý rằng trong khi
doanh nghiệp cạnh tranh định giá bằng với chi phí biên thì nhà độc quyền định
giá cao hơn chi phí biên do giá cả của nhà độc quyền lớn hơn doanh thu biên. Do
vậy, để đo lường sức mạnh độc quyền các nhà kinh tế xem xét mức độ chênh lệch
giữa giá độc quyền và chi phí biên ở tại mức sản lượng mà nhà độc quyền có lợi
nhuận là tối đa. Cụ thể, sức mạnh độc quyền được biểu hiện bằng chỉ số Lerner
(tại điểm tương ứng với lợi nhuận tối đa của nhà độc quyền) như sau:
P - MR
L = P - MC =
P
P
trong đó: L là chỉ số Lerner. Chỉ số Lerner luôn có giá trị nằm giữa 0 và 1. Đối
với doanh nghiệp hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, ở mức sản
lượng tương ứng với lợi nhuận tối đa thì P = MC nên L = 0. Đối với nhà độc
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 8
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
quyền, L luôn dương vì P > MC. Nếu L càng lớn, sức mạnh độc quyền càng lớn
vì khi đó giá bán càng lớn hơn MC.
1.6. Không có đường cung trong độc quyền
Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, đường cung của doanh nghiệp
chính là đường chi phí biên. Tổng hợp đường cung của từng doanh nghiệp ta có
đường cung của ngành. Trong độc quyền, cách xây dựng đường cung như trên
không thể thực hiện được. Mức cung của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào đường
cầu và doanh thu biên. Với một đường cầu cố định, "đường cung" độc quyền chỉ
là một điểm, điểm kết hợp giữa giá và sản lượng tại đó MR = MC (điểm B trong
các hình 3 và 4). Nếu đường cầu dịch chuyển, đường MR sẽ dịch chuyển theo và
một mức sản lượng tối đa hoá lợi nhuận mới sẽ được chọn. Tuy nhiên, nối các
điểm cân bằng này lại để hình thành một "đường cung" sẽ không có ý nghĩa.
Hình dạng đường này sẽ rất kỳ lạ, phụ thuộc vào độ co giãn của đường cầu thị
trường khi nó dịch chuyển. Như vậy, doanh nghiệp độc quyền không có một
"đường cung" xác định (hình 5).
Hình 5: biểu hiện đường cung trong độc quyền
1.7. Độc quyền và vấn đề phân bổ nguồn tài nguyên xã hội
Sự xuất hiện của độc quyền có thể làm giảm đi tính hiệu quả của việc
phân bổ nguồn tài nguyên xã hội bởi vì nhà độc quyền có thể giảm sản lượng để
có giá cao hơn. Việc giảm sản lượng có thể làm cho doanh nghiệp có lợi hơn
nhưng người tiêu dùng sẽ bị thiệt hại. Bây giờ, chúng ta hãy so sánh giá cả và sản
lượng của doanh nghiệp độc quyền và ngành cạnh tranh để từ đó xác định "chi
phí xã hội của độc quyền".
Để có thể so sánh, chúng ta giả định rằng một thị trường độc quyền có thể
vận hành như một ngành cạnh tranh. Giả sử thị trường cạnh tranh và nhà độc
quyền có cùng một đường chi phí biên (MC). Trong thị trong cạnh tranh, giá
bằng với chi phí biên, tương ứng với giá cạnh tranh PC và sản lượng QC, tại đó
đường MC cắt đường cầu (P = MC) (hình 6). Khi xuất hiện độc quyền, nhà độc
quyền chọn mức sản lượng qM mà tại đó MR = MC, nên giá độc quyền PM sẽ
cao hơn chi phí biên hay giá cạnh tranh. Sức mạnh độc quyền dẫn đến giá cao
hơn và sản lượng bị giảm còn QM. Do giá cao hơn nên người tiêu dùng giảm
lượng mua từ QC xuống còn QM và như vậy, thặng dư tiêu dùng bị mất đi một
khoảng tương đương với diện tích (A+B) trên hình 6.
Ngoài ra, xã hội còn có thể phải chịu chi phí khác ngoài phần thiệt hại xã
hội B và C. Đó là, doanh nghiệp còn có thể phải chi thêm một khoản chi phí lớn
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 9
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
không hiệu quả về mặt xã hội để dành duy trì hoặc để thể hiện sức mạnh độc
quyền của mình. Chi phí này có thể bao gồm chi phí quảng cáo, vận động hành
lang và những tranh thủ pháp lý để tránh sự điều tiết của chính phủ hay chống
"Luật chống độc quyền". Nhà độc quyền cũng có thể lắp đặt thêm những nhà
máy thừa công suất để tận dụng tính kinh tế nhờ quy mô, v.v.
Hình 6: phần phúc lợi xã hội bị mất do độc quyền
1.8. Chính sách phân biệt giá
Khác với thị trường cạnh tranh, một nhà độc quyền có khả năng ấn định
các mức giá khác nhau đối với nhiều người tiêu dùng khác nhau. Ta gọi trường
hợp này là phân biệt giá. Sự phân biệt giá có thể làm tăng lợi nhuận của nhà độc
quyền so với việc định một mức giá duy nhất cho tất cả sản phẩm của mình.
1.8.1. Chính sách phân biệt giá hoàn toàn: là chính sách mà trong đó
nhà độc quyền ấn định cho mỗi (nhóm) khách hàng một mức giá tối đa mà người
đó có thể trả. Mức giá đó gọi là giá sẵn sàng trả hay giá đặt trước của người tiêu
dùng.
Nếu nhà độc quyền có thể xác định rõ nhu cầu của từng khách hàng hay
từng nhóm khách hàng của mình, họ có thể định giá cao nhất mà (nhóm) khách
hàng của mình có thể trả. Với cách định giá này, nhà độc quyền sẽ “bòn rút” hết
thặng dư tiêu dùng của người tiêu dùng bởi vì nhà độc quyền định cho mỗi khách
hàng mức giá tối đa mà họ có thể trả.
+ Bán Q1 sản phẩm với giá P1, (Q2 – Q1) sản phẩm với giá P2, ...
+ MR = P nhưng không phải giảm giá cho các đơn vị sản phẩm trước đó.
+ Đường MR cũng chính là đường cầu.
+ Q4: sản lượng tương ứng với LNmax.
+ Lợi nhuận tăng lên so với trường hợp không phân biệt giá.
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 10
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
Hình 7: phân biệt đối xử giá cấp 2
1.8.2. Chính sách phân biệt giá đối với hai thị trường riêng biệt
Các công ty hoạt động trong các thị trường không phải thị trường cạnh
tranh hoàn hảo có thể tăng mức lợi nhuận bằng việc phân biệt giá cả dựa vào hệ
số co giản của cầu, một thực tế trong đó mức giá cao hơn được tính với những
khách hàng có cầu không co giãn nhất với sản phẩm.
Điều kiện cần thiết cho việc phân biệt giá cả gồm:
Công ty không thể là người làm giá,
Công ty phải có thể phân loại khách hàng theo độ co giãn của cầu của họ,
Việc bán lại sản phẩm phải là việc không khả thi.
Mức giá đó gọi là giá sãn lòng trả hay giá đặt trước của người tiêu dùng.
Hình 8: phân biệt đối xử giá với hai thị trường riêng biệt
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 11
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
Chương 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ ĐỘC QUYỀN
TRONG KINH DOANH XĂNG DẦU TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng vấn đề kinh doanh xăng dầu:
Ở Việt Nam, việc đưa nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường đã diễn
ra từ hơn 20 năm nay. Thế nhưng, cho đến giờ sự độc quyền thời bao cấp trong
một số lĩnh vực như kinh doanh xăng dầu... vẫn còn khá đậm nét. Luật Cạnh
tranh, trong khi đó, vẫn chưa phát huy được tác dụng trong việc chống độc
quyền.
Hiện đang có 11 đơn vị đầu mối tham gia kinh doanh xăng dầu nhưng hơn
60% khối lượng phân phối lại nằm trong tay Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam
(Petrolimex). Do vậy, việc tăng hay giảm giá xăng dầu là tùy thuộc vào họ sau
khi có quyết định cho phép các đơn vị kinh doanh xăng dầu được chủ động về
giá bán từ ngày 15-12-2009.
Trong mọi lĩnh vực, tình trạng độc quyền luôn gây ra những thiệt hại cho
xã hội và cần phải được xóa bỏ. Việc xóa bỏ thế độc quyền của ngành viễn thông
cách đây mấy năm đã đem lại nhiều lợi ích cụ thể mà ai cũng có thể thấy được.
Chính vì vậy, việc phá thế độc quyền của Petrolimex cũng không phải là điều khó
khăn nếu Nhà nước muốn thực hiện vì lợi ích chung của toàn xã hội!
Xăng dầu là một trong những nguồn nhiên liệu thiết yếu trong đời sống
thường nhật của con người, nó phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng, là yếu tố đầu
vào khá quan trọng của các quá trình sản xuất. Do đó việc quy định điều kiện
kinh doanh mặt hàng này là một vấn đề hết sức nhạy cảm đối với mỗi người dân
chúng ta. Chính vì vậy mà chính phủ đã ban hành rất nhiều văn bản nhằm điều
chỉnh những hoạt động trong lĩnh vực này.
Theo Nghị định số 55/2007/NĐ-CP ngày 06/04/2007 của Chính phủ quy
định về kinh doanh xăng dầu và điều kiện kinh doanh xăng dầu tại thị trường
Việt Nam thì giá bán xăng dầu sẽ được áp dụng theo cơ chế thị trường nghĩa là
thương nhân kinh doanh xuất, nhập khẩu xăng dầu hoặc thương nhân sản xuất,
chế biến xăng dầu tự quyết định sau khi nộp các loại thuế, phí theo quy định của
pháp luật hiện hành.
Theo thống kê hiện nay thì có khoảng 11 doanh nghiệp Nhà nước được
kinh doanh nhập khẩu xăng dầu bán tại thị trường nội địa với khoảng 12.000
trạm bán lẻ xăng dầu (cây xăng). Trong đó 6.000 cây xăng là của Petrolimex
(khoảng hơn 1.800 cây xăng có 100% vốn của tổng công ty, hơn 4000 cây liên
kết treo biển tổng công ty và lấy xăng của tổng công ty).
Tại điều 11 Luật cạnh tranh hiện hành đã định nghĩa rõ: “doanh nghiệp
được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị
trường liên quan…”; tại Điều 9 cũng quy định “Cấm các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, và 5 Điều 8 của Luật này khi các bên tham
gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên.”
Với tỷ lệ thị phần lên tới 60% của Petrolimex hiện nay, rõ ràng là một con
số đảm bảo an toàn cho vị thế của Petrolimex trên thị trường xăng dầu trong
nước.
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 12
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
Hơn nữa nếu đơn vị chiếm 60% thị phần cung cấp nguồn nhiên liệu này
đã kiềm giá thì cũng chẳng có đơn vị nào tăng giá. Bởi lẽ, nếu giá thế giới mà
tăng cao, doanh nghiệp khác bán bằng giá của Petrolimex cũng đã là khó khăn.
Có thể nói, xăng dầu là mặt hàng chiến lược, khá nhạy cảm và chủ trương
tăng quyền tự chủ cho doanh nghiệp để thị trường xăng dầu vận hành theo cơ chế
thị trường, đảm bảo quyền lợi của các bên ngay lập tức nhận được sự đồng tình,
ủng hộ của nhiều người. Tuy nhiên, một số ý kiến khác vẫn băn khoăn về việc
liệu quyền lợi của người tiêu dùng có được đảm bảo khi doanh nghiệp được tự
quyết định giá theo ý mình, cũng như cần làm gì để tránh tình trạng chuyển từ
độc quyền Nhà nước sang độc quyền doanh nghiệp.
Nguyên nhân chính của những tranh cãi trên là do Petrolimex đang chiếm
với khoảng 60% thị phần chi phối thị trường. Vì các sản phẩm xăng dầu gần như
đồng nhất và dịch vụ tương đối đơn giản nên các nhà phân phối xăng dầu khác
đều chạy theo giá bán của Petrolimex, vì nếu họ bán với giá cao hơn sẽ mất
khách, còn bán thấp hơn thì bị giảm lợi nhuận. Đối với Petrolimex, một khi có
khả năng chi phối thị trường thì công ty này có thể “nâng giá nhanh, hạ giá
chậm” và đương nhiên là các đơn vị khác sẽ được “ăn theo”. Kết quả là sức mạnh
độc quyền (hay tựa-độc-quyền) của Petrolimex đã triệt tiêu cơ chế thị trường
cạnh tranh và làm giảm phúc lợi của người tiêu dùng.
Khi kỷ luật của cạnh tranh không phát huy tác dụng thì Nhà nước có cơ sở
để can thiệp thông qua các biện pháp điều tiết nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế và
bảo vệ phúc lợi của người tiêu dùng. Cụ thể, Nhà nước có thể điều tiết về mức
giá, về chất lượng dịch vụ và về quy định gia nhập - rút lui khỏi hoạt động kinh
doanh xăng dầu.
Bản chất của việc điều tiết mức giá là điều chỉnh mối quan hệ lợi ích giữa
Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Có lẽ Nhà nước không muốn quy
định một mức giá quá cao vì như vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí của khu
vực hộ gia đình và kinh doanh (và tất nhiên là cả CPI nữa). Nhà nước cũng
không thể quy định một mức giá quá thấp vì điều này tuy làm lợi cho người tiêu
dùng nhưng lại gây khó khăn cho doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và ảnh
hưởng tới ngân sách Nhà nước.
Một quy tắc phổ biến của điều tiết giá là quy định một mức giá sao cho
doanh nghiệp bị điều tiết có thể thu hồi chi phí và có một mức lợi nhuận hợp lý.
Tuy nhiên, việc áp dụng quy tắc này trong thực tế không hề dễ dàng. Khó khăn
thứ nhất là làm thế nào để xác định được các chi phí hợp lý của doanh nghiệp.
Chi phí này bao gồm giá nhập xăng dầu (fob), phí bảo hiểm, cước vận chuyển về
đến Việt Nam, các loại thuế và phí, chi phí kinh doanh (vốn, lao động, khấu
hao...), trích quỹ bình ổn và các khoản trích nộp khác theo luật định. Nhìn vào cơ
cấu chi phí này, có thể thấy ngay là có những chi phí cơ quan điều tiết có thể
quan sát và tính toán được một cách tương đối dễ dàng (như giá xăng dầu thế
giới, các loại thuế và phí).
Tuy nhiên cũng có những chi phí rất khó quan sát và xác minh tính hợp lý,
chẳng hạn như chi phí đầu tư, quỹ lương, khấu hao... Rõ ràng là cơ quan điều tiết
không muốn bù đắp cho những chi phí không hợp lý do đầu tư kém hiệu quả, do
quỹ lương quá cao vì dư thừa lao động hay tiền thưởng quá đáng. Để giải quyết
khó khăn này, cơ quan điều tiết cần yêu cầu các công ty kinh doanh xăng dầu
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 13
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
công khai cơ cấu chi phí của mình. Bên cạnh đó, cơ quan điều tiết cũng có thể so
sánh cơ cấu chi phí này với cơ cấu chi phí của các doanh nghiệp cạnh tranh trong
và ngoài nước. Trong trường hợp của Việt Nam, vì Petrolimex có vai trò chi phối
thị trường nên để tiết kiệm chi phí, cơ quan điều tiết trước tiên chỉ cần thực hiện
hai nghiệp vụ trên với doanh nghiệp này.
Khó khăn thứ hai của việc điều tiết giá là làm thế nào để xác định mức lợi
nhuận hợp lý vì các doanh nghiệp xăng dầu có thể lập luận rằng ngành kinh
doanh này tiềm ẩn nhiều rủi ro nên phải được bù đắp bằng một mức lợi nhuận
trên trung bình. Một lần nữa, việc xác định mức lợi nhuận trung bình của ngành
kinh doanh, đồng thời so sánh với các công ty cạnh tranh trong và ngoài nước có
thể giúp cơ quan điều tiết khắc phục phần nào khó khăn này.
Bên cạnh hai khó khăn trên, cơ quan điều tiết cũng phải quan tâm đến một
số vấn đề kỹ thuật quan trọng như xác định giá cơ sở và khi nào thay đổi giá cơ
sở. Như đã thảo luận ở trên, trong cơ cấu chi phí của các doanh nghiệp xăng dầu
có một số khoản mục có tính chủ quan, không quan sát được, vì vậy không nên
đưa các khoản mục chi phí này vào trong giá cơ sở. Tốt nhất là dùng ngay giá
xăng dầu thế giới - là mức giá hoàn toàn khách quan và minh bạch làm giá cơ sở.
Về tần suất thay đổi giá cơ sở, nếu Nhà nước muốn bình ổn giá thì chỉ nên điều
chỉnh giá hay thuế suất khi giá cơ sở biến động đủ lớn (trên 5% chẳng hạn).
Ngoài giá bán còn có hai công cụ điều tiết khác, đó là điều tiết chất lượng
dịch vụ và quy định việc gia nhập - rút lui khỏi ngành kinh doanh. Về chất lượng
dịch vụ, quan trọng nhất là các tiêu chuẩn bảo đảm an toàn và bán đúng bán đủ
cho khách hàng. Về quy định gia nhập - rút lui khỏi ngành kinh doanh, Nhà nước
cần tăng cường tính cạnh tranh cho thị trường bằng cách cho phép sự tham gia
của nhiều đầu mối nhập khẩu, đồng thời cần giảm bớt tính độc quyền trong hoạt
động phân phối xăng dầu.
Không nên hi vọng rằng cơ chế thị trường trong điều kiện tồn tại độc
quyền sẽ nâng cao phúc lợi cho người tiêu dùng và cải thiện hiệu quả cho nền
kinh tế. Nói cách khác, một khi còn độc quyền và thiếu cạnh tranh thì cơ chế thị
trường sẽ không thể vận hành hiệu quả. Khi ấy, cần đến hoạt động điều tiết một
cách công bình và có hiệu lực của Nhà nước, mà điều này lại phụ thuộc khả năng
tách bạch mục tiêu kinh doanh ra khỏi các mục tiêu chính trị - xã hội và khả năng
minh bạch hóa cơ cấu chi phí của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, nhất là
những doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường.
2.2. Vấn đề định giá của các doanh nghiệp
Xăng, dầu là mặt hàng có tầm quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế quốc
dân. Giá cả của nó ảnh hưởng đến nhiều mặt kinh tế xã hội. Vì thế, trong suốt
nhiều năm qua, nhà nước đã can thiệp trực tiếp vào quá trình hình thành giá mặt
hàng này ở thị trường nội địa. Tuy nhiên, lộ trình thị trường hóa mặt hàng xăng,
dầu cũng đã được tính đến từ năm 2003.
Bằng chứng là việc Chính phủ đã ban hành Quyết định 187 (ngày 15/9/2003) về
quy chế quản lý kinh doanh xăng, dầu, cho phép doanh nghiệp (DN) được điều
chỉnh giá bán trong phạm vi 5% đối với dầu, 10% đối với xăng - trong khung giá
định hướng do nhà nước xác định. Sau đó, Nghị định số 55 của Chính phủ quy
định về kinh doanh xăng dầu và điều kiện kinh doanh xăng dầu tại thị trường
Việt Nam được ban hành (ngày 06/4/2007) - thay thế QĐ 187 - đã quyết định đưa
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 14
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
mặt hàng xăng theo giá thị trường và kể từ ngày 16/9/2008 là chấm dứt bù lỗ tất
cả các mặt hàng dầu - để vận hành kinh doanh xăng, dầu theo cơ chế giá thị
trường theo Quyết định 79 về Cơ chế quản lý điều hành giá xăng dầu.
Theo đó, các doanh nghiệp đầu mối được căn cứ vào giá nhập khẩu, thuế, phí, lợi
nhuận để tính toán mức giá cụ thể đến tay người tiêu dùng. Và, kể từ đây, diễn
biến giá xăng dầu trong nước sẽ tuân theo diễn biến chung của thế giới, chấm dứt
bù lỗ. Việc can thiệp của Nhà nước sẽ hạn chế trong một số trường hợp cụ thể,
cấp bách.
Không chỉ định giá bán xăng dầu không tuân thủ theo giá thế giới, Liên Bộ Tài
chính - Công thương còn can thiệp sâu vào việc điều hành giá, kể cả việc doanh
nghiệp xin giảm giá cho người tiêu dùng… cũng phải đợi cơ quan quản lý nhà
nước xét duyệt!
Một vấn đề nữa liên quan đến việc định giá xăng dầu hiện nay, đó là việc quy
định cứng nhắc tỷ lệ chiết khấu giá bán hàng. Đến hiện nay vẫn lại quay theo cái
bù giá - hướng dẫn mới đây nhất 20/9/2009 cũng vẫn theo 676 quy định năm
2004 thì việc quy định chiết khấu 170 đồng /lít xăng.
Bên cạnh những ưu điểm lớn như: bước đầu đã lập lại được trật tự về thể chế
kinh doanh xăng dầu, xây dựng được mạng lưới hệ thống phân phối trong cả
nước và đặc biệt là ổn định được nguồn cung xăng dầu trong mọi tình huống…
thì việc quản lý, điều hành kinh doanh xăng dầu trong những năm gần đây vẫn
còn rất nhiều những hạn chế cần khắc phục.
Chỉ tính riêng việc quyết định giá bán một cách cứng nhắc, không tuân thủ quy
luật của thị trường đã dẫn đến nhiều hệ lụy - mà rõ rệt nhất chính là cái vòng luẩn
quẩn bao cấp luân hồi: bù giá! Hiện nay tới hơn 30% cấu thành trong giá xăng
dầu là phần thu thuế, phí của nhà nước, nhưng do không quản lý nổi lại phải lấy
từ chính nguồn này để bù giá - cho cả lượng xăng dầu thẩm lậu. Đó là chưa kể
điều này còn tạo ra những năng lực cạnh tranh “giả” cho một số ngành hàng sản
xuất, gia công hàng xuất khẩu...
Kinh doanh mặt hàng chiến lược xăng dầu từng được xem thuộc độc
quyền Nhà nước. Nhà nước thực hiện vai trò chi phối thông qua quản lý hoạt
động xuất nhập khẩu cũng như phân phối của 11 doanh nghiệp đầu mối, trong đó
có Petrolimex với trên 60% thị phần. Petrolimex giữ vị trí thống lĩnh với vai trò
chủ đạo là đảm bảo an ninh năng lượng, bình ổn giá cả và cân đối nguồn cung
trên thị trường nội địa.
Căn cứ trên biến động thị trường, cơ quan quản lý sẽ ấn định mức giá tăng
hay giảm trong dư địa trên dưới 10%. Trong trường hợp giá thế giới biến động
mạnh, nếu phải giữ ổn định vì mục tiêu vĩ mô, Nhà nước sẽ bù lỗ cho các nhà
nhập khẩu. Chính sách này sau đó bị chỉ trích là quá lạc hậu so với thực tế khi
mỗi năm, ngân sách Nhà nước phải trích bù hàng nghìn tỷ đồng. Thậm chí, có
thời điểm, ngân sách Nhà nước phải gánh con số lỗ lên tới trên 20.000 tỷ đồng.
Năm 2008, điều hành xăng dầu có bước ngoặt mới khi giá bán lẻ được định
hướng vận hành theo cơ chế thị trường. Các nghị định lần lượt ra đời cho phép
doanh nghiệp tự quyền quyết định giá bán. Nhà nước chỉ giữ vai trò kiểm soát và
sẵn sàng can thiệp khi thị trường có biến. Đổi lại, doanh nghiệp phải công khai
cách tính giá và mỗi lần điều chỉnh phải báo cáo Tổ giám sát liên bộ với vai trò
chủ yếu của Bộ Tài chính và Công Thương.
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 15
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
Nhưng việc trao quyền quá lớn cho doanh nghiệp bắt đầu nảy sinh bất cập.
Thị trường tiếng là có tới 11 doanh nghiệp cạnh tranh nhưng thị phần khống chế
lại rơi vào tay 4 ông lớn, trong đó Petrolimex với vai trò đầu tàu. Với lợi thế xuất
phát điểm ban đầu là hạ tầng kỹ thuật, mạng lưới phân phối, rộng khắp, vốn đầu
tư..., Petrolimex có lợi thế cạnh tranh hơn hẳn các doanh nghiệp còn lại.
Kết quả là, các nhà nhập khác luôn phải "chạy theo" anh lớn kể cả về giá bán lẫn
định hướng kinh doanh, trong khi xuất phát điểm của họ lại thấp, vốn cũng mỏng
hơn. Vì vậy,người tiêu dùng không có bất cứ sự lựa chọn nào về sản phẩm, chất
lượng cũng như giá cả...
Còn doanh nghiệp suốt nhiều năm vẫn bài ca lỗ để chủ động xin tăng giá
mỗi khi thị trường thế giới biến động mà bỏ qua yếu tố cốt lõi là giá cơ sở cần
được tính trong 30 ngày lưu thông. Ngược lại khi giá thế giới giảm, chưa một
lần, doanh nghiệp đề xuất xin giảm giá bán lẻ theo.
Trong năm 2010, Bộ Tài chính ít nhất 2 lần ra văn bản yêu cầu doanh nghiệp
giảm giá bán lẻ. Sự hỗn loạn của thị trường xăng dầu hiện tại được giới chuyên
gia nhìn nhận là tất yếu xảy ra trong bối cảnh chính sách điều hành rất nửa vời,
"trả giá về thị trường" nhưng lại chưa tạo ra một thị trường cạnh tranh thực sự.
Doanh nghiệp không được tự do định giá theo thị trường để "có lên, có xuống".
Trong khi họ lại phải thực hiện yêu cầu đảm bảo nguồn cung và không được
phép ngừng bán, dù rằng làm như vậy là sẽ lỗ.
Lãnh đạo một doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối chia sẻ: Nghị định 84
cho phép doanh nghiệp được tự quyết định giá bán lẻ xăng dầu, thế nhưng từ khi
có cơ sở pháp lý này chưa khi nào doanh nghiệp được tự định đoạt giá bán.
Các doanh nghiệp sẽ định giá như sau: Giá cơ sở sẽ được xác lập để hình
thành nên “giá bán lẻ xăng dầu”. Giá cơ sở là tổng của các khoản như sau: Giá
CIF (tức giá xăng dầu thế giới theo công bố trên tờ Plalt’s Singapore được tính
bình quân của số ngày dự trữ lưu thông theo quy định cùng với chi phí phát sinh
để đưa sản phẩm về đến cảng) cộng với thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, tỷ
giá ngoại tệ, thuế VAT, phí xăng dầu, mức trích quỹ bình ổn giá, các loại thuế,
các khoản trích nộp khác theo luật định, chi phí kinh doanh và lợi nhuận định
mức…
Mọi biến động của mức giá này sẽ được coi là căn cứ để doanh nghiệp
tăng hay giảm giá bán lẻ xăng dầu trên thị trường. Như vậy, khi “giá cơ sở” giảm
từ trên 3 đến 12%, Doanh nghiệp phải giảm giá bán lẻ với mức không thấp hơn
50% của mức giảm giá cơ sở. Ngược lại, nếu giá cơ sở tăng từ trên 3 đến 12%,
Doanh nghiệp cũng được đề xuất tăng giá bán lẻ với điều kiện không vượt quá
50% của mức tăng giá cơ sở.
Lâu nay, dư luận luôn đặt nghi vấn về sự minh bạch của cơ chế tính giá
bán lẻ xăng dầu. Dù có đến 11 doanh nghiệp tham gia nhập khẩu nhưng trên thực
tế, cả nước vẫn chỉ áp một loại giá cho xăng dầu bán lẻ. Đây là điều thậm vô lý,
chứng tỏ, ngành kinh doanh xăng dầu chưa thực sự được điều hành theo cơ chế
thị trường như định hướng của Chính phủ. Người tiêu dùng (NTD) vẫn chưa có
quyền được lựa chọn và luôn luôn bức xúc, mỗi khi giá dầu thế giới tăng, doanh
nghiệp vội vàng tăng ngay giá bán lẻ. Mặc dù, lúc buộc phải giảm giá, doanh
nghiệp lại giảm nhỏ giọt, từ từ.
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 16
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
Số liệu thống kê cho thấy 06 tháng đầu năm 2009, tiêu thụ xăng dầu giảm
6% so với năm 2008. Có nhiều lý giải cho con số này, cơ bản nhất là lý do sản
xuất suy giảm nên giảm tiêu dùng nhiên liệu. Nhưng trong thực tế, sản xuất công
nghiệp và nhiều lĩnh vực khác vẫn tăng nên tiêu thụ xăng dầu không thể giảm.
Vấn đề này có thể lý giải sau:
Do thị trường xăng dầu Việt Nam không có cạnh tranh. Tuy có hơn 11
doanh nghiệp nhưng đều thống nhất chung một giá bán. Thị trường do Tổng
Công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) áp đảo. Bất kỳ một doanh nghiệp nào
muốn cạnh tranh về giá đều không có khả năng thắng.
Cơ chế điều hành giá xăng dầu hiện nay căn cứ vào lỗ, lãi từng lít của
Doanh nghiệp là chưa phù hợp. Thứ nhất, doanh nghiệp có quá trình nhập khẩu,
dự trữ dài, hạch toán sau một thời gian. Thứ hai, doanh nghiệp kinh doanh nhiều
mặt hàng khác nhau; lỗ, lãi của các mặt hàng bù chéo cho nhau. Do đó, mức lỗ,
lãi của mỗi doanh nghiệp phải tính trên tổng thể, không phải căn cứ lỗ, lãi từng
lít để cho tăng hoặc giảm giá bán. Mức lỗ, lãi được tính từ giá bán đến chi phí
đầu vào. Gần đây, sự thiếu ổn định về thuế nhập khẩu, trả nợ ngân sách... làm
vênh giữa chi phí đầu vào của doanh nghiệp trong những thời điểm khác nhau.
Nếu lách được lỗ hổng này, doanh nghiệp có thể thu lợi nhuận lớn.
Liên quan đến chi phí của doanh nghiệp như định mức hao hụt, chi phí đại
lý..., lâu nay chúng ta không rà soát chặt chẽ, kể cả khi có kết quả kiểm toán để
làm rõ lỗ, lãi là do giá bán lẻ chậm điều chỉnh hay chi phí bất cập. Trong đó có cả
chi phí lương, vốn, rủi ro tỉ giá hối đoái và các chi phí sản xuất khác. Tóm lại, hệ
thống xuất nhập khẩu xăng dầu chưa được hạch toán và đối xử giống một doanh
nghiệp đang kinh doanh trên thị trường với một mặt hàng chiến lược đặc biệt.
Thay vào đó, doanh nghiệp xăng dầu gần như là một bộ phận nối dài của cơ quan
quản lý Nhà nước.
Tuy nhiên, việc doanh nghiệp khi muốn tăng giá phải đăng ký trước 3
tháng: tại sao chúng ta vẫn lúng túng trong điều hành giá xăng dầu? Nguyên nhân
sâu xa vì trong cơ cấu giá xăng dầu, khoảng 50% là thu về ngân sách Nhà nước
(thuế xuất nhập khẩu và các khoản thu khác). Tỉ lệ thu về ngân sách khá lớn nên
việc lấy giá xăng trong nước so sánh với giá của nước khác không hẳn đã hợp lý
do mức thu về ngân sách của mỗi nước khác nhau nên tác động trực tiếp đến giá
bán lẻ khác nhau. Hơn nữa, Việt Nam lại có dầu thô. Thông qua mức thu ngân
sách, Nhà nước điều chỉnh được giá xăng dầu vì lợi ích của cả ba bên: Nhà nước,
doanh nghiệp và người dân. Vì vậy, “thả” giá xăng về cơ chế thị trường không có
nghĩa là để Doanh nghiệp được hoàn toàn quyết định giá bán thế nào cũng được.
Một lý do khác để không “thả” giá xăng dầu: Đây là mặt hàng có tác động
đến tất cả mọi lĩnh vực của nền kinh tế và đời sống. Vấn đề là Nhà nước quản lý
giá bằng biện pháp gì, ở mức độ nào để không làm méo mó thị trường. Kinh
nghiệm từ một số nước trên thế giới cho thấy doanh nghiệp muốn tăng giá phải
đăng ký trước 3 tháng. Đó là một cách quản lý tốt, khác với Việt Nam vài ngày
lại điều chỉnh hoặc bắt tăng, giảm. Tư duy của doanh nghiệp Việt Nam là tăng
giá mới có phát triển nên càng không thể không có sự can thiệp của Nhà nước.
Một điểm rất đáng lưu ý là lâu nay, người dân luôn phản ứng với việc tăng giá
xăng vì thông tin về cơ cấu giá xăng còn mù mờ. Họ thấy chính sách điều hành
giá hình như chỉ vì quyền lợi doanh nghiệp, vì cơ chế của mình mà không có
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 17
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
tiếng nói của người tiêu dùng. Cần đưa ra một cơ chế công khai tăng giá xăng
dầu do những nguyên nhân nào, giảm do nguyên nhân nào để người dân yên tâm
rằng có lúc doanh nghiệp hoặc Nhà nước cũng phải tạm thời hy sinh quyền lợi.
Như thế người tiêu dùng sẽ có niềm tin và không quan tâm đến giá xăng nữa.
2.3. Ảnh hưởng của giá xăng dầu đến nhà sản xuất và người tiêu dùng
Có thể nói rằng, việc tăng giá xăng dầu không đem lại lợi ích cho kinh tế
Việt Nam. Theo lý thuyết, một sự gia tăng mạnh giá xăng dầu có thể tạo ra gánh
nặng đối với nền kinh tế theo hai cách thức khác nhau, tùy thuộc vào mức độ mà
một quốc gia phụ thuộc vào xăng dầu nhập khẩu và việc tiêu thụ xăng dầu tương
đối so với tổng sản phẩm quốc dân.
Thứ nhất, việc giá xăng dầu cao và ngày càng tăng làm giảm mức sống
của dân cư xuống dưới mức lẽ ra đã có thể đạt được do tổng tiêu dùng cho sản
phẩm xăng dầu tăng lên tương đối so với thu nhập (ước tính sự gia tăng giá xăng
tại Việt Nam khiến cho mỗi cá nhân sử dụng phương tiện xe gắn máy mỗi tháng
phải chi thêm bình quân khoảng 30.000 - 40.000 đồng so với trước; hơn nữa, mặt
hàng xăng dầu tương đối không co giãn so với giá - nghĩa là giá tăng nhưng
người sử dụng phương tiện vận tải cơ giới vẫn phải sử dụng do không có nhiên
liệu khác thay thế, do vậy khi giá xăng dầu tăng thì người tiêu dùng có ít thu
nhập hơn dùng để chi tiêu cho các hàng hóa khác).
Thứ hai, sự gia tăng này tác động đến nền kinh tế theo các cách thức mà rất
khó để các nhà hoạch định chính sách có thể quản lý được: một mặt, sự gia tăng
giá xăng dầu tạo áp lực gây ra lạm phát thông qua hiện tượng giá cánh kéo. Do
xăng dầu là yếu tố đầu vào của hầu như tất cả các ngành kinh tế khác, nên giá
đầu vào tăng, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, sẽ kéo theo giá đầu
ra sản phẩm tăng lên dẫn đến chỉ số giá cả nói chung gia tăng, ảnh hưởng đến sức
mua của xã hội và gây ra áp lực lạm phát. Chi phí sản xuất tăng sẽ tác động đến
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Ngoài ra, còn không ít những chiêu thức mà đại lý sử dụng móc túi người
tiêu dùng trong lĩnh vực xăng dầu như; gian lận trong đo lường và kinh doanh
sản phẩm xăng dầu. Đây là thực trạng mà nhiều năm qua người tiêu dùng Việt
Nam đã phải gánh chịu. Năm 2008, giá xăng trong nước gặp nhiều biến động do
tình hình thế giới càng khiến nhiều gian thương gia tăng hành vi “ móc túi ”
khách hàng bằng nhiều thủ đoạn tinh vi hơn.
Theo một số thống kê chưa chính thức, những kiểu đong thiếu xăng, gắn
chíp điện tử, pha xăng dỏm… đã khiến người tiêu dùng thiệt hại với giá trị ước
tính lên đến vài trăm tỷ đồng. Cũng trong năm nay, các cơ quan thông tấn báo chí
đã đồng loạt lên tiếng phê phán các hành vi gian lận trong đo lường xăng dầu,
đồng thời Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam kiến nghị truy tìm và xử lý hình
sự đối với những tổ chức, cá nhân buôn bán, cung cấp những thiết bị, phụ kiện
tiếp tay cho việc thực hiện gian lận thương mại.
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 18
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP
- Chia nhỏ Petrolimex. Giải pháp này có thể ảnh hưởng đến hoạt động của
Petrolimex và có vẻ khó thực hiện được vì lý do (thậm chí là cái cớ) bảo đảm an
ninh năng lượng quốc gia.
Giải pháp thứ hai là cố định thị trường của Petrolimex ở mức 55% bằng các rào
cản hành chính để doanh nghiệp (DN) này bảo đảm mục tiêu an ninh năng lượng.
Trong khi đó, tạo điều kiện để các DN khác chiếm 45% thị phần còn lại, đặc biệt
là các DN nhỏ nhất ở phân khúc 10% được cạnh tranh để nâng dần thị phần.
Thay vì có giá bán cố định theo Petrolimex, các DN này có giá bán thấp hơn và
cạnh tranh với nhau về giá. DN có giá tốt sẽ được ưu đãi bằng quyền mở cây
xăng, cấp hạn ngạch (quota).
- Thông qua sự cạnh tranh lành mạnh này, DN nhỏ sẽ tăng dần thị phần,
khiến thị phần của Petrolimex dần bị thu hẹp lại. Cơ chế này cũng khuyến khích
DN nâng cao năng suất, tăng khả năng quản trị kinh doanh để có điều kiện giảm
chi phí, tiến tới giảm giá thành. Lúc đó, Petrolimex có tính chất là DN công ích
nhiều hơn, hoạt động vì mục đích bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, giá bán
của Petrolimex là giá tham chiếu cho thị trường. Đây là bài học thành công từ thị
trường viễn thông Việt Nam hơn 10 năm trước.
Nhà nước cần tiến hành cổ phần hóa Petrolimex ở khâu phân phối, còn
khâu nhập khẩu vẫn phải duy trì độc quyền vì trong ngắn hạn, thị trường xăng
dầu Việt Nam chưa thể có cạnh tranh tự do. Không cần thiết phải có những DN
kinh doanh xăng dầu lớn của Nhà nước mà cần tạo điều kiện để mọi thành phần
kinh tế đều có quyền tham gia thị trường này nếu tuân thủ tốt các điều kiện giấy
phép. Cần xóa bỏ hoàn toàn hạn ngạch nhập khẩu xăng dầu, tất cả các DN có đủ
điều kiện đều được nhập khẩu với số lượng không hạn chế. Đồng thời khuyến
khích các DN trực tiếp nhập khẩu từ bất cứ thị trường nào có lợi.
Với cơ chế hiện nay, dù giá thế giới lên cao hay xuống thấp thì lợi ích
chung của xã hội đều bị thiệt hại. Cụ thể, khi giá thế giới xuống thấp, giá bán
trong nước thường không được điều chỉnh mà lại tăng phần thu của Nhà nước
thông qua tăng thuế nhập khẩu và các khoản thu khác, thậm chí để DN có thể bố
trí trả những khoản được Nhà nước bù lỗ trước đó. Ngược lại, khi giá thế giới lên
cao, giá trong nước lại được điều chỉnh lên ít hơn và Nhà nước lại phải cắt giảm
các khoản thu, có khi phải hỗ trợ tài chính thông qua DN (bù lỗ).
Về nguyên tắc, lợi ích của DN kinh doanh xăng dầu xung đột với lợi ích
của người tiêu dùng nên Nhà nước phải đảm nhiệm các vai trò điều hòa để giảm
xung đột. Muốn vậy, trong kinh doanh và điều hành giá xăng dầu, lợi ích của Nhà
nước không được gắn với lợi ích của DN cũng như của người tiêu dùng. Trong
cơ cấu giá bán lẻ xăng dầu Việt Nam hiện nay, giá vốn chiếm 53% - 66%, các
khoản thu của Nhà nước chiếm khoảng 30% - 42%, phần còn lại là chi phí kinh
doanh và lợi nhuận của DN (khoảng 4% - 5%).
- Nhà nước cần xác định rõ và bóc tách giữa 2 nhiệm vụ về bản chất khác
hẳn nhau là: Kinh doanh xăng dầu như mục đích tự thân của các doanh nghiệp
kinh doanh xăng dầu, với việc dự trữ xăng dầu bảo đảm an ninh năng lượng như
một mục tiêu chính trị quốc gia.
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 19
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
- Nhà nước cần xác định được giá sàn và giá trần trên cơ sở phân nhóm
đúng vai trò của từng nhân tố cấu thành giá bán lẻ xăng dầu.
- Nhà nước cần cho phép tự động điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu theo xu
hướng và cạnh tranh thị trường, đồng thời tăng cường các chế tài của Nhà nước
và giám sát xã hội.
- Thúc đẩy quá trình tự do hoá kinh doanh xăng dầu, tạo cạnh tranh lành
mạnh đầy đủ trên thị trường bán buôn và bán lẻ xăng dầu Việt Nam. Khi đó, Nhà
nước vẫn thu được thuế, các doanh nghiệp có thêm động lực và cơ hội đầu tư
phát triển, còn người tiêu dùng thì được lợi cả về chất lượng dịch vụ và giá cả do
các “nhà xăng’ cung cấp.
- Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành kiểm toán toàn diện
và khách quan các chi phí kinh doanh hiện hành và chuẩn mực của các hoạt động
kinh doanh xăng dầu, lập và công khai hoá cơ sở dữ liệu có liên quan (giá mua,
chi phí vận tải, duy trì hệ thống dự trữ và phân phối xăng, lợi nhuận định mức và
các nghĩa vụ tài chính của kinh doanh xăng dầu…), để các cơ quan chức năng và
giới tiêu dùng có cơ sở khoa học minh bạch cho việc tính và kiểm tra “giá chuẩn”
trên thị trường kinh doanh xăng dầu trong nước.
- Các cơ quan chức năng nên thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc chấp
hành chính sách pháp luật trong hoạt động sản xuất kinh doanh xăng dầu đối với
các doanh nghiệp nhằm đảm bảo sự công bằng cho doanh nghiệp và người tiêu
dùng.
- Pháp quy hoá các quy định và yêu cầu quản lý nhà nước có liên quan đến
chất lượng, định giá và quản lý giá xăng dầu, bảo đảm cạnh tranh tự do và minh
bạch về giá cả, cũng như tạo các căn cứ ổn định và thuận lợi cho hình thành và
dự báo giá xăng dầu theo sát các động thái thị trường và giảm thiểu các “thắc
mắc”, đoán mò và tin đồn thất thiệt trên thị trường này.
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 20
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
Chương 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
Có thể nói độc quyền trong việc kinh doanh xăng dầu là một cấu trúc thị
trường không tối ưu đối với xã hội, sự xuất hiện và tồn tại của độc quyền làm cho
thị trường vận hành kém hiệu quả, nguồi tài nguyên xã hội không được phân bổ
tối ưu, làm cho xã hội bị thiệt hại. Vì vậy, việc sử dụng nguồn lực phát triển kinh
tế không đạt hiệu quả, các lợi ích đạt được phần lớn thuộc về nhà độc quyền.
Các công ty kinh doanh trong lĩnh vực xăng dầu trong nước được hình
thành và phát triển là do lịch sử để lại. Vì các công ty này vừa thực hiện chức
năng kinh doanh của mình và vừa đảm bảo dự trữ năng lượng cho quốc gia, thực
hiện nhiệm vụ chính trị nhà nước giao. Mặt khắc, các công ty này được thành lập
theo quyết định hành chánh, chứ không thông qua hình thức cạnh tranh độc
quyền. Mặt dù độc quyền của ngành xăng dầu đã có một số tác dụng tích cực
nhất định đối với phát triển đất nước như: tạo ra lợi thế về qui mô sản xuất lớn,
về hiệu quả đầu tư tập trung, về an ninh năng lượng quốc gia,… tuy nhiên, bên
cạnh đó chúng ta đều có thể nhận thấy các hạn chế và tác hại của hành vi lạm
dụng độc quyền đối với toàn bộ nền kinh tế, mà nổi bật là làm tăng giá cả của các
yếu tố đầu vào dẫn đến đời sống người dân bị ảnh hưởng. Điều này không chỉ
gây thiệt hại cho khách hàng mà còn gây ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh
doanh.
Khi độc quyền xảy ra thì người tiêu dùng và nhà sản xuất phải chấp nhận
trả ở một mức giá nào đó do nhà độc quyền quy định vì xăng dầu là mặt hàng
không thể thiếu để phục vụ đời sống người dân và phục vụ cho sản xuất kinh
doanh. Chưa công khai chi phí sản xuất một cách minh bạch, vấn đề định giá
xăng dầu chưa đúng còn nhiều chi phí ảo buộc người tiêu dùng phải gánh chịu.
4.2. Kiến nghị
-Tạo cơ hội bình đẳng, không phân biệt đối xử, các doanh nghiệp được tự do
cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật.
-Nhà nước bảo vệ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh, khuyến khích
cạnh tranh lành mạnh.
-Ngăn chặn hành vi phi cạnh tranh, hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành
mạnh.
- Tìm hiểu những khó khăn của những đối tượng bị ảnh hưởng khi giá xăng dầu
tăng để đưa ra những chính sách phù hợp.
- Tìm và nghiên cứu các nguồn năng lượng thay thế dầu mỏ như: năng lượng sinh
học, năng lượng nguyên tử…
- Tăng cường về quản lý xăng dầu, tránh trường hợp tăng giá bất hợp lý của các
doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và có những hình thức xử lý thích đáng khi
các doanh nghiệp này vi phạm.
- Nên kiểm soát chặt chẽ việc định giá đối với một số sản phẩm dịch vụ hiện nay
còn độc quyền như điện, vận tải, viễn thông, hàng không, để giá giảm xuống
ngang mức trung bình cùng loại của các nước khu vực.
-Để tăng tính cạnh tranh, hạn chế và từng bước xoá bỏ độc quyền kinh doanh nên
tạo điều kiện thành lập các doanh nghiệp mới tham gia kinh doanh trong các lĩnh
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 21
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
vực điện, vận tải, viễn thông, hàng không và nên tiến hành kiểm toán định kỳ đối
với doanh nghiệp nhà nước còn độc quyền .
- Giảm dần những đơn vị hoạt động không hiệu quả, không có khả năng phát
triển nhất là doanh nghiệp nhà nước, mà trước nay được bao cấp dưới nhiều hình
thức như khoanh, xoá nợ, cho vay ưu đãi... thì nên thực hiện bán, khoán, cho
thuê, giải thể, phá sản.
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 22
Tiểu luận môn kinh tế vi mô
GVHD: Nguyễn Hoàng Trung
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1-Ts Lê Khương Ninh, 9/200, Kinh tế học vi mô
2-Ts Lê Bảo Lâm, NXB Thống kê ,10/99, Kinh tế vi mô
3-Công báo, số 1/01/2005, Luật Cạnh tranh
4-Báo Tuổi Trẻ, báo Đầu Tư, báo Lao Động
5-Wesite:
www.mpi.gov.vn, www.vinaseek.com, www.cvp.gov.vn,
/>
SVTH: Nguyễn Văn Hòa
Trang 23